THIỀN: NHIỀU CÁCH NHÌN VÀ CŨNG NHIỀU CÁCH DÙNG
Minh Thạnh
Một bạn đọc, trong lời thư phản hồi, có đề nghị tôi có ý kiến
về việc một sư cô thuyết giảng đề tài “Hơi thở nhiệm mầu” tại Trung tâm
Mục vụ TPHCM.
Đây
là việc một tu sĩ Phật giáo thuyết giảng cho đối tượng là người của tôn
giáo khác, tại một cơ sở của một tôn giáo khác. Vì vậy, nó nằm ngoài giới hạn mà tôi đã xác định, là chỉ nói đến những việc khi có những tác động từ những tôn giáo khác đối với Phật giáo, tôn giáo của tôi, và không đề cập đến việc của tôn giáo khác.
Do vậy, dù có những suy nghĩ riêng, nhưng bài viết này được trình bày theo một phương cách tế nhị.
Những
việc có liên hệ đến tôn giáo khác tôi sẽ cố gắng giới hạn trong việc ghi nhận lại một số sự việc, không đi sâu vào bình luận.
Bạn đọc có thể từ đó suy ra một số kết luận cần thiết.
1) Đối với đạo Phật, việc thuyết pháp, hoặc thuyết giảng những đề tài có liên hệ đến chính pháp, đều là hoằng pháp, là việc nên làm, không phân biệt đối tượng, thành phần xã hội, chính kiến, tôn giáo…
Nay,
khi một tôn giáo khác có lời mời thuyết giảng, mong được nghe những vấn
đề có liên hệ đến Phật pháp, ở đây là quan niệm và cách tu tập đối với
hơi thở trong đạo Phật, thì là điều đáng hoan nghênh, và việc làm của sư cô được ghi nhận trong bài viết về sự kiện này xứng đáng được đồng tình và tán thán.
2) Chỉ giới hạn vấn đề trong việc một tôn giáo này quan tâm tìm hiểu một nội dung có liên hệ đến giáo lý một tôn giáo khác cũng là điều có thể hiểu được và chia sẻ. Nhưng lưu ý, vấn đề cần được giới hạn trong phạm vi như trên, chưa nói tới việc tìm hiểu để làm gì, từ động cơ gì, vì mục
đích gì, để dùng vào việc gì…
3) Thông tin đầu tiên xin được ghi nhận là bài viết cũng về sự kiện nói trên đăng trên trang Thời sự Phật pháp có nhan đề “Buổi thuyết trình “Hơi thở nhiệm mầu” tại trung tâm mục vụ Sài Gòn” của tác giả Tạ Ân Phúc đã viết rất khác với nội dung được đăng trên Phattuvietnam.net.
Bài của Tạ Ân Phúc viết như sau: “Từ
thưở tạo dựng, “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người,
thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (x St 2,7), sự sống con người có được là do ân ban của Thiên Chúa. Hơi thở con
người là một điều hiển nhiên không thể chối cãi, thế nên đôi khi người ta không còn chú ý đến nữa và quan tâm đến nhiều điều được cho là đáng lo toan hơn trong cuộc sống. Nhưng điều chỉnh hơi thở và rèn luyện đúng cách sẽ làm cho người ta khỏe mạnh hơn và tâm hồn thư thả, thoải mái hơn
qua việc tập thể dục, tập yoga, thiền”.
Cách đặt vấn đề như vậy là khẳng định ý thức “Hơi thở nhiệm mầu” là ý thức về giá trị Thiên Chúa ban cho. Ý thức có tính chất căn bản này hoàn toàn khác với tinh thần của Phật giáo.
Như vậy, người tiếp nhận ở đây tiếp nhận “Hơi thở nhiệm mầu” không phải là tiếp nhận Phật pháp.
Sau đó, bài viết nói trên cũng đi tới ý xác định lại thiền không phải là đặc trưng của Phật giáo:
“Thiền
bắt nguồn từ nền minh triết Ấn Độ rồi lan truyền sang nhiều nước, dù người ta thường nghĩ rằng nó gắn liền với Phật giáo. Thực vậy, qua những
giao thoa văn hóa, thiền biến thái thành nhiều môn phái, ngay Thiền Tông Trung Hoa, mà người Việt quen thuộc, cũng chia ra nhiều phái, vì vậy không thể đưa ra một dạng cụ thể nào làm mẫu mực khi nói về thiền.
Từ
lâu thiền cũng đã xâm nhập vào Kitô giáo, Thiền Kitô giáo chính là dạng
thiền của Đông Phương phối hợp với lối chiêm niệm của các ẩn sĩ Kitô giáo trong thế kỷ III. Linh hồn Kitô hữu phải gặp Chúa của mình. Thiền là cách giữ tâm thanh tịnh và trong sạch, là chiêm niệm trong im lặng, là cách cầu nguyện với kinh vô thanh.
Mục
đích của thiền là giúp người ta cởi bỏ những gì thuộc thế giới ảo ảnh, vén tấm màn che giấu để năng lực sống của Thiên Chúa truyền vào chúng ta. Hữu thể của ta đã nối kết với Thượng Đế ở một nơi ngoài tầm của ngôn
ngữ, của lý trí và của những thực thể. Thiền không phải là làm một việc
gì. Không phải là tu luyện để trở thành một nhân vật khác.
Thiền là trở thành chính mình: sinh ra bởi Chúa Cha, được cứu chuộc bởi
Chúa Giêsu, là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Sau một thời gian “tu thân”
chúng ta mới hiểu ích lợi của thiền. Như kho tàng giấu trong ruộng, bản
tính đạo đức ẩn khuất từ từ khai triển và mở ra.
Chẳng
hạn ta tự nhiên có lòng bác ái, điều mà ta đã cố gắng lập đức từ lâu mà
không sao thể hiện được. Sự diễn biến xảy ra rất tự nhiên trong khi ta không biết tại sao. Chính Thiên Chúa đã thanh lọc tâm hồn ta trong những
lần ta đến an trú trong Người. Vào mỗi buổi sáng, sau khi chìm trong thiền định, sự thanh tịnh tồn tại bao phủ tâm hồn ta suốt cả ngày. Mọi việc tầm thường ta làm trong ngày đều có ý nghĩa hơn, vì ta có cảm nhận Thiên Chúa đứng đàng sau mọi việc. (Trích từ Thiền Kitô giáo, Đỗ Trân Duy, http://www.daminhvn.net/tai-lieu/490-thien-kito-giao)”
Bài viết trên được đăng trên một trang nói là Phật giáo, nhưng ghi chú như trên với đường dẫn đến trang www.vietcatholic.net
4) Cùng lúc với việc đăng tải các bài viết về việc này, đài RFA có phát một chuyên đề về Thiền, nhưng những thiền sư không phải là những tu sĩ Phật giáo. Bài phát thanh có nhan đề “Thiền định bồi dưỡng sức khỏe”, lời nhập đề là “Cùng với Yoga, Thiền định cũng là một phương cách giúp tinh thần được thư giãn”.
Cũng có thể hiểu là công cụ dùng để thư dãn, và chỉ thư giãn mà thôi.
Bài
phát thanh không hề nhắc đến một chữ “Phật”, chỉ dẫn chủ yếu lời của 2 bác sĩ: Bác sĩ Trương Thìn, cựu Giám đốc Viện Y học Dân tộc TPHCM và bác
sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng, Chủ tịch Hội Dinh dưỡng TPHCM.
Và xin nhắc lại, bài viết có nói đến những thiền sư: “Vào đầu thế kỷ 20, những thiền sư bắt đầu thử nghiệm thực hành thiền để tâm lắng đọng và tâm – thân được thông suốt”. Không có một vị tu sĩ Phật giáo nào được nhắc đến. Và “Vào đầu thế kỷ 20, những thiền sư bắt đầu thử nghiệm thực hành Thiền” thì thiền sư là… bác sĩ.
Thiền
đầu thế kỷ XX và “Thiền sư” kiểu đó chắc chắn không liên quan gì đến Phật giáo tôn mà vị giáo chủ đắc đạo bằng Thiền định từ năm 2500 năm trước.
Bài phát thanh này không liên quan gì đến một tôn giáo nào khác, vì vậy, tôi có thể bàn luận sâu hơn.
Mục
đích của bài phát thanh là lấy thiền ra khỏi Phật giáo, loại trừ Phật giáo ra khỏi thiền và miêu tả thiền như một phương thức chữa bệnh vật lý
“vào đầu thế kỷ XX”, và hiện nay, những thiền sư chủ chốt là… bác sĩ. Mọi việc ở đây rất rõ ràng.
Điều
này, phản ánh một xu thế hiện nay, lấy cắp thiền ra khỏi Phật giáo. Nó là công việc mà bà Thanh Hải đã làm từ trước và khá là thành công.
Bà ta thọ giới, làm ni cô, học thiền từ chư thiền đức ni ở Đài Loan. Nhưng rồi xưng là tự khai ngộ, được ân điển của Thiên đàng (Heaven) rồi giáo hóa phương pháp Quán Âm riêng của bà (Quan Yin Method), hầu như không liên hệ gì đến đạo Phật và từ “Quán âm” thường được thể hiện như một dạng đồng âm với từ vựng Phật giáo.
Và
cuối cùng là kiểu “thiền” riêng do Thanh Hải Vô thượng sư hướng dẫn sau
khi thọ Tâm Ấn của bà ta, còn đạo Phật cũng như những tôn giáo khác, chỉ để tham khảo.
Người
ta cố ý “giựt” thiền ra khỏi Phật giáo để làm gì? Câu trả lời rất đơn giản, vì thiền là một giá trị của Phật giáo, một bảo vật của Phật giáo.
Muốn
Phật giáo không còn giá trị nữa thì phải lấy đi bảo vật đó, biến nó thành một thứ vật lý trị liệu “vào đầu thế kỷ XX”, hay do Thanh Hải Vô thượng sự khai ngộ…
Chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập cái cách làm tương tự bài viết “Thiền định bồi dưỡng sức khỏe” hay từ “lời pháp cam lồ”
của Bà Thanh Hải để lấy ra khỏi Phật giáo những bảo vật giá trị khác của Phật giáo trong những bài viết tiếp theo về kỹ thuật cải đạo tín đồ Phật giáo.
Minh Thạnh (Phattuvietnam.net)
Ý KIẾN PHẢN HỒI:
Đức Quy
vào lúc 31/03/2011 05:24
Ngay từ lúc đọc tin sư cô thuyết giảng tại trung tâm Mục Vụ là tôi đã có ý nghi ngờ.. vì tôn giáo bạn không đơn giản như vậy.
Vatican không hề đơn giản…và họ rất chịu học hỏi từ các tôn giáo khác chứ không bao giờ chịu đóng khung.
Anh Minh Thạnh nêu vấn đề này hết sức chính xác . Cám ơn anh nhé
thành
vào lúc 31/03/2011 07:04
Gần đây, trên một số trang web có các bài viết với nội dung “khi tập thiền mà không có thiền sư hướng dẫn thì dễ bị tâm thần”. Tôi nghĩ, tôn giáo bạn vì thiếu lòng chân thành học hỏi, tự mua sách thiền để nghiên cứu nên sức khỏe tâm thần của họ có vấn đề. Từ đó, họ có những
tuyên bố đầy mặc cảm (complex)!
Thảo Nguyên
vào lúc 31/03/2011 09:56
Có một ‘tam đoạn luận’ như sau: Thiền do con người sáng lập ra, mà theo họ con người lại do Chúa tạo ra… Thế nên nghiễm nhiên Chúa
tạo ra “thiền”.
Nhưng họ lại nói thiền có ở Ấn Độ trước Phật giáo, mà Phật giáo thì có trước “Chúa” của họ những 500 năm. Vậy thì ở đây thiền chẳng hề dính dáng gì đến Chúa (nói như cư sĩ Minh Thạnh là tự vơ vào). Còn thiền Phật
giáo khác xa với Yoga, hay bất cứ thiền nào của Bà-la-môn, chỉ có những
người không biết gì về thiền Phật giáo mới nói như vậy.
Ở phương Tây, phần đông tiếp nhận thiền theo cách hiểu là THUỘC VỀ PHẬT GIÁO, chứ không phải là của “Chúa”. Vì nếu nó đúng là “sản phẩm” của Chúa, thì dĩ nhiên, người phương Tây càng không thể tiếp nhận điều này từ Phật giáo. Và nếu nó là của “Chúa” thì vì sao phần đông những nước Phật giáo trên thế giới, người Phật tử vẫn hành thiền hơn hết thảy những
tôn giáo khác. Như thế đã quá rõ ràng, chẳng có thiền nào của Chúa cả, mà chỉ có thiền của Người đã giác ngộ – Đức Phật.
Hành vi thêu dệt chuyện “thiền”, vừa vơ vào làm của mình, vừa lấy nó ra khỏi Phật giáo cũng là hành vi của kẻ ăn cắp.
Xin lấy thêm một ví khác cho sinh động: người theo đạo Chúa nói tin chúa
thì được cứu độ lên thiên đường. Không theo Chúa thì xuống hỏa ngục. Như vậy nhân loại này chỉ có 2 hạng người theo Chúa và không theo Chúa và chỉ có hai hoạt cảnh xảy ra, hoặc lên thiên đường, hoặc xuống đại ngục.
Mà ngày nay thì không ai còn bảo rằng Chúa nặn đất và hà hơi vào để sinh
ra con người, mà con người là do tinh cha noãn mẹ kết hợp mà thành. Như
vậy hàng ngày có hàng trăm nghìn trẻ em ra đời, vậy nó ở trên trời rớt xuống hay từ dưới địa ngục đi lên?
Bỏ qua cái phần vĩnh viễn ở “địa ngục” của những người chẳng hề tin Chúa
quyền năng ra một bên, chỉ tính những người được buộc phải lên trời (thiên đường), chắc khó chịu lắm, bị bạo hành dữ lắm thì mới cố gắng đi xuống trần gian để làm người (cho sướng). Chứ cứ đi hết lên và rơi hết xuống thì những người hàng ngày được sinh ra, họ từ đâu đến nhỉ?
Nếu những người hàng ngày được sinh kia là từ ở đia ngục đi lên thì điều này càng đáng quý.
Nói tóm lại, những hành động lươn lẹo trong lý giải và ăn cắp một cách trắng trợn giáo lý của người khác luôn là biểu hiện của những kẻ không đàng hoàng.
Chúng ta nên tránh xa những lời mời thuyết giảng kiểu này, vì đám cuồng tín ấy không những không tin mà còn từ đó học lóm được nhiều điều để gia
tăng cái phần “ăn cắp” của mình, không những thế còn chụp vào những lời
nói sơ hở của những giảng sư để triển khai ý của họ. Chẳng hạn họ sẽ nói suy niệm Công giáo cũng là một hình thức của thiền…
Hơn nữa, hình ảnh sư cô, đại đức ngồi dưới một cây thánh giá có hình Chúa, dẫu gì cũng là một “dụng ý”, “chủ ý” để nhắm đến những cái tưởng chừng như “cởi mở” về cái gọi là “liên tôn”.
Một tôn giáo ra đời sau cả 500 năm, và có văn bản ở phương Tây nói rằng Giê-su từng qua Ấn Độ học lỏm tôn giáo ở đây,cụ thể là Phật giáo, thế mà
họ không biết ngượng khi nói thiền là sản phẩm do Chúa tạo ra.
Kiểu nói ngạo ngược “sinh con rồi mới sinh cha” này chẳng thể đánh lừa được ai trong thế giới văn minh này!
minh ngọc
vào lúc 31/03/2011 15:13
Trước hết là xin cảm ơn bác Minh Thạnh đã có tầm nhìn xa rộng, phân tích rất chặt chẽ âm mưu ăn cắp ” viên ngọc quý” của Phật giáo. Trước đây, trên phattuvietnam.net đã kể câu chuyện có hai vị Phật tử sang nhà thờ học thiền nhưng không theo đạo. Từ học thiền đến học đạo
là một bước rất ngắn. Hai sự việc này tuy nhỏ nhưng hệ quả của nó không
nhỏ chút nào. Mong rằng các Tăng Ni Phật tử lưu ý.
Đọc bản tin về Sư cô Hương Nhũ, tôi rất băn khoăn, lo lắng. Vui thì ít mà lo thì nhiều. Ki tô giáo đâu hề đơn giản nhưng chúng ta tưởng.
Từ trước đến giờ, vấn đề cải đạo không mấy ai quan tâm, rất hời hợt. Có người còn cho là “đạo nào cũng tốt”, ” quý hồ tinh bất quý hồ đa”, chỉ đến khi có sự việc ” ni cô trở lại đạo” thì quả thật như “búa Hộ Pháp giáng xuống” khiến Tăng Ni Phật tử trong và ngoài nước tỉnh mộng. Và ít lâu sau đó lại có sự việc ” sư cô thuyết giảng tại Trung Tâm Mục vụ” được tất cả truyền thông Công giáo đăng tải. Tất cả các ý kiến tán thành
đều là người Ki tô.
Tại sao như vậy? Mọi người có suy nghĩ gì về chuỗi sự việc này không? Có
phải là họ muốn tiếp tục ra ngủ Phật giáo, tiếp tục tiêm “Narcotism” vào để cho chúng ta ỷ lại, tiếp tục ngủ quên? Sự kiện này kiến nhiều người mơ hồ nhận thức “đạo nào cũng tốt”, hai bên ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN rất
hòa bình, làm sao có chuyện cải đạo??? Ở đây là đối thoại liên tôn trong các vấn đề xã hội, hạnh phúc gia đình… khác với LIÊN TÔN CHỐNG CỘNG ở hải ngoại. Tuy nhình thức có khác nhau, nhưng nội dung, mục tiêu sau cùng thì giống nhau.
Không biết bác Minh Thạnh và mọi người có suy nghĩ giống tôi không?
vào lúc 01/04/2011 09:34
CAM ON CU SI MINH THANH DA CHO MOT SO Y KIEN HAY. TUY NHIEN TOI LA MOT NGUOI KHONG CO TON GIAO VA LA NGUOI CO MAT TRONG BUOI THUYET GIANG CUA SU CO HUONG NHU TOI CAM NHAN DUOC SU QUAN TAM VA THICH THU CUA
CU TOA TREN 200 NGUOI DAC BIET LA GIOI TRE. (CHINH TOI LA MOT TRONG NHUNG NGUOI XIN SO DIEN THOAI CUA SU CO DE DUOC TIEP TUC TIM HIEU VE PHAT PHAP SAU MOT BUOI GIANG VE HOI THO NHIEM MAU). BAI CUA TAC GIA TA AN PHUC LA MOT BAI VIET NHAM CHAN THONG TAM THUONG DE QUANG BA THIEN CHUA VAO GIAI DOAN HET THOI VA SE TIEP TUC LAM VU KHI BAO VE CHO CHINH HO VAO LUC GIAY CHET, KHONG PHAI LA BAI TUONG THUAT BAI GIANG CUA SU CO HUONG NHU. CHUNG TA HAY QUAN TAM DEN SO DONG DANG CAN DUOC TIEP NHAN DEN
ANH SANG PHAT PHAP. MOT NGON DUOC SANG KHONG THE TAT DI KHI MOI LUA CHO
NHUNG NGON DUOC KHAC. SU CO HUONG NHU DUNG GIANG O TU THE “TEACHER” CHU
KHONG PHAI DUNG O TU THE CAM TA HONG AN THIEN CHUA. NHUNG THU DOAN CUA CAC KE CAI DAO CHANG THE NAO ANH HUONG DEN CAC HAT NGOC QUY CUA PHAT PHAP, TRAI LAI BANG CACH NAY CACH KHAC, HOI THO NHIEM MAU VAN DE LAI AN TUONG QUA LON LAO CHO NHUNG TIN HUU KITO GIAO TRONG CACH NGHI DOI VOI PHAT PHAP. RIENG TOI, RAT MONG NHUNG SU KIEN TIN HUU KI TO GIAO DEN NGHE
PHAT PHAP. XIN CAM ON PHATTUVIETNAM.NET
Trước
đời Phật Thích Ca, có ông Phất Đang La (Nirgranto Jnati Putra)
đã sáng lập giáo phái Thiền Na, dùng khổ hạnh để tu luyện.
Sau này Phật Thích Ca lập ra sáu thứ Ba La Mật, cái thứ năm
cũng gọi là Thiền Na. Kỳ thực hai chữ Thiền Na chỉ là
một tên gọi thông thường về phương pháp tu luyện.
Ngôn
giáo của Phật Thích Ca bất cứ Đại thừa, Tiểu thừa đều
lấy Tu Thiền làm chủ yếu. Các phái ngoại đạo mỗi mỗi
đều tự lập pháp Thiền của họ. Tên gọi dù đồng nhau,
nhưng tính chất nội dung mỗi mỗi chẳng đồng, như Mười
Hai Tịnh Pháp Thiền của Phất Đang La, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
của Bà La Môn đều khác; nói về Thiền của Phật giáo như
Lục Độ Thiền của Đại thừa, Tứ Đế và Thập Nhị Nhân
Duyên của Tiểu thừa đều khác nhau. Còn Bất Lập Văn Tự
Thiền của Tối thượng thừa, gọi là “Giáo ngoại biệt
truyền”, là do Phật Thích Ca đích thân truyền cho Ma Ha Ca
Diếp, sau đó Bồ Đề Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Phái
Thiền này chỉ chú trọng phương pháp thực hành, chẳng lập
văn tự lý luận, nên gọi là Thiền tông, khác hẳn với các
phái Thiền kia.
Thiền
tông ở Trung Quốc từ đời Đường đến đời Tống rất
là thịnh vượng, truyền đến ngày nay vẫn còn phổ biến
khắp nơi. Cho nên người ta nói đến hai chữ “Tham Thiền”
đều chỉ pháp Thiền của Thiền tông này. Kỳ thật ở trong
Phật giáo, từ Tiểu thừa cho đến Đại thừa, các tông các
phái mỗi mỗi đều có pháp Thiền riêng biệt, lý lẽ và
phương pháp, trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực
mỗi phái mỗi khác. Xét theo lịch sử kể trên, chúng ta muốn
lập ra một định nghĩa chính xác của chữ Thiền thật là
rất khó, nhưng quyển sách này chỉ sáng tỏ về pháp Thiền
của tổ Đạt Ma truyền vào Trung Quốc. Do đó chúng ta chỉ
có thể dựa theo tông chỉ của Thiền tông, giả thiết một
định nghĩa cho chữ Thiền…(http://old.thuvienhoasen.org/duyluc-coinguontruyenthua.htm)
Dưới đây là nguyên văn bài tường thuật buổi thuyết trình của tác giả Tạ Ân Phúc do một Phật tử gửi đến BBT Thư Viện Hoa Sen. Thư Viện Hoa Sen xin đang tải bài viết để rộng đường suy luận:
BUỔI THUYẾT TRÌNH
“HƠI THỞ NHIỆM MẦU”
tại Trung Tâm Mục Vụ Sàigòn
Tạ Ân Phúc
Thở là hít không khí vào lồng ngực, vào cơ thể rồi đưa trở ra qua mũi,
miệng. Thở là thực hiện chức năng hấp thụ oxygen và thải ra khí carbonic. Thở
cũng là điều kiện và biểu hiện của sự sống, người ta có thể nhịn ăn và nhịn
uống trong nhiều ngày, thậm chí cả tháng nhưng không thể nhịn thở quá 5 phút.
Từ thưở tạo dựng, “Đức Chúa
là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (x St 2,7), sự sống con người có được là do
ân ban của Thiên Chúa. Hơi thở con người là một điều hiển nhiên không thể chối
cãi, thế nên đôi khi người ta không còn chú ý đến nữa và quan tâm đến
nhiều điều được cho là đáng lo toan hơn trong cuộc sống. Nhưng điều chỉnh hơi
thở và rèn luyện đúng cách sẽ làm cho người ta khỏe mạnh hơn và tâm hồn thư
thả, thoải mái hơn qua việc tập thể dục, tập yoga, thiền.
Để giới thiệu về cách thức làm điều hòa hơi thở con người trong sự mầu
nhiệm của cuộc sống, chiều thứ Bảy, ngày 19/03/2011, Chương Trình Chuyên Đề, Ban Mục Vụ
Gia Đình TGP. Sài Gòn đã tổ chức buổi nói chuyện đề tài: “HƠI THỞ NHIỆM MÀU” với sự trình bày của Sư cô Thích Nữ Hương Nhũ, Giảng viên Học viện
Phật Giáo Việt Nam
tại TP.HCM.
Sư cô Thích nữ Hương Nhũ đang thuyết giảng
Đến tham dự buổi nói chuyện có một số ni sinh đến từ trường Cao Đẳng
Phật Giáo, tỉnh Đồng Nai và một số Phật tử học trò của sư cô. Hiện diện trong
buổi thuyết trình còn có cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng Ban Mục Vụ Hôn Nhân
Gia Đình, cha Phanxicô Xavie Bảo Lộc, Trưởng Ban Đối thoại Liên Tôn và khoảng
200 khán giả thuộc nhiều thành phần khác nhau.
Ngay trong lời giới thiệu mở đầu cho buổi thuyết trình, Sư cô cho hay
đời sống hiện đại, cuộc sống vật chất tăng lên tưởng chừng như mọi người sẽ
được hạnh phúc. Nhưng thật sự kết quả lại không như mong muốn, vì khắp nơi vẫn
là những tiếng nói của sự khổ đau và con người luôn cần sự thông cảm, chia sẻ.
Tại sao con người đau khổ trong khi có mọi thứ trong tay? Vì người ta luôn nghĩ rằng hạnh phúc đến từ
những gì bên ngoài, là vật chất, tiền tài, địa vị, danh vọng, nghĩ rằng khi có
tất cả những điều đó thì con người sẽ có hạnh phúc. Thật ra, những điều đó
không thể đem lại giá trị hạnh phúc vĩnh hằng mà hạnh phúc phải đến từ nội tâm.
Nếu những giá trị bên ngoài có thể đem lại cho người ta niềm tin, thì có lẽ
không cần đến niềm tin, sự cầu nguyện, không có những buổi họp mặt thân ái vì
đức tin để củng cố những giá trị bên trong.
Sư cô cũng đề cập đến nạn động đất và sóng thần ở Nhật Bản vừa mới xảy
ra làm hơn 6.000 người chết, hơn 10.000 người mất tích (số liệu ngày 19/3) để
nói rằng cho dù là đất nước văn minh hiện đại với những con người thông minh,
giàu có, tài giỏi như thế thì cũng không thể tránh khỏi được tai họa, đau khổ.
Những trận động đất, tai họa xảy ra đây đó trên thế giới là do chính từ thái độ
đối xử với thiên nhiên thật là phủ phàng của con người. Vì vậy, con người ta
cần phải có một thái độ sống, một niềm tin, một tinh thần với tất cả tình yêu
thương trong trái tim mình để hiểu biết và tự xác định mình nên có một thái độ sống
như thế nào.
Mỗi người đều liên quan đến đất mẹ, liên quan với nhau như là một cơ
thể toàn vẹn mà không có sự phân biệt đối xử để rồi gây ra chiến tranh với lòng
tham lam, sân si độc ác. Chính lòng tham con người đã gây ra sự đau khổ cho
chính con người. Sự tài ba, thông minh, giàu có của những đất nước tiến bộ nhất
vẫn không tránh được những nạn tai và bất hạnh.
Hơi thở nhiệm mầu là một phần của sự kết hợp giữa thân và tâm.
Khi thân ở hiện tại mà tâm ở quá khứ, là sự nuối tiếc quá khứ, mang lại sự dằn
vặt đau khổ. Thân ở hiện tại mà tâm cứ vọng tưởng về tương lai, một tương lai
chưa biết sẽ ra sao, thì sẽ đem lại sự trăn trở, âu lo và cả sợ hãi. Có người
dành ra 5 năm, 10 năm để chạy theo mục đích của mình, như một bằng cấp, một tài
sản, một sự nghiệp, nhưng chưa bao giờ được sống vì không biết dừng lại lắng
nghe với hơi thở, với giây phút hiện tại. Chỉ hơi thở nhiệm mầu mới kết nối
giữa thân và tâm, để thấy được giữa thân và tâm chỉ là một mà thôi. Khi hít vào
thật sâu, từ từ thở ra là biết rằng sự sống đang hiện hữu và người ta có thể
hạnh phúc với giây phút hiện tại.
Người ta thường chạy theo những thứ phù du bên ngoài để rồi thất vọng,
khổ đau nên cần có những giây phút nhắc lại nhau tài sản quý giá mình đang có
là hơi thở nhiệm mầu để thấy rằng sự khổ đau vô cùng nhỏ bé so với bao nhiêu
con người bất hạnh, đau khổ hơn ta nếu đời sống không có một niềm tin. Nhưng
không phải lúc nào con người cũng kết nối với hơi thở, kết nối với thiên nhiên
nên đời sống lúc nào cũng khô cằn như sỏi đá, thế nên hơi thở được gọi là nhiệm
mầu là chiếc cầu kết nối giữa thân và tâm nhắc chúng ta hãy an vui trong giây
phút hiện tại, không luyến tiếc quá khứ, không vọng tưởng tương lai.
Giới trẻ tin rằng, những nước văn minh như Nhật Bản, Hoa Kỳ rất giàu có
nên hạnh phúc, nhưng qua các nghiên cứu ở Mỹ, nếu sức mua tăng 16% trong 30 năm qua thì tỷ lệngười tự cho là hạnh phúc giảm từ 36% xuống còn 29%; còn ở Nhật Bản, trong năm
2006, đã có hơn 30.000 người tự tử, và con số này tăng lên hàng năm, ước tính
khoảng 7% mỗi năm. Ở những quốc gia này, con người phải chịu áp lực công việc,
thất nghiệp, thất bại trong thị trường chứng khoán…
Theo nghiên cứu xã hội
học, 75% dân số ở các quốc gia phát triển và yên bình nhất thế giới như Thụy
Sỹ, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan… tự nhận mình có cuộc sống hạnh phúc. Họ có đầy
đủ tiền bạc, đầy đủ điều kiện vật chất, xã hội ổn định, phúc lợi xã hội tốt…
đảm bảo cho cuộc sống “hạnh phúc”, nhưng khi mất đi những vật chất đó, thì họ
lại không còn cảm giác hạnh phúc ấy nữa.
Những người dân Tây Tạng,
Nepal, Ấn Độ… rất nghèo đói nhưng lại luôn lạc quan, yêu đời, vẫn luôn ngập
tràn hạnh phúc… Còn ở Việt Nam, hiện nay người ta cố sức kiếm đồng tiền để
trang trải cuộc sống kể cả quên ăn, bỏ ngủ, thức khuya, dậy sớm, đôi khi sống
mà chưa được sống, cả cuộc đời chạy theo đồng tiền bác gạo, đánh mất cuộc sống,
đánh mất giây phút hiện tại.
Những khía cạnh phức tạp
của cuộc sống là muôn hình muôn vẻ, đó là thất nghiệp, áp lực công việc, giàu
cũng đem lại sự đau khổ, nghèo cũng lắm vấn đề phức tạp. Tất cả những khía cạnh
đó làm cho người ta cảm thấy càng thêm điên đảo. 60% bệnh nhân đến với bác sĩ
do các căn bệnh rối loạn chức năng, suy nhược thần kinh làm cho người ta đau
nhức, kém ăn, mất ngủ… Đó là những căn bệnh có nguyên nhân từ xã hội do người
ta chạy theo những ước muốn giàu có, cám dỗ vật chất… làm cho cuộc đời không có
những giây phút thực sự đang sống.
Người đang an trú trong hơi thở nhiệm mầu tức là thiền định là thở trong chánh niệm, là
biết rằng mình đang nói gì, nghĩ gì, làm gì và việc làm đó có đem lại hạnh phúc
cho người khác hay không. Khi người ta thoải mái thì hơi thở lâng lâng, sảng
khoái. Khi người ta mệt nhọc, rã rời,
lúc như quên thở, lúc thì khi thở hổn hển, hơi
thở nặng nề. Chính hơi thở làm cho người ta biết được trạng thái của thân, để
thấy rằng thân và tâm là một, nếu rời hơi thở ra, hít vào mà không thở ra được
xem như đã chết. Nhưng hầu như người ta quên đi hơi thở nhiệm mầu như thế nào.
Vì sao chúng ta khổ đau
nhiều hơn hạnh phúc? Con người ta chỉ quan tâm
đến những khía cạnh vô cùng phức tạp của cuộc sống, nào là tài chính, nào là
kiến thức, kỹ năng, nghề nghiệp, các mối quan hệ… vì họ cho rằng những điều đó
sẽ đưa đến đỉnh cao, đến hạnh phúc nhưng thật ra người ta vẫn khổ đau nhiều hơn
hạnh phúc. Chúng ta đau khổ vì chỉ muốn lao vào hưởng thụ mà không quan tâm đến
việc tu tập tâm đức. Ít ham muốn, bằng lòng với một nếp sống giản dị và lành
mạnh để có thì giờ sống sâu sắc từng phút giây với hơi thở của sự sống hàng
ngày và chăm sóc thương yêu mọi người, đó là bí quyết của hạnh phúc chân thật.
Đôi khi tri thức, địa vị,
danh vọng, tiền tài vẫn không chinh phục được trái tim con người, chỉ có tình
yêu và trí tuệ mới chinh phục được người ta. Cuộc sống của những người chọn đời
sống tâm linh là mục đích sống của cuộc đời mình hình như không lúc nào ngừng
làm việc, nhưng lúc nào cũng có nụ cười, lúc nào cũng là một sự thanh thản,
bình yên vì bên cạnh những công việc, lòng hy sinh cho tất cả lúc nào cũng tịnh
tâm với hơi thở nhiệm mầu của chính mình.
Để nhận biết cảm xúc đang giận dỗi hay yêu thương hay đang căm thù nếu
dừng lại một chút hít vào thật sâu và thở ra để thấy hơi thở có dễ dàng không,
nếu khó và nghẹn lại nghĩa là mình đang tức, đang giận, đang ham muốn mà không
được thỏa mãn hay đang ích kỷ, đang ghen ghét nên hơi thở không lưu thông một
cách dễ dàng. Người ta thường đau khổ vì không nhìn ra bản thân mình mà chỉ đổ
lỗi cho người xung quanh.
Đau khổ là một vị thầy tốt vì không kinh qua những nổi niềm trăn trở,
băn khoăn, thậm chí thất vọng thì sẽ không thông cảm được sự đau khổ của người
khác. Cuộc sống, dù là người sống đời tu hay sống đời thường, luôn có những đợt
thủy triều dâng cao và hạ thấp và người ta phải tự chiến thắng bản thân mình.
Không kinh qua đau khổ không biết giá trị của hạnh phúc. Trong cuộc sống, người
ta đau khổ vì nhiều lý lẽ, không chỉ có vật chất hay đời sống bên ngoài mà còn
đau khổ trong tâm khi người ta dùng những lời lẽ xúc phạm nhau, làm tổn thương
đến bản ngã con người. Thư giãn, buông xả, nghỉ ngơi hoàn toàn là yếu tố cơ bản
không thể bỏ qua trong bất kỳ trạng thái của hơi thở nhiệm mầu, nghĩa là biết
mình đang là ai, và biết rằng những chuyện bên ngoài có đến rồi cũng sẽ đi.
Những tác dụng thực tế của
hơi thở: chuyển biến tâm trạng, chuyển hóa cảm xúc và hành vi.
Hơi thở nhiệm mầu là hít vào thật sâu, thở ra cho hết, khi hít vào nhớ rằng
mình đang hít vào sự an lạc, năng lượng của vũ trụ, sự bình yêu, thở ra tất cả
sự phiền não trong tâm để cảm nhận sự sống đang hiện hữu. Người biết cách thở
là nhận thức được (recognize) đang thở như thế nào, thở chậm hay thở nhanh, thở
sâu hay thở cạn, thở trong tức giận hay trong bình tĩnh, bình an; ý thức rõ
(realize) được mình đang thở, đang biết và mình đang sống đây; cảm nhận đựơc
(perceive) cái sự thở làm đem lại sự bình yên, hạnh phúc, cái hơi thở đang đi
vào và đang đi ra kia, đó mới là điều cốt lõi!
Thực tập hơi thở nhiệm mầu
là điều hòa hơi thở để dằn cơn nóng giận, sân si và tất cả mọi thứ làm cho hơi
thở của mình biến đổi. Việc thực tập có thể làm chuyển biến tâm trạng, chuyển
hóa cảm xúc và hành vi, nhất là chuyển hóa cơn giận. Chuyển hóa cơn giận là
điều mầu nhiệm nhất mà chúng ta nên thực tập vì trong đời sống ai cũng có thể
giận, chỉ có nhiều hay ít và cách biểu lộ như thế nào.
Hơi thở nhiệm mầu điều chỉnh được áp lực của cuộc sống, giảm thiểu stress.
Học sinh thì bị áp lực thi cử, người trưởng thành thì bị áp lực gia đình, phải
làm ra của cải để nuôi sống gia đình, có người bị áp lực từ vật chất như đam mê
xe cộ, điện thoại di động… áp lực của sự cô đơn, cái chết… Tất cả những áp lực
và tham lam, sân hận, si mê chi phối cuộc sống của con người, chính hơi thở
nhiệm mầu sẽ điều chỉnh những áp lực trong cuộc sống.
Hơi thở nhiệm mầu cũng chuyển hóa được trầm cảm. Trầm cảm là do quá ham muốn hay
điều gì đó không nói được, uất ức rồi đưa đến trầm cảm. Bệnh trầm cảm là căn
bệnh của thời đại. Những người bị stress thực tập hơi thở nhiệm mầu, tức thiền
định thì kết quả mang lại sẽ tự hóa giải, căn bệnh tự hết và mang lại cuộc sống
hạnh phúc.
Người thường xuyên thực tập hơi thở nhiệm mầu sẽ giảm bệnh tật, tăng
tuổi thọ và phải xuất phát từ con người có tâm đức, vì biết nhìn lại chính mình
mới đi vào thiền định được. “Có rất nhiều món ăn tuyệt vời, nhưng trong mùa
Chay, món ăn ngon nhất đó là gì? Đó là ăn năn và sám hối”.
Hơi thở nhiệm mầu còn giúp
người ta tiếp xúc với những mầu nhiệm của cuộc sống, giao hòa với thiên nhiên:
Hơi thở nhiệm mầu còn trao truyền và tiếp nhận năng lượng của sự chánh niệm. Chánh niệm có nghĩa là luôn ý thức được sự có
mặt của mình một cách trọn vẹn, tự chủ và sáng tỏ ngay trong mỗi phút giây của
hiện tại, bây giờ và ở đây, đó là trái tim của thiền định, là trái tim của hơi
thở nhiệm mầu.
Người thực tập chánh niệm
là người luôn làm chủ mình, không để cho tâm ý tán thất trôi lăn theo những
loạn tưởng và bị lôi kéo bởi những âm thanh, sắc xướng bên ngoài. Nếu thực tập
hơi thở thường xuyên với đạo đức tinh thần trong sáng sẽ trị được tham lam, sân
hận, si mê, trong khi thực tập có thể vừa cầu nguyện để mang lại kết quả tốt.
Chánh niệm giúp ta tiếp xúc với sự sống, giúp ta sống sâu sắc và trọn vẹn từng
phút giây, giúp ta thực tập quán chiếu để nhìn sâu, để thấy và để hiểu năng
lượng của sự thực tập.
Thực tập hơi thở căn bản nhất: Buổi
sáng khi tâm trí tỉnh táo nhất sau một giấc ngủ, có thể thực hành thiền ở một
vị trí lý tưởng nhất, một không gian yên tĩnh trong nhà hay trong vườn trong
khoảng thời gian 15 phút. Có thể ngồi thiền trên một cái gối, một cái ghế, trên
sàn nhà hoặc ngồi ở bất cứ tư thế nào đem lại sự thoải mái. Nếu là người trẻ
nên ngồi kiết già (thế hoa sen: bàn chân phải gác lên đùi chân trái và bàn chân
trái gác lên đùi chân phải) hoặc bán già (bàn chân phải gác lên đùi chân trái
hoặc bàn chân trái gác lên đùi chân phải).
Khi ngồi thiền, cần tập giữ lưng cho thẳng nhưng không gồng cứng mà rất
nhẹ nhàng, thư thả và cân bằng. Đầu phải giữ thằng, cân bằng trên vai, mặt
hướng về phía trước, hướng về một đối tượng như ảnh Chúa, mắt khép hờ không
nhắm hẳn vì dễ gây buồn ngủ, hai tay nhẹ nhàng đặt trên đùi, bàn tay phải đặt
trên bàn tay trái, hai đầu ngón tay tiếp giáp nhẹ nhàng vào nhau, trong lúc
thực hành thiền nên tập mỉm cười.
Cử chỉ và tư thế này ảnh hưởng đến nếp nghĩ, hành vi, cách cư xử và
cách sống của người ngồi thiền. Bước đầu, cần theo dõi hơi thở, thở tự nhiên,
hít vào thở ra một cách điều hòa, bình thường, không cố ý. Cảm nhận luồn khí đi
vào, đi ra lỗ mũi, chính sự chú ý sẽ loại đi những chi phối bên ngoài, ghi nhận
mọi cảm xúc, cảm giác nóng lạnh trong thân mình. Có thể đếm khi hít vào, thở ra
từ 1 đến 10 để tập trung chú ý đến hơi thở. Có thể dùng cách thở khác là hít
vào thật sâu cảm nhận sự tinh khiết năng lượng của vũ trụ đi vào thân thể, thở
ra từ từ tất cả những phiền não, buồn phiền, ganh tị, đau khổ, ghen ghét, hận
thù sẽ đi ra để thấy mọi sự an lành.
Trong khi hướng dẫn thiền định, Sư cô Hương Nhũ đã mời một ni sinh lên
làm mẫu tư thế ngồi thiền để đáp ứng sự quan tâm của các tham dự viên.
Sau khi nhận được đóa hoa để đáp tạ bài thuyết trình mạch lạc, cuốn
hút, Sư cô cùng các học trò và các phật tử đã chụp hình lưu niệm để lưu lại
những phút cởi mở của khán giả nơi một giảng đường Công Giáo.
Thiền bắt nguồn từ nền minh triết Ấn Độ rồi lan truyền sang nhiều nước,
dù người ta thường nghĩ rằng nó gắn liền với Phật giáo. Thực vậy, qua những
giao thoa văn hóa, thiền biến thái thành nhiều môn phái, ngay Thiền Tông Trung
Hoa, mà người Việt quen thuộc, cũng chia ra nhiều phái, vì vậy không thể đưa ra
một dạng cụ thể nào làm mẫu mực khi nói về thiền. Từ lâu thiền cũng đã xâm nhập
vào Kitô giáo, Thiền Kitô
giáo chính là dạng thiền của Đông
Phương phối hợp với lối chiêm niệm của các ẩn sĩ Kitô giáo trong thế kỷ III.
Linh hồn Kitô hữu phải gặp Chúa của mình. Thiền là cách giữ tâm thanh tịnh và
trong sạch, là chiêm niệm trong im lặng, là cách cầu nguyện với kinh vô thanh.
Mục đích của thiền là giúp người ta cởi bỏ những gì thuộc thế giới ảo
ảnh, vén tấm màn che dấu để năng lực sống của Thiên Chúa truyền vào chúng ta.
Hữu thể của ta đã nối kết với Thượng Đế ở một nơi ngoài tầm của ngôn ngữ, của
lý trí và của những thực thể. Thiền không phải là làm một việc gì. Không phải
là tu luyện để trở thành một nhân vật khác. Thiền là trở thành chính mình: sinh
ra bởi Chúa Cha, được cứu chuộc bởi Chúa Giêsu, là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Sau một thời gian “tu thân” chúng ta mới hiểu ích lợi của thiền. Như kho tàng
dấu trong ruộng, bản tính đạo đức ẩn khuất từ từ khai triển và mở ra. Chẳng hạn
ta tự nhiên có lòng bác ái, điều mà ta đã cố gắng lập đức từ lâu mà không sao
thể hiện được. Sự diễn biến xảy ra rất tự nhiên trong khi ta không biết tại
sao. Chính Thiên Chúa đã thanh lọc tâm hồn ta trong những lần ta đến an trú
trong Người. Vào mỗi buổi sáng, sau khi chìm trong thiền định, sự thanh tịnh
tồn tại bao phủ tâm hồn ta suốt cả ngày. Mọi việc tầm thường ta làm trong ngày
đều có ý nghĩa hơn, vì ta có cảm nhận Thiên Chúa đứng đàng sau mọi việc. (Trích
từ Thiền Kitô giáo, Đỗ Trân Duy, http://www.daminhvn.net/tai-lieu/490-thien-kito-giao)
Sàigòn, ngày 27 tháng Ba năm 2011,
Tạ Ân Phúc
t
Discussion about this post