PHÁP AN CƯ CỦA TĂNG
Thích Thái Hòa
Ý Nghĩa và
Duyên khởi:
Sau
khi thành đạo, từ duới gốc cây Bồ đề, Đức Thế Tôn đến vườn Nai, chuyển vận bánh
xe Chánh pháp Tứ Thánh Đế, độ năm anh em Kiều Trần Như[1],
từ đó Phật, Pháp và Tăng hiện hữu đầy đủ cả hai mặt lý và sự trong thế gian,
làm chỗ nương tựa phước đức và trí tuệ cho hai thế giới nhân và thiên, nhằm
hướng đến đời sống giải thoát, giác ngộ.
Giới
luật hành trì đầu tiên của Tăng đoàn, theo Luật Tứ Phần, trong mười hai năm đầu
chỉ bao gồm những lời dạy căn bản như sau:
Và
sau mười hai năm, kể từ khi thành đạo, Đức Thế Tôn mới dạy nhiều về giới luật và
pháp an cư cho Tăng đoàn. Ngài dạy pháp an cư cho Tăng đoàn, vì những lý do như
sau:
-Do một số cư sĩ than phiền nhóm sáu tỷ kheo luôn luôn
du hành trong dân gian, bất luận mùa nào, dẫm đạp làm chết vô số côn trùng.
-Họ còn than phiền rằng, những du sĩ ngoại đạo, một
năm còn có những tháng ở yên một chỗ để tịnh tu. Ngay cả những loài vật, chúng
cũng còn có những mùa trú ẩn, huống nữa Tăng sĩ dòng họ Thích, tại sao không có
đời sống như vậy.
Do duyên cớ trên, Đức Phật quở trách nhóm sáu tỷ kheo
ấy. Và Ngài chế định pháp an cư cho Tăng đoàn[3].
Song,
an cư của Tăng đoàn không phải chỉ để tránh dẫm đạp sâu bọ hay cỏ non, khiến
làm thương tổn lòng từ bi đối với muôn vật hay vì tránh những gì than phiền của
hàng cư sĩ, mà còn có những ý nghĩa và mục đích sâu sắc hơn nữa, đó là:
– Nhằm trau dồi và
nuôi lớn pháp Tam vô lậu học là giới, định tuệ, để xứng đáng là “Chúng Trung
Tôn” của bậc Trí Đức hoàn toàn.
– Nhằm biểu lộ tinh
thần thanh tịnh, hòa hợp và đồng bộ của Tăng đoàn. Và khi nào Tăng đoàn biểu lộ
được tính chất ấy, thì Chánh pháp của Đức Thế Tôn do Tăng đoàn tuyên dương mới
có hiệu quả và chứng nghiệm hiện thực.
– Và nhằm củng cố
niềm tin cho hàng đệ tử tại gia của Đức Thế Tôn, đối với ngôi vị thế gian Trú
trì Tăng bảo.
– Và an cư là pháp
truyền thống để trau dồi Giới định tuệ của Tăng đoàn, đệ tử Đức Thế Tôn trong
ba đời.
Ý nghĩa pháp an cư như vậy, không phải chỉ được thực
hành bởi Thanh Văn Tăng mà còn phải thực hành bởi Bồ Tát Tăng nữa[4].
Thanh Văn Tăng là Tăng chỉ thọ và hành trì theo Biệt
giải thoát luật nghi, nhằm phòng hộ và giải thoát theo từng đối tượng cá biệt
của các loại phiền não do duyên xúc và thọ, mà ái, thủ, hữu sinh khởi hay do
duyên vô minh và hành, mà phiền não và các đối tượng của phiền não khởi sinh
làm vẩn đục đời sống giải thoát hay đời sống chánh mạng vốn thiết lập trên nền
tảng của Tứ thánh chủng. Tứ thánh chủng là pháp hành của vị tỷ kheo, pháp hành
ấy đã được Đức Thế Tôn cụ thể hóa từ bản thể tịch diệt, thanh tịnh của Niết
bàn.
Bồ Tát Tăng, là Tăng không những chỉ hành trì đầy đủ Biệt
giải thoát luật nghi như Thanh Văn Tăng, mà còn thọ và hành trì Đại thừa bồ tát giới, tức là giới làm lợi ích
cho hết thảy muôn loài, lấy bồ đề tâm làm bản thể và tác nhân, lấy bồ đề quả
làm định hướng cho bồ đề nguyện và bồ đề hạnh.
Bất cứ xứ sở nào, các Tỷ kheo cùng nhau tu tập, cùng
nhau hòa hợp để an cư, sống bằng đời sống hòa hợp và thanh tịnh, thì xứ sở ấy,
xem như Phật, Pháp Tăng, có mặt một cách đúng ý nghĩa, làm chứng cứ cho niềm
tin của chư Thiên và loài người đối với Chánh pháp.
Nội Dung
Pháp An Cư:
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực
đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên
mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh, gồm:
– Thanh tịnh về biệt giải thoát luật nghi: Ấy là hành
trì đầy đủ đối với các học giới của một vị tỷ kheo mà pháp và luật đã quy định,
khiến cho ngay cả những học giới quy định những điều nhỏ nhặt như trăm pháp
chúng học, cần phải thực hành bởi một tỷ kheo cũng không bị tỳ vết, rạn nứt và
sứt mẻ.
– Thanh tịnh về
các căn môn: Vị tỷ kheo có đầy đủ giới hành, vị ấy luôn hành trì thanh tịnh đối
với các quan năng nhận thức, khiến cho các quan năng nhận thức luôn luôn ở
trong sự phòng hộ và thanh tịnh. Chẳng hạn, khi mắt tiếp xúc với sắc, vị tỷ
kheo có đầy đủ giới hạnh, gồm có niệm và giác, khiến cho sắc không thể khuấy
động tâm ý và tâm ý không khởi lên các cảm thọ thèm khát và chiếm hữu. Cho đến
tai nghe thanh trần, mũi ngửi hương trần, lưỡi nếm vị trần, thân xúc với xúc
trần và ý tiếp xúc với pháp trần, đều luôn luôn có niệm và giác, khiến cho các
trần tướng ấy, không thể khuấy động tâm thức qua các quan năng nhận thức, khiến
tâm thức luôn được an trú ở trong sự thanh tịnh.
– Thanh tịnh về mạng: Thanh tịnh về mạng, chính là
thanh tịnh về sự nuôi dưỡng đời sống, tức là sống theo Bốn thánh chủng. Thánh
chủng là dòng giống cao quý của các bậc thánh hay của những bậc giác ngộ.
Xã hội Ấn độ bấy giờ có bốn giai cấp. Giai cấp Bà la
môn hay giáo sĩ là giai cấp nuôi dưỡng đời sống bằng sự tế tự thần linh; giai
cấp Vua chúa nuôi dưỡng đời sống bằng những vũ khí quyền lực và chính trị; giai
cấp Phệ xá hay thương gia, nuôi dưỡng đời sống bằng sản xuất, buôn bán cạnh
tranh trao đổi hàng hóa,…và giai cấp Thủ đà la nuôi dưỡng đời sống bằng nghề làm
thuê hay nô lệ. Đời sống của các đệ tử Thế Tôn, nuôi thân bằng một bình bát,
khất thực ngày một bữa đúng ngọ, ngủ nghỉ qua đêm dưới gốc cây, nơi rừng vắng
hay ở những hang động, che thân bằng ba y phấn tảo, trị bệnh của thân bằng các
dược liệu của cỏ cây. Sống cuộc đời ít ham muốn, biết vừa đủ để tinh cần đoạn trừ các dục lậu, hữu lậu và vô
minh lậu ở nơi tâm, và nuôi tâm bằng các pháp vô lậu, nhằm hướng tới đời sống
ly dục, tịch tịnh tối thắng của Niết bàn.
– Thanh tịnh về
niệm: Thanh tịnh về niệm là thanh tịnh về chánh niệm, tỉnh giác. Nghĩa là vị tỷ
kheo, luôn luôn có chánh niệm, tỉnh giác trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm,
ngồi. Khi bước tới hay bước lui, đứng lại, nằm hay ngồi, hoặc mọi động tác co
duỗi của thân thể, vị ấy đều có chánh niệm tỉnh giác đối với chúng. Khi ăn,
uống, đi đứng, nằm ngồi, làm việc các cảm thọ, các chủng tử tâm hành, nội pháp
và ngoại pháp hiện khởi và ẩn tàng như thế nào, vị tỷ kheo đều biết rõ chúng
đang diễn ra như thế ấy. Và do thực tập
niệm thanh tịnh, khiến cho đời sống của một vị tỷ kheo đệ tử của Thế Tôn luôn
luôn ở trong sự thanh tịnh với đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh có khả
năng đoạn trừ tất cả những loại phiền não thô phù và tinh tế, làm dẫn sinh các
thánh quả giải thoát.
Vậy, pháp an cư của Tăng là cơ hội tốt để cho các tỷ
kheo và tỷ kheo ni, thực tập bốn sự thanh tịnh nầy một cách miên mật ở trong
chánh niệm tỉnh giác hay ở trong thiền định.
Nói cách khác, an cư là để cho các tỷ kheo Tăng và các
tỷ kheo ni an trú tại một trú xứ nhất định để thực hành vững chãi đối với bốn sự
thanh tịnh.
Nên, Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói rằng: “Vào thời kỳ an
cư mùa mưa, các tỷ kheo ngoại trừ việc đi đại tiện và tiểu tiện, còn tất cả đều
ngồi kiết già tại chỗ để tu tập thiền định”[5].
Kỳ Hạn Thọ Và
Xả Pháp An Cư:
Kỳ hạn an cư của Tăng đoàn đệ tử Thế Tôn, ngày nay
không nhất định, vì tùy theo khí hậu và lịch biểu từng vùng.
Tăng đoàn các nước Phật giáo Nam phương như Tích Lan, Miến Điện,
Thái Lan, Lào,… bắt đầu an cư vào ngày mười sáu, tháng sáu, theo lịch Trung
Quốc. Và Tăng Đoàn Phật Giáo các nước Bắc phương như Trung quốc, Nhật bản,
Triều tiên, Việt nam,… bắt đầu an cư vào ngày mười sáu, tháng tư theo lịch
Trung quốc.
Tăng đoàn phật giáo Bắc phương an cư vào thời gian
trên, là do dựa vào bản kinh Vu lan. Theo kinh nầy, thì ngày Rằm tháng bảy là
ngày Tự tứ của Tăng.
Theo Luật tạng của Thanh Văn Tăng, chỉ qui định mỗi
năm vào mùa hạ là mùa an cư của Tăng và chỉ có một ngày tự tứ cho Tăng, sau khi
đã an cư mà thôi và các Tỷ kheo lấy tuổi hạ làm tuổi của giới đức.
Có hai hạn kỳ an cư, gọi là tiền an cư và hậu an cư.
Tiền an cư là an cư vào phần đầu của mùa hạ, tức là an cư vào ngày mười sáu
tháng tư, theo lịch Trung quốc, cho Tăng đoàn Bắc phương. An cư từ mười bảy
tháng tư đến hết mười sáu tháng năm theo lịch Trung quốc gọi là thời kỳ hậu an
cư. Hậu an cư cũng có hai thời kỳ, gọi là trung an cư và hậu an cư. Trung an cư
bắt đầu từ ngày mười bảy tháng tư, đến hết ngày mười lăm tháng năm. Hậu an cư
là bắt đầu ngày mười sáu tháng năm.
Thời hạn tiền an cư theo truyền thống Tăng đoàn Bắc
phương là bắt đầu từ ngày mười sáu, tháng tư và đến mười lăm tháng bảy, âm lịch
là kết thúc. Nếu hậu an cư, kể từ mười bảy tháng tư thì đến ngày mười sáu tháng
bảy âm lịch là kết thúc. Và nếu an cư sau ngày mười bảy tháng tư, thì sau đó phải
tính đủ chín mươi ngày để kết thúc pháp an cư[6].
Tác Pháp An
Cư:
Các
chùa hay các tự viện của Tăng, phần nhiều đều có tác pháp yết ma kết cương giới của trú xứ, để
thuận tiện cho sự tu học và tiến hành các pháp thuộc về tăng sự của trú xứ, thì
khỏi phải tác pháp yết ma để kết đại giới của trú xứ an cư.
Nếu
trú xứ nào chưa có kết đại giới của trú xứ, thì khi Tăng an cư phải tiến hành pháp
yết ma kết đại giới của trú xứ an cư, trước khi tiến hành pháp an cư của Tăng.
Nếu
cương giới trú xứ trước đó đã kết quá nhỏ, nay lượng tỷ kheo an cư của Tăng
trong trú xứ quá lớn, cần nới rộng cương giới của trú xứ cho thích hợp, thì tăng
phải tiến hành tác pháp giải cương giới cũ, sau đó mới tiến hành tác pháp kết
lại cương giới mới rộng hơn.
Sau
khi nhắc lại cương giới cũ của trú xứ hoặc tiến hành tác pháp yết ma kết cương
giới mới của trú xứ, Tăng mới tiến hành tác pháp an cư như sau:
Tăng
tiến hành tác pháp an cư có hai loại:
1- Tác pháp an cư của hàng Thượng tọa:
Tác
pháp hàng Thượng tọa không có y chỉ luật sư, vì hàng Thượng tọa là bắt buộc
phải thông hiểu luật và phải trì luật để làm chỗ y chỉ cho các hàng trung tọa
và hạ tọa.
Hàng
Thượng tọa tác pháp thọ an cư bằng đối thủ. Nghĩa là vị thượng tọa nầy đối diện
với vị thượng tọa kia hoặc quỳ, hoặc đứng để tác pháp thọ an cư.
Văn
tác bạch thọ an cư của hàng Thượng tọa như sau: “Đại đức nhất tâm niệm. Tôi tỷ
kheo,… nay y (tên của trú xứ an cư) Tăng già lam, an cư ba tháng đầu của mùa
hạ. Nếu phòng xá có hư hại, sẽ tu bổ”[7](Bạch
ba lần).
2- Tác pháp an cư của hàng đại chúng:
Tác
pháp thọ an cư của đại chúng là phải có vị luật sư cho đại chúng y chỉ, để vị
luật sư luôn nhắc nhở, hướng dẫn cho những tỷ kheo ở trong đại chúng chưa thông
suốt luật, phải y luật hành trì đúng theo pháp an cư và xử trị đối với các tỷ
kheo an cư không như pháp.
Thọ
an cư đại chúng theo thứ tự lớn nhỏ, tỷ kheo có tuổi hạ lớn nhất trong đại
chúng tác bạch thọ an cư trước, tuần tự cho đến vị tỷ kheo hạ tọa sau cùng. Vị
thọ an cư đảnh lễ Thượng tọa y chỉ luật sư một lạy, rồi quỳ xuống tác bạch, văn
tác bạch như sau:
“Đại
đức nhất tâm niệm. Con tỷ kheo,… nay y nơi (nói tên của trú xứ) Tăng già lam an
cư ba tháng đầu của mùa hạ. nếu phòng xá có hư hại sẽ tu bổ”.
Thượng
tọa nói: “Vậy, hãy cẩn thận chớ buông lung”. Người thọ, đáp: “Y giáo phụng
hành”. Thượng tọa hỏi tiếp: “Y vị nào làm luật sư?”. Người thọ đáp: “ Y (nói
hiệu của vị luật sư y chỉ) làm luật sư. Thượng tọa nói: “Có điều gì nghi ngờ,
nên đến hỏi”. Người thọ đáp: “Kính vâng”. Và lễ Thượng tọa ba lễ, lui về chỗ
cũ, đợi những vị khác thọ xong và cùng hồi hướng.
Trong
trường hợp có những trú xứ chỉ một tỷ kheo, không có ai để y chỉ, tỷ kheo ấy
được phép tác pháp tâm niệm an cư. Vị ấy đến trước hình tượng của đức Phật hay
chánh điện, kính lễ như pháp và tác bạch như sau: “Con tỷ kheo,…nay y nơi (nói
tên trú xứ) an cư ba tháng đầu của mùa hạ”. (tác bạch ba lần).
Cảm Nhận Và
Kế Thừa:
Ở
trên trời và dưới đất hay bất cứ ở đâu trên thế gian nầy, không thể có một ai
trồng quýt mà lại gặt hái kết quả của cam.
Cũng
vậy, ở
trên trời và dưới đất không một ai có quyền cho ta hạnh phúc, khi mà ta đã gieo
nhân bất thiện và không một ai có quyền làm cho ta đau khổ, khi ta đã gieo xuống
mảnh đất tâm của ta những hạt giống lành của bồ đề và đại nguyện. Hạnh phúc của
ta thực sự chỉ có mặt, khi thân ta hành thiện, miệng ta nói thiện và tâm ta luôn
luôn an trú ở trong điều thiện của bồ đề và đại nguyện ấy.
Giới
luật, uy nghi và các pháp hành khác của Tăng như bố tát, an cư, tự tứ cũng vậy,
chúng có tác dụng giúp cho các tỷ kheo thực hành đời sống xuất gia và sinh khởi
các thiện pháp giải thoát cho họ. Trong Tăng đoàn có nhiều tỷ kheo thành tựu đựơc
tâm giải thoát và tuệ giải thoát là tăng đoàn vững mạnh, làm chỗ quy tín cho hàng
cư sĩ tại gia và khiến cho ma quân chuyển đổi tà tâm, khởi sinh chánh tín đối với
Tăng.
Vì
vậy, ở trú xứ nào có các tỷ kheo, bố tát, an cư và tự tứ đúng pháp, đúng luật, đúng
thời, thì ở trú xứ đó có Tăng bảo thường trú, nhằm khẳng định sự có mặt của chánh
pháp một cách hiện thực, làm ngọn đuốc soi đường cho thế gian trong đêm dài tăm
tối.
Nên,
pháp an cư của Tăng không phải mang một ý nghĩa hình thức, mà đó là một pháp hành,
chuyển tải một nội dung thanh tịnh và trong sáng, đầy đủ các chất liệu của Giới,
Định và Tuệ mà phận sự của các tỷ kheo phải miên mật hành trì, để kế thừa dòng
máu cao cả của chánh pháp, khiến cho dòng máu ấy không bao giờ bị đứt đoạn giữa
thế gian nầy.
Thích Thái Hòa
[1] Phật
Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân kinh, Tạp, tr 504, Đại Chính 2.
[2] Giới
kinh của Đức Phật Thích Ca, muời hai năm đầu, kể từ khi thành đạo, theo Tứ Phần
Luật, Đại Chính 22.
[3] Tứ Phần
Luật 37, An cư kiền độ, tr 830b, Đại Chính 22. Pàli, A, A, ii 97.
[4] Phạm Võng Kinh, tr 1008a, Đại Chính 24.
[5] Dẫn theo
Tứ Phần Luật San Phiền Bổ Khuyết Hành Sự Sao, tr 58a, Đại Chính 40.
[6] Theo Luật
Tứ Phần 58, có ba thời kỳ an cư: -Tiền an cư – Trung an cư – Hậu an cư, tr
998b11, Đại Chính 22. Theo Luật Tăng kỳ 27: Tiền an cư từ 16 tháng 4 đến 15 tháng 7. – Hậu an cư từ 16 tháng 5 đến
15 tháng 8., tr 451b10, Đại chính 22.
[7] Tứ Phần
37, tr 380, Đại Chính 22.
Discussion about this post