LÝ THUYẾT ĐẠO ĐỨC CHO HÒA GIẢI CHÍNH TRỊ
Giới Thiệu Sách:
Colleen Murphy
A Moral Theory of Political Reconcialtion
Cambridge University Press, 2010
Đỗ Kim Thêm
Vấn
đề
Người Việt bắt đầu làm
quen với khái niệm “Hoà giải quốc gia và hoà hợp dân tộc” từ khi có
hiệp định Paris, nhưng nếu theo dõi các xung đột trên thế giới chúng ta sẽ
không ngạc nhiên khi thấy đây là một mối quan tâm chung cho các nước Nam Phi,
Bắc Ái Nhỉ Lan, Sierra Leone, và gần đây nhất Rwanda, Afghanistan và Irak là
những trường hợp điển hình. Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, nhưng các nước
này đã tìm ra một căn bản đồng thuận nào để làm phương tiện cho tiến trình hoà
giải, lịch sử, luật pháp hay đạo đức, đó là vấn đề được đặt ra.
Để trả lời một phần nào cho vấn đề phức tạp
này, Colleen Murphy, giáo sư Triết học tại Đại Học Texas A & M, Hoa kỳ đã có
một công trình nghiên cứu về lý thuyết đạo đức cho hoà giải chính trị, đó là
tác phẩm A Moral Theory of Political Reconcialtion, do nhà xuất bản Cambridge
University Press ấn hành năm 2010, mà nội dung sẽ được tóm lược sau đây.
Nội
dung
Tác giả giới thiệu sách với phần cảm tạ và dẩn
nhập. Sách có hai phần chính, phần I đề ra một khái niệm đạo đức và ba luận đề
chính là tinh thần thượng tôn luật pháp, tín nhiệm về chính trị và khả năng
hành động. Phần II thảo luận về phương cách cổ vũ cho hoà giải trong điều kiện
thực tế mà ba chủ điểm là lượng giá về tiến trình hoà giải, hoạt động của các Ủy
ban Chân Lý và Hoà Giải và các Toà án Hình sự quốc tế. Cuối cùng tác giả đề ra
triển vọng cho cách giải quyết hoà giải trong tương lai để kết luận vấn đề.
Phần dẩn nhập
Nội chiến và đàn áp là một
hiện tượng phổ quát nhưng bi thảm nhất là Nam Phi với hơn 40 năm theo đuổi về
chính sách kỳ thị chủng tộc. Nam Phi đổi mới khi Nelson Madela trở
thành vị tổng thống da đen đầu
tiên và quốc hội biểu quyết
thông qua đạo luật Cổ vũ Thống nhất Quốc gia và Hoà giải (Promotion of National
Unity and Reconcialtion Act, No 34 of 1995) để thiết lập Ủy ban Chân lý và Hoà
giải (Truth and Reconciliation Commis-sion,TRC). TRC do Tổng giám mục Desmond
Tutu lãnh đạo và đạt kết quả là sau hơn 200.000 vụ điều tra đã có hơn 7.000 trường
hợp cá nhân nộp đơn xin ân xá.Thành tựu của TRC làm cho thế giới kính phục. Để tìm
hiểu bản chất vấn đề
hoà giải và kinh nghiệm của TRC tác giả khởi đầu với định nghiã về khái niệm
về hoà giải chính trị với bốn đặc điểm chủ yếu.
Một là hoà giải là tha thứ
khi nạn nhân bỏ qua những cảm xúc tiêu cực như giận dữ hay thù oán trước những
hành vi sai trái của thủ phạm. Nhưng làm sao thay đổi thái độ trong mối quan hệ
cá nhân, có khả năng và lòng mong muốn hoà giải là vấn đề quan trọng hơn cảm
xúc. Đây là khởi điểm cho tiến trình, nhưng thực tế cho thấy tha thứ của nạn
nhân không thể giải quyết vấn đề khi đàn áp là một cơ chế chính trị mà thủ phạm
tiếp tục lạm dụng.
Hai là hoà giải là đề ra một khuôn khổ luật
pháp để xây dựng lại mối quan hệ xã hội và niềm tin
cho toàn thể. Vì không dựa trên thái độ tha thứ của nạn nhân hay sai trái của
thủ phạm, mà vấn đề sẽ do luật pháp quy định nên khái niệm này quy mô hơn về tầm
vóc. Cảm tính không còn là khởi
điểm mà yếu tố khách quan và tổng
quát là chủ yếu. Nhưng khái niệm về niềm tin cũng không có một tiêu chuẩn chính
xác.
Ba là hoà giải là một giá
trị về chính trị. Thay đổi thái độ không phải là đầu hàng của cá nhân hay tập
thể trước chính quyền mà là một quyết định hợp lý về lý trí được một thể chế chính trị bảo vệ, và vai trò thể chế là điều
kiện tiên quyết. Những khuôn khổ cho hoà giải là bình đẳng trước pháp luật, thực
thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền, dân quyền và tinh thần thưọng tôn luật pháp
của chế độ. Điều kiện này chưa có tại các nước đang chuyển đổi.
Bốn là hoà giải là sửa đổi những sai lầm trong
quá khứ để tạo lập môt cộng đồng cho hiện tại và tương
lai. Không phải cá nhân, luật pháp hay đạo đức là chủ yếu mà sự đồng tình của
dân chúng trong việc tìm ra ý nghiã chính trị của cộng đồng trong tiến trình
chuyển đổi. Khái niệm này
quá lý tưởng và hướng về tương lai nên khó thuyết phục để giải quyết cấp bách các vấn đề quá khứ đang còn đè nặng.
Bốn khái niệm này có ý nghiã tương đối, thì làm sao có thể áp dụng được
trong thực tế? Nếu chấp nhận xung đột cần được hoà giải, trước hết phải tìm ra
khuôn mẩu đặc trưng nào đã gây ra thiệt hại trong mối quan hệ này, sau đó là tổn
hại nào thuộc về phạm vi đạo đức, cuối cùng là xây dựng lại mối quan hệ này trở thành mục tiêu cho hoà giải. Để vượt qua những giới hạn
của bốn khái niệm nêu trên, tác giả xem
bối cảnh của Nam Phi là một kinh nghiệm điển hình, từ đó mới tổng hợp các khái niệm này trong thực tế là một
phương cách thích hợp.
Tác giả kết thúc phần dẩn nhập bằng cách đưa ra một phương pháp luận
cho vấn đề. Hoà giải dù là mối quan hệ cá nhân nhưng cần được đặt trong trong bối cảnh xã hội và lịch sử, không thể là một lý thuyết trừu tượng về đạo đức để áp dụng trong thực tế, mà ngược lại, tìm ra mối quan hệ trong thực tế trong quá
khứ để làm nền tảng cho tiến trình chuyển đổi. Ba tiêu chuẩn đề ra để phân tích
là tinh thần thượng tôn pháp luật (rule of law) tín nhiệm về chính trị
(political trust) và khả năng hành động (capabilites). Ba đặc điểm này sẽ là cơ sở tác động (reciprocity agency) và
giúp cho cơ sở đạo đức thành hình (moral agency), bước khởi đầu trong tiến trình hoà giải chính trị và dân
chủ hoá đất nước.
Chương I
Tác giả dựa theo định nghiã của Lon Fuller về tinh
thần thượng tôn pháp luật trong tác phẩm The Morality of Law để trình bày. Luật
pháp đòi hỏi phải có các tiêu chuẩn chính. Luật pháp phải tổng quát, quy định rỏ
điều cấm đoán và hậu quả, không gây mâu thuẩn, đòi hỏi người dân những điều có
thể làm đưọc, được ban hành để công luận biết đến trước khi áp dụng, không thể
thay đổi thường xuyên và điểm cuối cùng quan trọng nhất là luật phải quy định
thuần nhất để nhà cầm quyền thi hành cho phù hợp với thực tế. Đó là đòi hỏi mà
nhà lập pháp phải ý thức khi soạn luật. Chính quyền có tôn trọng luật pháp thì
sẽ tạo niềm tin cho dân chúng thi hành. Nếu cả hai hành động dựa trên pháp luật
thì xã hội sẽ ít bị xáo trộn hơn. Fuller giải thích tôn trọng lẩn nhau qua luật
pháp là một quan hệ xã hội và là một bổn phận chung về đạo đức.
Thực tế cho thấy bổn phận này bị điều kiện hoá mà trường hợp vi phạm
nhân quyền của Argentina là thí dụ. Chính phủ tuyên bố là ở Argentina không có
tù nhân chính tri, không ai bị ngược đải hay tra tấn vì tư tưởng chính trị.
Chính quyền luôn cáo buộc chính dân chúng không thi hành luật nên gây xáo trộn.Thực
tế cho thấy từ năm 1976 đến 1983 đã có hơn 300.000 người mất tích. Đây không phải
là một răn đe cá nhân mà là một chính sách có hệ thống. Chính quyền luôn phủ nhận
việc thủ tiêu người đối kháng và xác nhận có những trường hợp cá biệt là sai lầm
đáng tiếc. Nhưng thực tế xã hội bao trùm không khí sợ hải và bất ổn vì chính
quyền và dân chúng không còn tin nhau. Từ đó đưa tới tổn hại chung về mặt đạo đức.
Theo tác giả, Fuller chỉ đề ra một khiá cạnh của vấn đề. Chúng ta không
phải tôn trọng luật bởi vì luật là luật và chính là cứu cánh của luật pháp là
xây dựng tự do và phát triển nhân phẩm. Đó là khái niệm của Joseph Raz mà tác
giả giới thiệu để bổ sung cho định nghiã của Fuller.
Raz chia tinh thần thượng tôn pháp luật làm hai loại. Thứ nhất là luật
pháp phải rỏ ràng, ổn định, công khaí và quy định thái độ phải thi hành. Thứ
hai là cơ quan chấp pháp không thể tướt đoạt khà năng của luật pháp trong thực
tế. Luật pháp sẽ vô hiệu khi chính quyền không làm gương thi hành pháp luật,
nên cần phải giới hạn quyền lực của cơ quan chấp pháp. Raz thí dụ công dụng của
luật pháp như con dao sắt, dao cắt tốt thì luật pháp cũng có những công dụng
tương tự. Cả hai Fuller và Raz xác nhận vai trò thượng tôn luật pháp, nhưng
Fuller đề cao vai trò cá nhân như một đối tác có trách nhiệm trong khi Raz cho
là chính cơ quan chấp pháp cần đóng vai trò gương mẩu hơn để bảo vệ tự do cá
nhân và nhân phẩm.
Phê bình Fuller và Raz, tác giả cho là ý kiến cả hai không bảo đảm được
việc thi hành pháp luật, mà chỉ nêu lên những điều kiện để thi hành. Lịch sử đã chứng minh là
luôn luôn có xung đột giửa tinh thần thượng tôn pháp luật vì để theo đuổi cứu cánh vô đạo đức. Tại sao dân chúng phải tôn
trọng luật pháp khi không phù hợp với họ và làm cho họ khiếp sợ? Chính quyền khủng
bố, tạo một khung cảnh bất ổn, thì dân chúng làm sao có thể tiên đoán những gì
sẽ xãy ra cho họ? Tác giả nêu lên nhiều thí dụ để dẩn chứng những tác hại của
chế độ toàn trị.
Chính quyền độc tài luôn đề cao bản sắc dân tộc và truyền thống lịch sử,
nhưng ít đề cập tới tinh thần thượng tôn luật pháp, vì tự bản chất họ không tôn
trọng, nhưng họ lại đủ khôn ngoan để tìm cách tránh những chế tài quốc tế, nhất
là khi đàn áp trở nên có hệ thống, thí dụ như họ tìm cách khủng bố riêng lẻ và
tránh gây tác động mạnh đến dư luận quốc tế. Vì ý thức được tính chính thống cuả
chính quyền càng tùy thuộc vào luật pháp nên họ cũng nổ lực tạo bề mặt chính thống
của mình mà Bắc Ái Nhỉ Lan và Nam Phi là thí dụ. Các chánh án tại Nam Phi tuyên
thệ và bảo vệ công lý, nhưng thực tế họ không thể làm tròn chức năng và không
dám bày tỏ công khai sự tương phản giữa bất công của chế độ và bổn phận. Sau
này khi ra trước các buổi điều tra của TRC, họ tìm cách chạy tội khi cố chứng
minh đã làm giảm bớt bất công qua các biện pháp xử lý. Tác giả thực tế hơn khi
cho rằng tôn trọng pháp luật không thể phòng chống bất công một cách hữu hiệu,
nhưng chỉ có thể giới hạn một
phần nào, khi mà ý thức công luận lên cao và bất công được công khái hoá.
Tác giả phê bình Fuller là lý tưởng hoá vấn đề. Fuller nói rằng khi
chính quyền nói với ngưòi dân: „Đây là luật, anh phải thi hành. Nếu anh làm
theo thì anh sẽ được chúng tôi đảm bảo là đó là luật sẽ áp dụng cho thái độ của
anh“. Nếu nói như vậy chỉ làm giảm đi tính cách hổ tương mà chính quyền nên nói là “Đây là chuyện cấm,
anh nên tránh làm, nếu làm anh sẽ bị trừng phạt“.
Điều kiện này sẽ không có được khi không có hình ảnh nhà làm luật công minh
trong lòng người dân mà chỉ có người cảnh binh
cầm súng đang đe doạ. Cá nhân theo đuổi mục tiêu của
mình trong xã hội, mong có cơ hội bày tỏ ước vọng và có thể tiên đoán được thái
độ của người khác. Nếu nhà làm luật tạo ra khuôn khổ này thì người sử dụng vũ khí chưa có thói quen sử dụng. Họ chỉ
quen ra lệnh và tuân lệnh, bất tuân là họ nổ súng, họ có kinh nghiệm huy động
thuộc hạ tuân phục, không ai đòi hỏi họ phải tuân theo một cái gì, kể cả những
gì mà họ công bố và họ không có thói quen thảo luận.
Tác động hai chiều trong mối quan hệ luật pháp tạo ra sức mạnh luật
pháp, nhất là khi cả hai phiá
cùng nổ lực theo đuổi mục tiêu chung. Mục tiêu của pháp luật không phải là theo đuổi quyền lợi cá nhân hay của
ý chí của chính quyền mà công bình giửa chính quyền và người dân trong khuôn khổ
luật pháp, mà hai bên đối cùng nhau hợp tác trong quan hệ thực tế.
Dù phê bình Fuller quá thiên hình thức, nhưng tác giả không đề cao luật nội dung, mà cho là tác động hổ tương giửa người dân và chính quyền thông qua luật
pháp là chủ yếu. Nó sẽ tạo niềm tin, đó là điểm mà tác giả tiếp tục phân tích.
Chương II
Trong khi học giới và chính giới cho là xây dựng niềm tin là một điều
kiện tiên quyết, tác giả lập luận không nên coi niềm tin là một phương tiện, mà
phải tìm xem chúng ta tin vào cái gì và có hợp lý không. Nói chung, niềm tin
trước hết là một thái độ hướng về một mục tiêu, ước vọng lạc quan hướng về khả năng và thiện chí của người
được tín nhiệm về một hành vi trong tương lai. Uớc vọng nào cũng là sự công nhận
có mức độ, vì trong thực tế không ai tin ai một
cách mù quáng trong tất cả mọi lãnh vực và lâu dài. Tác giả bàn đến mối quan hệ
giữa tin tưởng và thất vọng và phân biệt niềm tin có thể và không có thể luận
giải được. Dựa trên khái niệm chung tác giả đào sâu về niềm tin liên hệ đến
chính trị.
Niềm tin về chính trị là một thái độ lạc quan về khả năng và thiện chí
của chính quyền. Người dân vừa là một chủ thể có trách nhiệm, hiểu biết mà còn
cần có thiện chí đóng góp để phát triển mối quan hệ. Về phía chính quyền cũng cần
có khả năng và thiện chí tương tự. Chính quyền kỳ vọng là người dân hiểu biết và
có thể quyết định những vấn đề của đời mình trong khuôn khổ luật pháp, không chờ
đợi một lời khuyên hay chỉ thị nào về phiá chính quyền. Nhưng tham nhũng, thiếu
khả năng và không tôn trọng pháp luật, kể cả nhà làm luật, là những thí dụ điển
hình về sự mất tin tưởng của dân chúng. Niềm tin về chính trị có nhiều mức độ
khác nhau, có thể là mù quáng tuyệt đối hoặc hoàn toàn không tin tưởng nhau về
bất cứ một vấn đề nào. Nhưng có thể một thành phần dân chúng tin tưởng về khả
năng và thiện chí giải quyết của tầng lớp nào đó trong chính quyền. Tình trạng
lý tưởng nhất là sự đồng thuận của toàn thể nguời dân và tổn hại trầm trọng nhất
khi chính quyến còn không khả năng kiểm soát xã hội.
Niềm tin về chính trị có giá trị đạo đức không? Tác giả cho là khó có
thể lập luận như vậy
khi niềm tin giúp cho cá nhân hay một tập thể dể dàng trong việc thực hiện mục tiêu của mình. Thiếu niềm tin về khả năng và thiện chí là vấn đề được đặt ra, nhưng quan trọng hơn là
giá trị của tác động hổ tương. Trong xã hội dân chủ điều này có nghiã là người dân cũng có khả
năng và cơ hội làm việc như các quan chức của chính phủ. Các chế độ độc tài thường lập luận là trình độ dân trí còn thấp kém, chưa đủ khả năng
để hành sử quyền công dân nên phủ nhận hoặc
hạn chế các quyền cơ bản, thí dụ như quyền đầu phiếu. Thiếu thiện chí đưa tới thiếu
tôn trọng nhau trong sinh hoạt chung, nhưng nếu cho rằng cả hai không khả năng,
đáng nghi ngờ nhau cũng cần có biện minh. Hy vọng đến từ hai phiá thì nổ lực thực hiện cũng phải đến từ hai phiá. Trong bối cảnh hoà giải thì vấn đề tín nhiệm được coi là một quan tâm hàng đầu, sau đó thì vấn đề giá trị đạo đức sẽ đặt ra.
Tác giả đặt vấn đề thái độ
đáp ứng trong việc cảm thông nhau. Đây là bước khởi đầu thúc đẩy cá nhân tự chúng tỏ mình là một chủ thể có trách
nhiệm, từ đó đáng được trong cậy nhiều hơn. Sự trông cậy này sẽ kéo theo lợi ích lớn hơn. Ngườì được tín nhiệm thích thú hơn khi được tín nhiệm và sẽ tạo những thái độ thích ứng hơn
khi mối quan hệ trở nên minh bạch
Lập luận này gặp nhiều phản biện vì môi trường tham nhũng, không tôn trộng luật pháp và không có đạo đức xã hội. Khi nghi ngờ làm tránh được những tốn hại cho
cá nhân, thì nghi ngờ trở nên chính đáng và hợp lý. Vấn đề là trong địều kiện
nào là có tín nhiệm, điều kiện nào là không, cũng cần được luận giải. Tác giả nêu trường hợp Irak làm thí dụ, các quan chức chỉ lo giử quyền lợi của
mình do chế độ mang lại và không thi hành luật, trong khi dân chúng Irak thấy
công an bất cứ đâu chỉ muốn tránh đi để được yên thân. Thiếu khả năng và thiện chí làm cho kỳ vọng tiêu tan và niềm tin
không thể xây dựng. Càng khó khăn hơn khi giửa những người trong cộng đồng lại không cùng chung một truyền
thống lịch sử, ngôn ngữ và văn hoá như tại Irak
Mối quan hệ giữa người dân và chính
quyền quá phức tạp, nên nội dung tín nhiệm cần phải cụ thể hoá. Đánh giá một trường hợp cụ thể nào cũng bị lệ
thuộc vào bối cảnh chung của xã hội, nên ý tưởng này tương đối và không thể nào
áp dụng trong toàn thể sinh hoạt. Dù bị điều kiện hoá trong từng tình huống, nhưng
không vì thế mà làm mất đi sự tương kính và kết ước chung và tổn hại đến mối
quan hệ chung.
Làm sao biện giải nội dung của tín nhiệm? Chúng ta không tin vì người
được tín nhiệm đáng được tin, mà quan trọng hơn vì họ sẽ có khả năng và thiện
chí gây chuyển biến tích cực như ta mong đợi. Cần phân biệt tín nhiệm và kỳ vọng. Tín nhiệm về
chính trị là kỳ vọng mà người được tín nhiệm sẽ đáp ứng. Kỳ vọng này theo tác
giả cũng là một thái độ cần biện giải có hợp lý không. Khi chế độ độc tài bắt
người trái phép và vô trách nhiệm trước người mất tích, mà tham nhũng và bất tài là nguyên
nhân, nên vấn đề tín nhiệm không thể luận giải. Trong một xã hội có nhiều chủng tộc, không có niềm
tin và đáp ứng không minh bạch thì bất tín nhiệm
nhau là một quyết định hợp lý. Thiện ý tốt đẹp
cho ngưòi khác phải có nền tảng làm khởi điểm, đó là một quan tâm chung
trong một thế giới tương thuộc. Nghịch lý xảy ra trong khi chúng ta cần phải quan tâm đến quan điểm của người khác và suy đoán họ có khả năng, hiểu
biết và thiện chí trong hành động,
thì vô cảm trở thành hiện tượng
phổ biến trong xã hội. Khi niềm tin chung cho xã
hội không còn, tác giả cho là phát huy khả năng hành động để xây dựng lại mối
quan hệ chính trị là vấn đề cần luận giải.
Chương III
Khả năng nào
cần có để cải thiện những tác hại do thể chế mang lại? Khả năng là gi? Tác giả phân biệt
bốn loại khả năng chính: Khả năng được tôn trọng,
khả năng được công nhận là một thành viên trong cộng đồng chính trị, khả năng
là một tham dự viên có hiệu năng trong sinh hoạt xã hội và khả năng để
sinh tồn và thoát cảnh nghèo đói. Khả năng có liên hệ đến tự do và cơ hội cá
nhân trong hành động.
Armartya Sen và Martha Nussbaum đã triển khai khái niệm này và gọi là
personal, social and environmental conversion factors. Hạnh phúc cá nhân do nhiều thành tố, thí dụ cá
nhân được tôn trọng, được nuôi dưởng và giáo dục tốt, đây là những thuận lợi cơ
bản. Dù
bối cảnh tự do tối cần thiết cho phát triển khả năng,
nhưng chưa đủ. Sen thí dụ xe đạp là một phương tiện
di chuyển, nhưng không thể giúp cho người khiếm tật vì họ không sử dụng được.
Ngược lại, một người có khả năng sử dụng, thì xe đạp lại không thể
là phưong tiện giúp họ vì điều kiện giao thông cho xe đạp không có. Sự khác biệt
về khả năng cá nhân và hoàn cành xã hội là vấn đề mà tác già dùng thí dụ của
Sen để dẫn chứng
Tác giả
phân biệt hai loại khả năng nội tại và ngoại cảnh. Ngoại cảnh giúp cho cá nhân
hành động trong thực tế. Nhưng tác giả cho là xác định khả năng và cơ hội cho từng
cá nhân rồi so sánh với cá nhân khác cũng là vấn đề. Khả năng có hai loại giá
trị, một là phương tiện, hai là tự tại. Là một
phương tiện khi khả năng có thể kết hợp với tự do. Có
tự do thì khả năng có cơ hội phát triển, khả năng càng lớn thì tự do sẽ giúp dể
thực hiện những điều mong ước. Khả năng có giá trị tự tại khi đặt
mối quan hệ khả năng với công lý. Con người sống trong xã hội như là một tác
nhân, được hưởng tự do để sống hoà hợp
với người khác trong tinh thần thượng tôn luật pháp và tín nhiệm chính trị.
Nhưng mối quan hệ khả năng và công lý đặc biệt hơn. Thiếu khả năng thì vi phạm
công lý sẽ trầm trọng hơn. Muốn đòi hỏi công lý người
ta phải có khả năng nhận diện công lý. Không luận giải được bất công về phân phối lợi
tức và tài nguyên thì không thể đòi hỏi công bình trong chính sách. Tác giả áp
dụng khái niệm chung này vào trong điều kiện của hoà giải chính trị.
Có hai lý
do để áp dụng khả năng trong hoà giải. Khả năng cá nhân liên hệ mật thiết đến
thể chế, vì thể chế xác định cơ hội cá nhân và
mức độ bất công trong mối quan hệ xã hội. Ba ý niệm bất công chính trong xã hội
độc tài theo tác giả là sử dụng bạo lực, cưởng chế kinh tế và tạo ra bất công
giửa các đoàn thể.
Sử dụng bạo
lực có bốn hình thức là hảm hiếp, cắt bỏ tay chân, tra tấn vả giết người mà tất cả hủy
diệt khả năng của cá nhân từ thể xác cho đến tinh thần, và tù nhân chính trị là
một bằng chứng, vì dầu họ còn sống nhưng sau khi được tha thì coi như đã chết.
Nạn nhân không còn tự coi mình là một con người
giá trị trong cộng đồng nửa, chỉ mơ ước không còn bị tra tấn trong tương lai. Các biện
pháp trị liệu tâm thần không hiệu quả hoặc không có.
Tác hại hơn, chế độ không những trừng
trị nạn nhân, mà gia đình, thân nhân và đoàn thể liên hệ cũng bị ảnh hưỏng nặng
nề, như kinh nghiệm Nam Phi và El Salvador chứng minh. Sử dụng bạo lực cũng tác
hại chung về mặt xã hôi và kinh tế. Châu Phi dồn tiền cho các xung đột vũ trang
kể từ 1990 trở đi với
cái giá là 300 tỷ, một con số mà các định chế quốc tế phải bỏ ra để giúp họ
trong cùng thời kỳ, trong khi Châu Phi cần tiền cho giáo dục, y tế và làm mất
nhiều cơ hội phát triển cho cá nhân và xã
hôi.
Cưởng chế
kinh tế là tác hại thứ hai mà tác giả trình bày. Có hai khía cạnh cuả cưởng chế
kinh tế là theo thực tế và luật pháp. Tại Nam Phi, luật pháp phân biệt khắc
nghiệt quyền sử dụng taxi,
xe cứu thương, xe buýt, thang máy, công viên, nhà thờ, nhà hàng, trường học
v.v. Cơ hội làm việc cho người da đen
trong khu vực da trắng không có. Bất quân bình về phân phối lợi tức quá trầm trọng
khi lương một công nhân xây dựng da trắng hơn sáu lần người da đen, công nhân hầm
mỏ da trắng kiếm tiền gấp 20 lần người da đen. 80% dân da đen sống dưới
mức tối thiểu, nên dốt nát, bịnh tật và tỷ suất tử
vong cao là hiển nhiên. Không có cơ hội phát triển khả năng và
tham gia sinh hoạt xã hội, đây là một sĩ nhục nhân phẩm được thể
chế hoá. Hậu quả là người da đen không còn tự
tin. Sợ hải lo âu không là vấn đề cá nhân mà còn tác động đến
gia đình. Gia đình không thể giúp cá
nhân và ngược lại để vuợt thoát hoàn cảnh. Thảm trạng này tạo
ra bất công trong việc phát triển bản sắc của các đoàn thể
xã hội.
Đối xử bất công giửa các đoàn thể
làm cản trở phát triển
bản sắc cộng đồng
và khả
năng cá nhân là tác hại thứ ba. Nếu bản sắc
của sắc tộc không duy
trì và phát triển, tất nhiên sẽ ảnh hưởng
đến khả năng của thành viên qua nhiều hình thức
khác nhau. Thí dụ như quyền công dân, phong tục, tâp quán, ngôn ngữ,
tình cảm gắn bó, cảm giác quen thuộc,
và nhiều yếu tố khác tạo nên bản sắc. Mối quan hệ giửa phát triển bản sắc trong các xung đột sắc
tộc mà Bắc Ái Nhỉ Lan là một thí dụ. Khuôn mẩu
văn hoá giửa Tin Lành và Công giáo cho thấy sự phân hoá
trầm trọng mà hôn nhân giửa hai người khác tôn
giáo là chuyện ngoại lê.
Tất cả những
loại bất công này làm trở
ngại cho sự phát triển khà năng của cá nhân và xã hội mà hệ quả trầm trọng là bất
công càng gia tăng và đạo đức càng suy đồi. Do đó luật pháp là phương tiện
cần đặt ra trong tiến trình hoà giải để đạt cứu cánh đạo đức. Nhưng làm sao tìm hiểu rỏ được tình hình?
Chuơng IV
Để tìm hiểu
vấn đề lượng giá về
tiến trình hoà giải chính trị,
tác giả không dựa
trên lý thuyết ở phần
I mà luận giải, nhưng
tìm ra những đóng góp trực tiếp
và gián tiếp cho hoà giải
để xây dựng lại mối
quan hệ chính tri.
Điều
kiện trực tiếp
là tiến trình phải
hữu hiệu, làm
gia tăng hiệu năng cầm quyền
của nhà lảnh
đạo và nâng cao trình độ dân chúng. Ngoài ra
có những đóng góp gián tiếp mà hy
vọng và xác nhận nhu cầu hoà giải là thí dụ.
Hy vọng
là gì? Hy vọng phản
ảnh một thái độ
lạc quan về
một mơ ước
sẽ thành tựu. Hy vọng
không là những ý nghĩ mà biểu hiện trong
hành động thực tế
và có tác động đến môi trường
mà tác giả goị là một
agential stance. Hy vọng cần
có sáng tạo nhưng cũng phải thực tế
khi cộng đồng có quá
nhiều mục tiêu tương
phản. Hy vọng làm gia tăng khả năng và thúc đẩy niềm
tin, đó là một
khởi đầu, nhưng chưa
là điều kiện đủ vì còn cần
đến xác nhận
nhu cầu đổi mới.
Phủ nhận
nhu cầu đổi mới thì hy vọng trở
thành mơ hồ. Phủ nhận
có nhiều hình thức, hoặc quyết
liệt, hoặc chung
chung của dân chúng và chính quyền. Cả hai
né tránh thảo luận những
sự thật mà Argentina là
thí dụ. Không những chính quyền
phủ nhận các biện
pháp tàn ác vì áp lực dân chúng và quốc
tế không đủ mạnh và nạn nhân cũng né
tránh vì cảm thấy không thể đối
đầu với bạo
lực. Chính quyền cho là có những sai lầm cục bộ
và nạn nhân chỉ muốn
quên đi cho yên chuyện. Thái độ của
chính quyền trong việc
xác nhận hay phủ nhận các
tội ác đều tùy thuộc
vào phản ứng của nạn nhân, nhưng
cả hai phủ nhận tầm
quan trọng của vấn
đề làm vi phạm trầm
trọng hơn. Cuối cùng, cả
hai không thể thúc đẩy
nhau để công nhận
nhu cầu hoà giải.
Tôn trọng
luật pháp, tin tuởng nhau về khả năng và thiện
chí sẽ phát huy cơ sở đạo đức
mà tác giả gọi chung là moral
agency, một vấn đề
cần phải tôn trọng
và phát huy. Dù có luật lệ tôn trọng
nhân quyền nhưng vi phạm
đã diễn ra một cách có hệ
thống và công tác chấp
pháp không hữu hiệu, không ai có thể tác động
tích cực cho ai và bi quan là một thái độ
hợp lý. Hoạt động của người dân và chính quyền đặt trong sự
kiểm soát của pháp luật
như Fuller đã đề
ra, nhưng phải
thực thi trong điều kiện nào thì
đó là vấn đề. Tác động
hổ tương là một
nguyên tắc đạo đức chung. Dù luật
pháp đã có, nhưng chưa làm cho
người dân tuân theo khi chính quyền
không tạo điều kiện để
luật được áp dụng
công minh mà lại dùng luật chỉ để
lo bảo vệ cho chế độ.
Niềm tin vào sức mạnh của luật
pháp cũng quan trọng như niềm
tin liên hệ đến chính trị.
Sự phán đoán của từng cá nhân là chủ
yếu nhưng vấn
đề không đơn giản
trong thực tế vì thường thì người
dân không xác định được quyền của
mình trong hệ thống luật
pháp là thế nào.
Niềm
tin về chính trị
đòi hỏi người dân là được có cơ hội trao
đổi ý kiến và chính
quyền nên cởi mở trong các
quan điểm dị biệt.
Tin tưởng khả năng và thiện chí chung
và đáp ứng nhau trong thực
tế là yêu cầu nhưng baọ
lực, tham nhũng và không minh bạch trong quan
hệ là trở ngại. Cụ thể
cần nhất là mức độ
ràng buộc về mặt
pháp luật.
Mức
độ tuân thủ
luật pháp của người
dân và chính quyền sẽ thay đổi
trực tiếp đến
tiến trình. Khả năng của cá nhân sẽ
thay đổi khi cấu trúc xã
hội thay đổi,
tạo cho người
dân là một thành viên thực
sự được tôn trọng
trong cộng đồng, một
tác nhân có hiệu năng trong sinh hoạt xã hội. Nếu
đạt được thì gia
đình và xã hội trở thành một
mạng lưới tương thuộc
và cá nhân sẽ phát triển khả năng. Nhu cầu
hoà giải là cải cách mối quan hệ, nhưng thực tế phức tạp nên vấn đề đòi hỏi không
những là lượng giá mà phải hiểu biết nhu cầu ưu
tiên. Trừng phạt thủ phạm là chính nhưng tìm ra sự thật là quan trọng hơn, như
kinh nghiêm tại Nam Phi. Chọn lựa một phương cách thích hợp là làm sao vừa tôn
trong luật pháp vừa đạt được mục tiêu hoà giải và có giá trị đạo đức.
Tuân thủ
các cơ sở đạo đức trong tinh thần hổ tương (respect
for moral agency and reciprocity) có hai giá trị đạo đức. Thứ nhất là không nên
xem ngưòi dân và chính quyền như là một phương tiện để đạt được mục tiêu hoà giải
mà chính họ là cứu cánh quyết định hoà giải. Thứ hai là tinh thần hổ tương có ảnh
hưởng đến cá nhân và xã hội. Hợp tác chỉ có giá trị khi có sự đóng góp trong
tinh thần chia sẻ trách nhiệm chung. Nhưng làm sao xác nhận ưu tiên chung? Có
hai loại ưu tiên, thứ nhất là tầm mức của mối quan hệ cần được đổi mới và các hậu
quả sẽ xãy ra. Thứ hai là tìm cách loại trừ những nhu cầu không cần thiết. Nhưng
vấn đề được áp dụng như thế nào qua hoạt động của
TRC?
Chương V
TRC không
phải là một đặc thù của
Nam Phi mà từ hơn ba thập
niên qua cũng là một mô hình tại Argentina,
Sri Lanka, Ghana, Haiti, Guatemala, Chile, Philippines, Uganda, El Salvador, Peru
và Sierra Leone. Những trở
ngại đã thảo
luận ở phần
I được tác giả đặt ra trong
bối cảnh chuyển
tiếp để xem TRC có
thể phát huy
khả năng tôn trọng đạo đức, xây dựng
lại bản sắc
đoàn thể xã hội và tình cảm
gắn bó cho cộng
đồng không, điều mà tác giả
gọi chung là respect
for moral agency.
Mỗi thành viên trong xã hội là một tác nhân cho cơ sở đạo đức.
Khả năng cá nhân có ba hình thức. Khả năng
thứ nhất là công nhận và áp dụng
lập luận đạo
đức của người
khác. Hiểu và giải
thích được thì mới
công nhận giá trị
chung về đạo đức
đề áp dụng. Khà
năng thứ hai là hiểu
được những cảm
xúc của người khác. Cùng cảm thông nhau trong bất
hạnh, chia sẻ những
tổn thương sẽ giúp tìm
ra những phương cách đối
ứng thích hơp.
Khả năng thứ ba là thúc đẩy
cho người khác lập
luận đạo đức.
Ba khả năng này giải thích tại sao đạo
đức tại Nam Phi bị suy đồi. Tác giả dẫn
chứng tác phẩm của Antjie Krog, một ký giả
Nam Phi đã theo dỏị các phiên điều tra
tại TRC làm thí dụ. Krog tường thuật các
đối xử nhẩn tâm
với các
nạn nhân với tất cả những bi
thương cùng cực.
Krog phẩn nộ:
„Ai gây nên nổi và lý do tại sao? Tại sao chúng ta có thể
mất nhân tính trước những con người
bình thường mà chúng ta gặp hàng ngày trên đường
phố, trên xe buýt hay tàu hoả, những người qua mà cơ
thể và quần áo biểu hiện nghèo đói và làm việc
cực nhọc? Trước
con người đáng quý mến mà chúng ta lại đối xử
như họ một đống rác, tệ hơn con chó?“. Đó là câu hỏi mà mọi người có trách nhiệm
trong chế độ phải trả lời. Vô cảm taị các nước độc tài
là hậu quả, nhưng đâu
là nguyên nhân làm các khả năng nhạy cảm về đạo đức suy
yếu?
Tác giả trả
lời vấn đề do từ khủng hoảng bản sắc cá nhân
và cộng đồng mà xung đột tôn giáo taị Bắc Ái Nhỉ
Lan là một thí dụ khác. Mổi năm có đủ
loại các cuộc biểu tình của tất cả các đoàn thể, mà năm 2003 có đến 3.100 cuộc là thí dụ. Đặc
biệt nhất là các cuộc tuần hành của Tin Lành nhằm
hồi tưởng những biến cố
lịch sử quan trọng trong năm, thứ nhất là ngày 1.7
để tưởng niệm chiến thăng muà hè 1916 và sự
hy sinh của nhiều quân nhân Bắc
Ái Nhỉ Lan và thứ hai là ngày 12. 7 để kỷ niệm
ngày chiến thắng của lực lượng
William đánh bại đạo quân Công giáo của vua James vào năm 1690. Biểu tình để
tưởng niệm mà còn kèm theo nhạc điệu oai hùng
làm cho người Công giaó
có cảm tưởng họ đang bị Tin Lành lấn áp. Vì
có nhiều xung đột và gây nhiều người chết khiến
họ áp lực chính quyền không cho đoàn tuần
hành được đi qua khu vực của Công giáo. Những
dị biệt bản sắc
tôn giáo của hai cộng đồng do lịch sử để lại
mà ký ức tập thể đã tạo nên bản sắc. Ký ức tạo
nên một khuôn mẩu hành động cho mục
tiêu tôn giáo trong hiện tại và tương lai. Lịch sử
cộng đồng tạo thành một định mệnh chung cho tất cả thành viên, mà không thể
tránh được những cảm xúc do hãnh diện hay đau buồn. Cảm xúc nào cũng bị đãi lọc
qua thời gian và để lại
những nét đặc trưng nhất cho đoàn thể,
mà biểu tình là một thể hiện.
Tác giả đưa
ra hai khiá cạnh, một là tìm ra giới hạn
của các thành viên và hai là tìm ra những khuôn mẩu
đã làm suy yếu tác động đạo đức của cộng
đồng. Những hiểu biết và hồi ức này chỉ có giá trị mức
độ. Hồi tưỏng bất công quá khứ là
vấn đề cần thiết nhưng lại là một cơ
hội tìm lại bản sắc. Không thể loại trừ ký ức cá
nhân ra khỏi tập thể và ký ức tập
thể là một khởi đầu.
Quá khứ phải được
nhớ lại là một tiến trình chọn lọc để
giúp cho cộng đồng tạo một ký ức chung đáng lưu giử.
Trước vấn đề này thì TRC có thể
đóng góp gì?
TRC là một
diễn đàn cho nạn nhân, sưu tầm các tự sự
làm thành tài liệu lưu giử, so chiếu
các tố giác của nạn nhân với thực tế và tìm ra sự thật.
TRC còn là một cơ hội, môi trường tác động cho sự
chuyển hoá mà những tự sự
của các thành viên gây ảnh hưởng sâu đậm, dù
tài liệu về do TRC sưu tầm chỉ có giới
hạn giá trị về thời gian. Trong báo caó chung quyết TRC
xác nhận trước công luận là chế độ phân biệt chủng tộc
chỉ có thể được duy trì do
sử dụng bạo lực.
Tác giả tự
nhận việc phân tích còn mơ hồ khi đưa ra ba quan
tâm chính. Dù làm việc liêm chính và tìm ra và chấp nhận sự
thật, nhưng giá trị của những tài liệu của TRC này chỉ có giai đoạn và cá nhân.
Không có gì đảm bảo là TRC sẽ làm tròn chức năng vì còn có những điều kiện khác
gây ảnh hưởng đến khả năng của TRC, thí dụ như khả năng
chuyên môn của các điều tra viên, phương
cách tổng hợp và lượng
giá bằng chứng, hợp tác cuả nạn nhân và đồng tình của công luận. Tính chính thống
của TRC cũng còn là vấn đề cần thảo luận, nhưng báo cáo
chung quyết của TRC có ảnh hưởng nhất định đến
công luân. Do đó, chủ yếu là làm sao phát triển khả năng cơ sở
đạo đức và xác định lại ký ức tập thể.
Chương VI
Trước khi luận
giải về vai trò của các Toà án Hình sự quốc
tế tác giả
bàn đến hoàn cảnh
các xã hội đang chuyển
hoá
và dùng luận đề của Fuller
để trưng dẩn. Luật
là một khuôn khổ
chung để mọi người
tự điều hành. Nhưng
điều kiện này chưa có đủ khi lạm dụng luật pháp của chính quyền
và vô cảm của dân chúng đã quá trầm trọng mà Argentina, Nam Phi và Bắc Ái Nhỉ
Lan là thí dụ.
Dù luật
pháp Argentina được ban hành nhưng không ai tuân thủ. Quyền lực
chính quyền bắt nguồn từ
đảo chính và sao đó tìm cách gia tăng ảnh hưởng
bằng nhiều cách và cuối cùng các chánh án chỉ có
nhiệm vụ hợp thức hoá tính
chính thống của chế độ. Khi chính quyền
làm thế thì dân chúng chỉ còn trốn
thuế, buôn lậu và lo hối lộ. Tất cả mọi người
đều muốn sống tốt đẹp hơn, nhưng không ai được
thúc đẩy để theo đuổi mục đích này.
Nam Phi thiếu
khả năng để duy trì luật pháp, vì chế độ cảnh sát trị
nên Nam Phi chỉ đào tạo được nhiều mật vụ nhưng kém khả năng trong thủ tục điều tra hình sự và thu thập
bằng chứng. Toàn bộ nhân viên cần
được trao dồi
nghiệp vụ cho nhu cầu mới.
Tình hình Bắc
Ái Nhỉ Lan cũng không thể khá hơn và
sự bất tín nhiệm của các lực
lượng quá khích Công giáo từ
1922-2001 là thí dụ. Công giáo không hề hợp tác với cảnh
sát là một truyền thống lịch sử và cảm tưởng
thù nghịch vẫn còn đè nặng cho đến
ngày nay, cho dù cam kết của Anh là sẽ cải thiện hệ thống cảnh sát.
Trước tình hình này thì Toà
án Hình sự quốc tế có thể
đóng góp gì? Tác giả giới thiệu ba trường hợp là
Toà án Hình sự quốc tế Nam Tư củ (International Criminal
Tribunal for the former Yugoslavia, ICTY), Toà án Hình Sự
quốc tế Rwanda (International Criminal
Tribunal for Rwanda, ICTR), và Toà án Hình sự
quốc tế (International Criminal Court, ICC). Các toà này xét xử
các vi phạm nhân quyền quốc tế theo công
ước Geneva, luật chiến tranh, diệt chủng và tội
ác chống nhân loai. ICTY và ICTR do Hội Đổng Bảo
An thiết lập và ICC do một hiệp ước của 104 nước
thoả thuận. Các Toà án Hình sự
khác tại Sierra Leone, Timor, Kosovo, Bosnia và Cambodia là một loại toà tổng
hợp với sự
tham dự của quốc tế và quốc gia. Điạ điểm
xét xử là các nơi đã xãy ra và ngân sách là do sư
đóng góp tự nguyện của các quốc gia và tổ
chức quốc tế. Hiện nay có 25 nước
đã có toà án loại này.
Tác giả bi
quan về vai trò cuả Toà án Hình sự
quốc tế vì lý do
ngân khoản hạn hẹp và hiểu biết giới hạn
về các vấn đề văn hoá,
ngôn ngữ địa phương
và tính chính thống của toà, tuy thế toà có những
tác động tích cực cần thiết
cho giáo dục về tinh thần thượng tôn pháp luât, đặc
biệt là tuân thủ luật về thủ tục và những tiêu chuẩn
luật pháp được quốc tế công nhận. Nguyên tắc
suy đoán vô tội, không trì hoản xét xử, phương
cách thu thập và đánh giá bằng
chứng, đối xử
với thủ phạm trong suốt thời kỳ xét xử theo đúng
thủ tục là chủ yếu. Toà án nêu gương xét xử cẩn
trọng, nghiêm minh và gây niềm tin cho dân chúng. Sự
yên tâm của người dân là từ nay khi bị bắt
không sợ bị tra tấn,
bị kết tội không có nghiã là chờ chết và hợp
tác sẽ không còn nguy hiểm cho thân
nhân.
Nhưng tác
giả cũng dè dặt hơn khi đề cao vai trò giáo dục của toà. Toà
án không thể giải quyết được mọi vấn đề xã hội mà Nam
Phi là một điển hình. Tính chính thống của toà
án chỉ có đuợc khi phù hợp với quan điểm chính trị của
địa phưong. Gây phe nhóm và tham nhũng của các viên chức quốc tế
mang tác dụng ngược lai. Hiệu năng của
luật thủ tục cũng đáng nghi ngờ. Sơ suất của luật thủ tục làm cho thủ phạm được
tha, gây công phẩn cho nạn nhân, không taọ niềm tin cho việc hợp
tác trong tương lai và không tác dụng trừng phạt thủ
phạm. Cộng đồng quốc tế cũng không thể đóng góp
nhiều hơn.
Các nhu cầu
tái thiết khác cấp bách cũng như hoà giải. Vần đề là phải chọn
lưạ ưu tiên nào, giáo dục, y tế hay luật pháp trong tiến trình chuyển hoá. Giả cả và hiệu năng để theo
đuổi là vần đề cần đặt
ra.
Kết luận
Mô hình hoà
giải của Nam Phi là xây dựng lại mối
quan hệ chính trị và đòi hỏi sự hợp tác trong tôn trọng,
Cá nhân cần có cơ hội
đóng góp khi nhân quyền được bảo vệ,
được công nhân là thành viên trong trong cộng
đồng và là tác nhân có khả năng, trách nhiệm
và thiện chí. Xây dựng niềm tin, phát
huy khả năng của chính quyền và dân chúng
trong tin thần thượng tôn luật
pháp là bước khởi đầu. Tác động hổ tương
sẽ tạo cơ sở đạo đức và phát
huy dân chủ.
Mổi xã hội
chuyên đổi có những hoàn cảnh đặc thù, nên hoà giải
là một tiến trình phức
tạp và năng động và cũng không giống
Nam Phi. Hoà giải không đồng nghiã trừng phạt thủ phạm, vì giải
quyết vi phạm nhân quyền
là tim ra sự thật đóng góp cho cho tiến
trình. Khởi đầu là hy vọng
và niềm tin, sau đó thành lập
các uỷ ban hoà giải
và toà án hình sự. Dù có những
nhu cầu hoà giải
cấp bách, nhưng cũng có những hoà giải đòi hỏi nhiều
thời gian, và thực tế thì thiếu
khả năng, thiếu niềm tin, không thiện chí hợp
tác gây tác hại.
Thành quả của
TRC còn quá khiêm nhường để giải quyết
các bất công trong quá khứ cũng như
phát huy khả năng cá nhân và xã hội cho tương lai. Các
tòa án hình sự quốc tế
chỉ tác dụng về giá trị
giáo dục để cải tổ luật
pháp và xây dựng dân chủ. Dù chính
quyền có quan tâm qua hoạch định chính sách
cũng không thể giải quyết vấn
đề tận gốc vì giá trị của luật
pháp chỉ có giới
hạn, khi những đàn áp cuả chế độ
vẫn còn tiếp
diễn và các tác động
tiêu cực khác của xã hội
còn quá mạnh.
Do đó, tiến
trình hoà giải tại các quốc gia chưa
có dân chủ còn nhiều khó khăn mà ưu tiên nhất là một cuộc đối thoại thoại
rộng rải của chính quyền được
sự hợp tác của đông đảo quần chúng.
Nhận xét
Về hình thức, tác giả trình
bày đề tài trong một bố cục chặt chẻ với những ý tưởng mạch lạc giúp cho người
đọc theo dỏi vấn đề một cách xuyên suốt. Tác giả có khả năng diển
đạt trong sáng, không dùng thuật ngữ khó khăn hay luận
thuyết cô động, một khó khăn chung mà độc giả loại sách triết học luôn gặp phải, đây cũng là điểm đáng ca ngợi.
Về nội dung, với phương
cách tham khảo tài liệu và dẫn chứng công phu, tác giả thuyết phục được người đọc
qua các luận giải. Vì luận điểm của
Fuller là chủ đề chính mà tác giả dùng để phân tích, nên các ý tưởng này bị lập
lại khá nhiều dù qua các nội dung phân tích khác nhau, nhưng sự trùng lấp đôi
khi không thể tránh được.
Tóm lại, A Moral Theory of
Political Reconcialtion của Colleen Murphy là một tác phẩm giá trị vì đã soi
sáng nhiều
vấn đề bổ ích và dể đọc. Hy vọng sẽ có
dịch giả chuyển ngữ để giúp cho độc giả có cơ hội so sánh các kinh nghiệm quốc
tế với tiến trình hoà giải chính trị tại Việt Nam hiện nay, một
vấn đề cần thảo luận mà ít được quan tâm và vượt ra khỏi khuôn khổ của bài viết
này.
Discussion about this post