KHÁI NIỆM CỦA PHẬT |
|
|
Trong
bài viết này, có 3 điểm chính được đề cập :
I. Các khái
niệm cơ bản về Môi sinh và khủng hoảng Môi sinh.
II. Khái
niệm của Phật giáo về Môi sinh.
III. Đạo
đức Môi sinh.
I. Khái niệm cơ bản về
Môi sinh
và
cuộc khủng hoảng Môi sinh.
1. Khái niệm về Môi
sinh.
Môi sinh tương đối là một khoa học mới liên hệ
đến nhiều nguyên lý điều hành các mối liên hệ giữa các sinh thể và Môi sinh. Có
nhiều định nghĩa về Môi sinh. – đây chỉ đơn cử một số. P. D. Sharma (F.N.I.E.,
Ban (Khoa) Thực vật học, Đại học Delhi) đã viết trong tập sách của ông nhan đề
“Sinh thái học và Môi sinh” rằng:
“Ngày nay Sinh
thái học đã và đang đóng góp rất nhiều cho các chính sách về xã hội, kinh tế,
chính trị và các chính sách tương tự của thế giới. Thật rất phổ biến khi kiếm
tìm các tham khảo về sinh thái học trong các bài viết, tạp chí, tuần báo và
nhật báo về xã hội, kinh tế học. Môi sinh thật sự giữ một vai trò quan trọng
trong vấn đề an sinh của con người. Đây chủ yếu là chủ đề của một ngành học, và
ngành học sinh thái hiện tại chú trọng đến chức năng các tương thuộc giữa các
sinh thể và môi trường sống của chúng“. (1)
P.D. Sharma tiếp :
“Không phải chỉ
có Môi sinh ảnh hưởng đến các sinh thể, mà các sinh thể cũng bổ sung cho Môi
sinh như là kết quả của sự phát triển, phân tán, tái sản sinh, chết, tan
hoại… của các sinh thể. Như vậy Môi sinh được gây nên sự đổi thay do các hoạt
động của các sinh thể. Môi sinh và các sinh thể năng động mở đường phát triển
cho nhiều loại sinh thể khác qua một quá trình được gọi là sự kế thừa. Quá
trình ấy tiếp tục cho đến khi sự phát triển của cộng đồng như hiện tại tự nó có
thể tự điều chỉnh cân bằng với Môi sinh. Giai đoạn cuối này của cộng đồng được
gọi là đỉnh cao của phát triển“. (2)
Hai đoạn trích dẫn trên
đây chứng tỏ rằng có một mối liên hệ sinh động giữa con người và Môi sinh, mối
liên hệ ấy liên tục, bất khả phân và tự nhiên. Mối liên hệ rất mật thiết này
nói lên rằng quấy nhiễu Môi sinh có nghĩa là quấy nhiễu đời sống của các cá
nhân như chúng ta có thể thấy từ cuộc khủng hoảng Môi sinh đương thời.
2. Cuộc khủng hoảng Môi
sinh.
Nhóm hội thảo về ô nhiễm
(Môi sinh) của Ban Cố vấn Khoa học của Tổng thống (USA) định nghĩa từ “ô
nhiễm” trong bản phúc trình của nhóm nhan đề “Phục hồi phẩm chất Môi
sinh của chúng ta”, tổ chức vào tháng 11-1965, rằng :
“Ô nhiễm Môi
sinh là sự thay đổi không thuận lợi về môi trường sống chung quanh, như là toàn
thể hay phần lớn hậu quả của các hoạt động của con người, qua các ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp về sự thay đổi các mẫu hình năng lượng, các cấp độ
phóng xạ, qua sự cấu thành thuộc vật lý hay hóa học và qua sự thừa thãi của các
sinh thể. Các thay đổi này có thể trực tiếp ảnh hưởng đến con người, hay ảnh
hưởng qua sự cung cấp nước và cung cấp các sản phẩm nông nghiệp, sinh vật, qua
các tư hữu hay các đối tượng vật lý, hay qua các dịp con người giải trí, tìm
hiểu thiên nhiên“. (3)
Đề cập đến vấn đề
“năng lượng hạt nhân – sự cứu rỗi hay trừng phạt”, E.F. Shumacher,
trong tập sách của ông nhan đề “Những cái nhỏ bé là tốt đẹp” (Smallis
Beautiful), viết :
“Về tất cả những
đổi thay mà con người đã đưa vào ngôi nhà của thiên nhiên thì sự phân hạch hạt
nhân với quy mô lớn hẳn rõ là điều sâu xa và nguy hiểm nhất. Các bức xạ hạt nhân
là hậu quả đã và đang trở nên một nhân tố nghiêm trọng nhất cho vấn đề ô nhiễm
Môi sinh, và là sự đe dọa lớn nhất cho sự tồn tại của loài người trên trái đất.
Không còn ngạc nhiên gì nữa, bom nguyên tử đã thu hết sự chú ý của người đời,
dù đang còn ít nhất một cơ hội mà nó sẽ không bao giờ được sử dụng nữa. Cái
nguy hiểm đối với nhân loại gây ra do việc dùng năng lượng nguyên tử phục vụ
hòa bình có thể còn to lớn hơn nhiều“. (4)
Lại nữa, việc các cường
quốc vứt bỏ các thừa thãi vào đại dương, vứt bỏ các đồ phế thải vào sông hay
vào lòng đất, giao thông thải các khí, cháy rừng… là các nguyên nhân chính của
ô nhiễm. Các khối lượng khí CO2 (Carbonic) phóng ra ngày càng nhiều làm cho bầu
không khí chung quanh trái đất nóng dần lên làm thay đổi khí hậu rất nguy hại
đến đời sống của con người. Thật là nguy hiểm và kinh sợ !
Bấy giờ người ta có thể
nêu lên vấn đề : Phật giáo có thể đóng góp gì cho việc giải đáp cuộc khủng
hoảng Môi sinh hiện tại ? Có thể đóng góp gì cho việc bảo vệ Môi sinh ?
II. Khái niệm của Phật
giáo về Môi sinh.
1. Giáo lý Duyên khởi
(Paticcasamuppada).
Như chúng ta biết giáo
lý Duyên khởi mà đức Phật đã chứng ngộ nói lên rằng : Do Vô minh mà có Hành ;
do Hành mà có Thức ; do Thức…; do Danh Sắc…; do Lục Nhập…; do Xúc…; do
Thọ…; do Ái…; do Thủ…; do Hữu…; do Sanh mà có lão tử, sầu bi, khổ, ưu,
não. Trong đó, Danh và Sắc không bao giờ tách khỏi nhau, và cũng không bao giờ
tách rời khỏi 11 chi phần nhân duyên còn lại. Cũng thế đối với Hữu (Tam Hữu).
Thế nên Sắc bao gồm thân thể vật lý của con người và thế giới vật lý. Sự vận
hành của Sắc là sự vận hành của các hoạt động của tâm thức (Danh), và ngược
lại. Điều này nói rõ rằng Môi sinh và đời sống con người là tương hệ.
2. Ngũ Thủ Uẩn (Panãca
Khandhas)
Tương tự như trên đối
với sự vận hành của 5 uẩn :
Đức Phật dạy :
“Này các Tỷ
kheo, Ta sẽ dạy cho các Thầy 5 uẩn và 5 thủ uẩn. Hãy lắng nghe. Này các Tỷ
kheo, thế nào là 5 uẩn ? Tất cả sắc, này các Tỷ kheo, thuộc quá khứ, hiện tại
hay vị lai, thuộc trong hay ngoài, thô hay tế, thấp hèn hay cao sang, xa hay gần,
đều gọi Sắc uẩn. Tất cả Thọ, Tưởng, Hành, tất cả Thức thuộc quá khứ, hiện tại
hay vị lai….. Đều gọi là Thức uẩn”. (5)
– đây, cái gọi là Sắc
uẩn của chúng ta bao gồm cơ thể vật lý của cá nhân và thế giới vật lý ở bên
ngoài. Nói khác đi, Môi sinh là một phần khắng khít của cơ thể vật lý của chúng
ta. Điều này gợi ý lên cho nhân loại nhiều điều bổ ích.
III. Đạo đức Môi sinh.
Nay chúng ta không ngần
ngại nói rằng chúng ta bảo vệ Môi sinh khỏi ô nhiễm thực sự là bảo vệ đời sống
và hạnh phúc riêng tư của chúng ta. Đây là sự thật và là tự nhiên. Đây cũng là
ý nghĩa được bao hàm trong lời dạy về Từ bi (Mettà) sau đây :
“Tất cả chúng sinh
: yếu hay mạnh, cao, to hay trung bình, thấp, nhỏ hay lớn, không trừ một ai,
các chúng sinh được thấy hay không được thấy, những ai sống xa hay gần, đã sanh
hay sẽ sanh, mong rằng tất cả sống hạnh phúc !
Mong không có ai lừa dối
ai, không có ai khinh rẻ ai tại bất cứ nơi đâu. Mong rằng mỗi người đừng mong
làm thương tổn người khác vì giận hờn hay vì sân.
Như người mẹ che chở cho
người con độc nhất của mình trọn đời, cũng thế, mong mỗi người hãy tu tập tâm
vô lượng đối với tất cả chúng sinh”. (6)
Như thế, vạn hữu trong
hiện tại và trong tương lai cần được bảo vệ (chở che) như người con độc nhất
được người mẹ thương yêu che chở.
Đấy là khái niệm về Môi
sinh của Phật giáo.
Từ cái nhìn sự vật này,
có thể xây dựng một hệ thống đạo đức Môi sinh.
1. Đạo đức.
Từ điển Giáo dục (2nd.
Ed. Mc Graw-Hill…) định nghĩa :
“Môn học về tánh
hạnh con người, không phải chỉ tìm hiểu sự thật như thật, mà còn tìm hiểu giá
trị của điều thiện về các hành động của con người ; Khoa học về hạnh kiểm con
người ; liên hệ đến các phán xét điều phải làm (phải và trái, bổn phận phải
làm) và với các xét đoán về giá trị (thiện hay ác)” (p.208).
Về ý nghĩa nhân bản, đạo
đức có nghĩa là :
“Lý thuyết khám phá
ra các chuẩn mức và mục tiêu về hạnh kiểm trong sự an sinh về xã hội, tâm lý và
sinh lý của các cá nhân, những cá nhân làm thành xã hội”. (Ibid.,
p.208).
2. Đạo đức Môi
sinh.
Chúng ta có thể hình
dung ra rằng con người sinh ra để hạnh phúc mà không phải để khổ đau. Tiêu
chuẩn đúng của hành động thiện của con người hẳn là cần được xây dựng trên cơ sở
sự an sinh thuộc xã hội, tâm lý và sinh lý của con người và sự an ổn của Môi
sinh. Ngược lại là hành động ác. Con người phải chọn lựa một trong hai giá trị
ấy. Để chọn lựa, con người cần quan tâm đến các điểm chủ yếu sau đây :
1. Hầu như mọi giá trị
của nền văn hóa đương đại là xây dựng trên tư duy hữu ngã (vô minh), các giá
trị ấy cần được soi sáng dưới ánh sáng của Duyên Khởi (vô ngã # minh). Nói khác
đi, giáo lý Duyên Khởi cần được quảng bá rộng rãi trong thể giới giáo dục và
trong xã hội để hình thành một hướng mới văn hóa bảo vệ Môi sinh.
2. Giáo lý Duyên Khởi
nói lên rằng “Một” hiện hữu trong “Tất cả”, và “Tất
cả” hiện hữu trong “Một”. Ô nhiễm hay rối loạn ở nơi này là ô
nhiễm hay rối loạn ở những nơi khác trên thế giới. Sự thật này yêu cầu các cá
nhân, tổ chức và mọi quốc gia có bổn phận và trách nhiệm bảo vệ Môi sinh cùng
lúc vì sự sống còn của nhân loại.
3. Sự thật Duyên Khởi
cần được đưa vào Sinh thái học làm lý thuyết căn bản, và cần được xem là triết
lý Môi sinh và đạo đức Môi sinh.
4. Ngoài ra, việc kêu
gọi ngưng thử nghiệm nguyên tử và hóa học cần được lập lại nhiều lần. Cũng thế
đối với việc kêu gọi hạn chế cái gọi sử dụng năng lượng nguyên tử cho các mục
tiêu hòa bình, và tạo ra biện pháp an toàn cho việc loại bỏ các chất thải từ
các nhà máy và các xưởng công nghiệp.
5. Biện pháp hạn chế các
việc thải các hơi độc trong không gian.
6. Các biện pháp bảo vệ
rừng và các động vật khỏi các sự tàn phá.
7. Các biện pháp xây
dựng hòa bình lâu dài trên thế giới.
8. Điều sau cùng nhưng
quan trọng nhất là giúp con người hiểu và kiểm soát dục vọng (lòng khát ái) (có
nghĩa là tham, sân, si) vốn là nguyên nhân cơ bản của mọi nguyên nhân gây ra ô
nhiễm Môi sinh. Có nghĩa là giải thoát sự ô nhiễm tâm thức. Nếu các ham muốn
dục lạc, dục tình càng ngày càng gia tăng như đang xảy ra thì sẽ không có cách
nào để bảo vệ Môi sinh như những điều mà chúng ta học được từ giáo lý Duyên
khởi : chỉ còn một điều còn lại : sự tàn lụi, khổ đau và sự hủy diệt đối với
các sinh thể trên thế giới.
Sự phát triển tương lai
của nhân loại cần được hướng dẫn bởi Chánh kiến và Chánh tư duy (có nghĩa là
Trí tuệ) như những gì đức Phật đã dạy chúng ta, và đạo đức Môi sinh cần được
xây dựng trên nền tảng Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh và Chánh niệm. Đây
là con đường sống duy nhất. Con người không còn có chọn lựa nào khác, không còn
con đường nào khác.
Thích Chơn Thiện
(1). P.P. Sharma,
“”Ecology and Environment”, Rastogi Publications, 6th. Ed.,
1992, p.2.
(2).
Ibid., p.14
(3).
Edward J. Kormondy, “Concept of Ecology”, Prenticehall of
(4). E.
F. Schumacher, Small is Beautiful”, an Abacus book, Printed in England by
Clays Ltd. St. Iros plc, 1993, p.112.
(5).
Kindred Sayings, Vol. III, PTS,
pp.41-42.
(6).
Mettà-suttam, “Sutta-Nipata”, Tr. H. Saddhatissa, Curzon Press,
Discussion about this post