PHẬT GIÁO VÀ VẤN ĐỀ NÓNG LÊN TOÀN CẦU |
|
|
Môi trường sống là nơi
hàm chứa những điều kiện cần thiết cho sự sống của tất cả sinh vật. Nó bao gồm
khí quyển, đất, nước, tài nguyên động – thực vật… có trong thiên nhiên của
trái đất. Và điều chúng ta cần phải ghi nhớ, chúng tuy là những tài nguyên vô
giá nhưng không có nghĩa là vô hạn.
Mật độ dày đặc của mọi
sự sống trên khắp các vùng của hành tinh này là nền móng cơ bản thúc đẩy sự
phát triển các cơ sở từ hạ tầng đến thượng tầng kiến trúc, cũng như các công
trình văn hóa vật thể và phi vật thể. Bên cạnh đó, từ những nguồn tài nguyên
của trái đất còn được tận dụng để nhằm phục vụ cho lợi ích sinh hoạt của con
người.
Nước biển đóng một vai
trò vô cùng quan trọng đối với sự sống của con người, vì ngoài việc cung cấp
các nguồn muối khoáng – thủy – hải sản thì trong lòng đại dương còn chứa những
tài nguyên khác có giá trị vô cùng to lớn trên phương diện giải trí – thẩm mỹ
của con người.
Bầu khí quyển chính là
lá phổi của mọi sự sống, vì mọi sự sống không thể phát triển một cách mạnh mẽ
nếu như bầu khí quyển bị ô nhiễm. Do vậy, quá trình quang hợp trao đổi khí của
thực vật đã bảo đảm cho việc cân bằng sinh thái và trong sạch bầu khí quyển,
nghĩa là tối thiểu mật độ trung bình cần có cho sự sống là 0,03% CO2 và
28% O2 với nhiệt độ trung bình 25 – 30ºC và độ ẩm là 80%.
Bầu khí quyển được bao
bọc bởi tầng Ozone (O3) dày đặc. Khoảng cách giao động từ mặt đất đến tầng
Ozone là 10 – 20km. Ozone được công nhận là một chất hoá học từ năm 1840. Nó là
một tác nhân oxít hoá mạnh hơn O2 và không bền ở nồng độ cao, phản ứng càng
mạnh khi nhiệt độ tăng, đặc biệt thích ứng với các kim loại. Số Ozone trên bề
mặt của bầu khí quyển có khả năng lọc được hầu hết các tia sáng có độ dài sóng
ngắn hơn 320rm của tia cực tím mặt trời. Các tia nắng này có hại cho sinh vật
nếu hiện diện với nồng độ cao. Trong khí quyển, Ozone được tạo ra do phản ứng
của tia cực tím với O2, và Ozone là hiệu ứng nhà kính
1. Hiệu ứng nhà kính
là gì ?
Mùa đông ở phương Bắc
giá lạnh làm cho cây cối xác xơ tiêu điều, nhưng ở trong nhà kính lại ấm áp,
rau cỏ tốt tươi, sinh cảnh tràn đầy sức sống của mùa Xuân! Đây là hiệu ứng nhà
kính vì kính (thuỷ tinh) có đặc tính là để bức xạ ánh sáng mặt trời đi vào,
nhưng ngăn bức xạ nhiệt ra khỏi, vì vậy, nhiệt độ trong nhà kính tăng dần.
Năng lượng từ bức xạ mặt
trời phát ra ở nhiệt độ cao phần lớn truyền đi thường có bước sóng ngắn nên rất
mạnh. Nó có thể xuyên qua khí quyển và được bề mặt trái đất hấp thu. Trái đất
cũng phát xạ năng lượng trở lại không trung với nhiệt độ bức xạ thấp và truyền
đi phần lớn là những bước sóng dài nên yếu hơn. Khi mức sóng của trái đất đi
qua khí quyển thì phần năng lượng bị ngăn lại và hấp thu bởi các chất khí và
hơi nước có trong khí quyển, làm cho bầu không khí nóng dần lên. Điều đó có
nghĩa là đã làm tăng nhiệt độ của bề mặt trái đất giống như ánh nắng đi vào nhà
kính nên gọi là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”.
Bình thường trong khí
quyển không bị ô nhiễm thì hiệu ứng nhà kính này rất quan trọng vì nó cung cấp
cho quả đất nhiệt độ là 35ºC. Đây là nhiệt độ rất cần thiết cho sự sống trên
trái đất. Nhưng nếu bầu không khí bao quanh trái đất ngày càng bị ô nhiễm thì
hậu quả của hiệu ứng nhà kính càng tăng cao và quả đất bị nóng lên theo thời
gian.
Bên cạnh đó, cộng hưởng
với hiệu ứng nhà kính là những khí thải mang độc tính cao được thải ra từ trái
đất làm phá vỡ cấu trúc của O3,. Vì Ozone thâu năng lượng các tia độc hại mà
nay lại ngày càng mỏng dần đi, và hậu quả là các loại tia ấy phát ra từ vũ trụ
sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập bề mặt trái đất và gây hại cho sự sống của sinh
vật, trong đó có con người.
2. Các tác nhân gây
hiệu ứng nhà kính
Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến hiệu ứng nhà kính:
– Hơi nước
–
Carbonđioxit (CO2)
– Núi lửa
– Đốt các
nhiên liệu hóa thạch
– Đốt phá
rừng nên khí hậu thay đổi.
Nguyên nhân chính làm
trầm trọng hiệu ứng nhà kính là do gia tăng lượng khí CO2 do cách mạng
công nghiệp và sản xuất vũ khí hóa học thải ra. Theo các nhà nghiên cứu thì cứ bình quân lượng khí CO2 trong khí quyển tăng 24 tỷ tấn/năm (25%) và sẽ
tăng gấp hai lần vào giữa thế kỷ XXI.
Ngoài ra, còn hai tác
nhân gây hiệu ứng nhà kính nữa là:
– Methane (CH4) sinh ra
do quá trình lên men sinh học hợp chất hữu cơ.
– Oxyd Nitơ
(N2O) sinh ra trong quá trình đốt nhiên liệu hoá thạch và sử dụng phân bón hữu
cơ và vô cơ trong nông nghiệp.
Còn hợp chất Choro (CFC)
lại là kẻ phá hoại chính của tầng Ozone. Đây là kết quả của những hoá chất được
sử dụng trong công nghiệp lạnh, công nghiệp rửa mạch điện tử, trong dung dịch
giặt tẩy, bình cứu hoả…. (CFC gồm CFC11, CFCl2, CFCl3, CF2Cl2 là hợp chất có
tên thông dụng là Freon 12 hay F12). Khi CFC đến thượng tầng khí quyển bị phân
huỷ do bức xạ cực tím sẽ thành phân tử Clor, phân tử này tham gia phản ứng với
Oxy của ozone (O3) sẽ phá huỷ tầng ozone. Khi tầng ozone mỏng dần rồi thủng đi
có nghĩa là nó không còn làm tròn trách nhiệm của một lá chắn trực tiếp bảo vệ
mặt đất khỏi bức xạ cực tím, gây hậu quả xấu cho sức khoẻ của con người và các
sinh vật sống trên mặt đất.
Thêm vào đó, ozone còn
bị ảnh hưởng rất lớn bởi các phản ứng của những hợp chất polyme có dây nối đôi
trong cấu trúc. Chẳng hạn như cao su, các bánh xe cũ và các sản phẩm từ polyme
bị con người đốt cháy,.v.v… Những hợp chất này có khả năng góp phần bào mòn và
tạo thành những lỗ thủng Ozone ngày càng rộng lớn trong bầu khí quyển.
Các nhà khoa học đã khám
phá tầng ozone (1979) có lỗ thủng xuất hiện ở Nam cực trên độ cao 16 – 23km.
Tháng 10/1987 phát hiện mật độ Ozone trên bầu trời Nam cực giản 50% tạo thành
lỗ hổng có diện tích bằng cả Châu Âu. Còn ở Bắc Cực tầng ozone giảm từ 3,5 –
5%. Ngày 17/10/1994 các nhà khoa học lại phát hiện một lỗ hổng của tầng ozone
có diện tích lớn nhất 24 triệu km2 đang lan rộng đến phía nam Châu Mỹ.
Nhiều nghiên cứu chứng
minh rằng nếu tỉ lệ ozone bị xuyên thủng bởi tia cực tím càng cao thì hệ hô hấp
và phổi sẽ càng bị ảnh hưởng. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc (11/1991) tầng
ozone trong khí quyển giảm sút 10% sẽ gây ra bệnh ung thư, đục thuỷ tinh thể
gây mù loà. Sự giảm sút mật độ tầng ozone sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng
như: làm biến đổi tính chất chuỗi thức ăn, làm hệ sinh thái mất cân bằng, giảm
năng suất vực nước, gây sự biến đổi về mặt khí hậu vì gia tăng tia tử ngoại góp
phần tăng cường hiệu ứng nhà kính.
Cho nên, hiện nay, việc
bảo vệ tầng ozone đã trở thành vấn đề sống còn của trái đất và một bộ phận bảo
vệ môi trường quốc tế với “Công ước bảo vệ tầng ozone” đã ra đời.
3. Trái đất nóng lên
ảnh hưởng đến môi trường sống của con người
Hàm lượng khí CO2 trong
không khí ở mức độ nhất định có thể làm cho trái đất duy trì được nhiệt độ
thích hợp. Nếu trong không khí không có CO2 thì nhiệt độ bình quân toàn cầu sẽ
là -150ºC, trái đất trở nên băng giá. Nếu hàm lượng CO2 tăng cao trái đất sẽ ấm
lên. Theo các nhà khoa học nếu nồng độ CO2 trong khí quyển tăng lên 420ppm thì tất
cả các băng tuyết ở núi cao, Bắc cực, Nam cực đều tan hết.
Do con người khai thác
quá nhiều ở các nguồn năng lượng hoá thạch: than đá, dầu mỏ, khí đốt, khiến cho
hàm lượng CO2 trong khí quyển tăng nhanh chóng. Theo ước tính thì mỗi năm, hàm
lượng khí CO2 tăng 0,7ppm, và dự kiến đến những năm 30 của thế kỷ XXI thì nhiệt
độ của trái đất tăng bình quân là 1,5 – 4,50C so với nhiệt độ hiện nay. Lúc đó nước
biển sẽ ấm dần lên, mực nước biển tăng cao, khả năng các khu dân cư, thành phố
ven biển bị nhấn chìm, đồng thời môi trường tự nhiên và hệ sinh thái bị phá huỷ
nghiêm trọng. Các thiên tai như gió lốc, mưa bão, sóng thần, lũ lụt, hạn hán sẽ
ngày càng nghiêm trọng hơn, đem lại sự tổn thất không thể lường được cho sự
sống của toàn cầu.
Theo Ngân Hàng Thế Giới
(WB) công bố ngày 26/02/2007, mực nước biển dâng do hiện tượng trái đất nóng
dần lên sẽ gây ảnh hưởng mạnh nhất ở các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam, nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Nếu nước
biển tăng lên 5m, Việt Nam có thể mất đi 16% diện tích đất với hơn 35% dân số và
khoảng 35% tổng giá trị GDP bị ảnh hưởng. Nếu mực nước chỉ tăng 1m vẫn có
khoảng 10,8% tổng dân số Việt Nam phải chịu ảnh hưởng tổn thất nặng nề.
Theo Bộ Tài Nguyên – Môi
Trường Việt Nam nếu mực nước biển dâng cao 1m, Việt Nam sẽ thiệt hại 17 tỷ
USD/năm, 17 triệu dân sẽ bị ảnh hưởng, gồm 14 triệu dân ở đồng bằng sông Cửu
Long, 40.000km2 vùng đồng bằng bị ngập lụt, 1.700km2 vùng ven biển bị chìm
trong nước mặn, phần lớn các vùng bị ảnh hưởng nặng như: Cà Mau, Kiên Giang, Bà
Rịa-Vũng Tàu, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hoá. Dự báo nhiệt độ sẽ tăng tại các
tỉnh miền Nam từ 0,1 – 0,7ºC (2010) và từ 1,2 – 4,50C (2070). (Hội thảo
“Đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu: mối liên hệ nghèo đói với sự phát
triển bền vững” Bộ TN & MT tổ chức ngày 22/05/2007).
Một vấn đề nữa cũng có
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thế giới, đó là sự biến đổi khí hâu.
Ngày nay, sự biến đổi khí hậu càng trở nên khó dự báo hơn,… Việt Nam và
Bangladesh là hai quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của sự biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu gây bão thường xuyên, đường đi của bão có hướng dịch chuyển về
phía Nam và mùa bão chuyển vào các tháng cuối năm, làm xuất hiện nhiều bệnh lạ
và đang toàn cầu hoá nhiều loại bệnh trước đây chỉ cư trú trong khu vực địa lý
nhỏ.
Tổ chức phi chính phủ
Christian Aid (trụ sở tại Anh Quốc) cảnh báo: có ít nhất 1 tỷ người sẽ trở
thành vô gia cư đến năm 2050 do tình trạng thay đổi khí hậu, điều này sẽ làm trầm
trọng hơn cuộc khủng hoảng di dân toàn cầu hiện nay. Nhóm chuyên gia về khí hậu
(IPCC) dự báo đến năm 2080 có khoảng 1,1 – 3,2 tỷ người thiếu nước sạch và nước
sinh hoạt và có đến 200 – 600 triệu người bị đói.
4. Thế giới đang đối
phó với hiện tượng nóng dần lên của trái đất
Theo sáng kiến của quỹ
sáng kiến môi trường Clintơn (do cựu tổng thống Mỹ Bill Clintơn tài trợ), hội
nghị tối cao của các nhà lãnh đạo các thành phố lớn trên thế giới (C40) họp tại
Newyork ngày 14/05/2007 đã nhất trí thông qua nhiều chương trình cắt giảm nhanh
hiện tượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Ngày 05/06/1972 có hơn
1.300 đại biểu của 113 quốc gia trên thế giới họp ở Stockhome (Thụy Điển) thông
qua “Tuyên ngôn môi trường Nhân loại” khuyến cáo việc: “Nếu gia
tăng dân số, tài nguyên khai thác bị cạn kiệt, thì môi trường tiếp tục bị ô
nhiễm và phá hoại”. Hội nghị kêu gọi “Chính phủ và nhân dân các nước
hãy bảo vệ và cải thiện môi trường, đem hạnh phúc cho mọi người và thế hệ mai
sau…”. Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 27 cùng năm lấy ngày 5/6 hàng năm
là “ngày môi trường thế giới”. Ngày này hàng năm, các quốc gia trên
thế giới triển khai các hoạt động nhằm nhắc nhở mọi người chú ý đến tình trạng
ô nhiễm của môi trường và những nguy hiểm do hoạt động của con người gây ra đối
với môi trường. Ngày môi trường (5/6) trở thành ngày lễ chung của nhân loại vì
sự sống còn của trái đất.
Ngày 18/11/1992 có 1575
nhà khoa học trên thế giới (trong đó có 99 người được giải Nobel) đã đưa ra văn
kiện “Lời cảnh báo của các nhà khoa học thế giới đối với nhân loại” nêu
ra “Loài người và thế giới tự nhiên đang chuyển sang con đường đối kháng
lẫn nhau”. Văn kiện đã đưa ra các vấn đề: Tầng Ozone bị mỏng đần, không
khí bị ô nhiễm, lãng phí tài nguyên, nước đại dương bị độc hoá, phá hoại đất
canh tác, các loại động thực vật mất dần, nguy cơ tăng dân số …. Tất cả các
nhân tố trên đang đe doạ sự sống còn của con người trên trái đất. Ô nhiễm môi
trường có 8 vấn đề được lưu ý:
Mưa Acid
Nồng độ CO2
trong khí quyển tăng cao.
Tầng Ozone
bị phá hoại.
Sự tổn hại
do các hoá chất trong đó có hoá chất bảo vệ thực vật.
Nước sạch
bị ô nhiễm.
Đất đai bị
sa mạc hoá
Diện tích
rừng nhiệt đới không ngừng suy giảm.
Uy hiếp về
hạt nhân.
Tháng 12/1993
Quốc Hội nước ta chính thức thông qua Luật Bảo Vệ Môi Trường. Ngày 18/04/1994 Chính
phủ ban hành nghị định 175/CP hướng dẫn về luật Bảo Vệ Môi Trường, và Nghị định
26/CP ngày 26/04/1996 được áp dụng để xử phạt hành chánh về những hành vi vi
phạm luật Bảo Vệ Môi Trường mà trong tập báo cáo phát triển con người năm 2007
– 2008 của UNDP với chủ đề: “Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu; đoàn kết
nhân loại trong thế giới phân cách” đã nói rõ.
Cho đến nay, đã có nhiều
bằng chứng khoa học chứng tỏ rằng sự biến đổi khí hậu do con người gây ra đang
đẩy thế giới đến một thảm hoạ sinh thái, cùng với những tác động không thể đảo
ngược của sự nghiệp phát triển con người. Đối với hàng triệu người nghèo trên
thế giới thì vấn đề biến đổi khí hậu không còn là vấn đề tương lai mà nó đã và
đang huỷ hoại những nổ lực thoát nghèo cũng như làm gia tăng nguy cơ bị tổn
thương của họ. Các thế hệ con cháu mai sau cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng. Chúng
sẽ phải sống chung với thảm họa có thể xảy ra. Đó chính là hậu quả của việc
chúng ta tiếp tục theo lối mòn. Tương lai của chúng ta không phải là định mệnh.
Chúng ta có thể dành thắng lợi trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, nhưng
thắng lợi đó chỉ đạt được khi người dân trên khắp thế giới đồng tâm hiệp lực
cùng chính phủ các nước đề ra được các giải pháp tập thể cho mối đe doạ chung liên
quan đến môi trường sống hiện nay như:
a. Bảo vệ tài
nguyên và các hệ sinh thái thiên nhiên.
b. Các tác hại về
ô nhiễm môi trường cụ thể như: Bom nguyên tử, các chất bức xạ hạt nhân mà người
ta ngụy biện là dùng năng lượng nguyên tử để phục vụ cho hòa bình.
c. Vứt bỏ các đồ
phế thải vào đại dương, vào sông ngòi, vào lòng đất.
d. Khí thải từ các
phương tiện giao thông, các đám cháy rừng phóng ra một khối lượng CO2 càng ngày
càng lớn làm cho bầu không khí nóng dần lên.
5. Vai trò của
Phật giáo với việc bảo vệ môi trường
Đứng trước những thách
thức to lớn của vấn nạn môi trường mà các chính sách của xã hội vẫn chưa đem
lại hiệu quả thì câu hỏi dành cho vai trò của Phật giáo được xem là đề tài khá
thu hút bởi nó không những liên quan đến số lượng lớn tín đồ Phật giáo mà còn
được chú ý bởi công năng thực hành của một hệ thống giáo lý mang đậm từ bi, yêu
chuộng hoà bình.
Trước tiên phải nói đến
tinh thần Duyên Khởi, một giáo lý được Đức Phật khai triển rất rõ ràng sau khi
thành tựu sự giác ngộ. Nó được trình bày qua luận chứng của bốn câu kệ sau:
Cái này có nên cái kia
có
Cái này
không nên cái kia không
Cái này
sinh nên cái kia sinh
Cái này
diệt nên cái kia diệt.
Đây là nền tảng của
những mối quan hệ đa chiều trong sự cộng tồn của vạn hữu. Chính vì thế mà nó đã
được xem như là một nguyên lý, định luật, quy luật chung cho tất cả mối quan hệ
từ tổng thể vũ trụ cho đến hiện hữu của cá thể. Và cũng xuất phát từ nguyên lý
này mà Phật giáo đề cao tinh thần bình đẳng trên phương diện cộng sinh. Chính
vì bình đẳng với nhau nên không có lý do gì vì tồn tại của một cá nhân hay tập
thể mà lại phương hại đến một cá thể hay một tập thể khác.
Hơn nữa, vì mối quan hệ
mật thiết giữa các cá thể cộng tồn nên sự diệt vong của một hiện hữu sẽ tác
động đến sự sinh tồn của các cá thể còn lại. Chính vì điều này mà Phật giáo chủ
trương không nên xem thường mối liên hệ giữa con người với con người, giữa con
người với thiên nhiên môi trường. Trong giáo lý của đạo Phật thường khuyên nhủ
tín đồ không nên lạm dụng sự sinh tồn của bản thân và cộng đồng mà xâm phạm đến
sự toàn vẹn của môi trường. Các hành động chiến tranh giết hại, đốt rừng phá
núi, chặt phá cây cối, tàn sát sinh linh… đều bị lên án trong cộng đồng Phật
giáo. Bởi vì những sự việc đó không những trực tiếp làm hại đến đời sống của
nhân sinh mà còn làm cho môi trường bị phá huỷ, tài nguyên bị kiệt quệ, môi
trường bị ô nhiễm, ….
Mặt khác, công năng ngăn
chặn các tội ác đối với môi trường không những được xem trọng mà đối với Phật
giáo, phương pháp hiệu quả nhất vẫn là ý thức về tình thương dành cho môi
trường phải cần được đề cao. Chính giáo lý Từ bi là căn bản để xây dựng cho một
tình thương đích thực. Nó không chỉ dành riêng cho mối quan hệ mang tính tình
cảm trong xã hội nhân sinh mà còn được áp dụng cho mối liên hệ của con người
với môi trường. Một tình thương được xây dựng trên nền tảng Từ bi sẽ được biểu
hiện thành những quy chuẩn của không sát hại, không phá hoại, ăn chay, thân
thiện, yêu thương, từ ái, hoà nhã, ….
Cho nên, lời khuyến cáo
của Phật giáo về mối liên hệ giữa con người và môi trường không chỉ dành cho
tín đồ Phật tử mà còn nhắc nhở lương tâm của tất cả mọi người. Như Đức Dalai
Lama thứ 14 trong bài thuyết giảng về “Lòng từ bi và con người”, thì
hạnh phúc là ý nghĩa của cuộc sống và con người sống trên trái đất này có nhiệm
vụ làm cho cuộc sống được hạnh phúc. Nhưng điều gì mang lại hạnh phúc nhiều
nhất ? Đó chính là tình thương dành cho cuộc sống, cho thiên nhiên, cho con
người và xã hội. Như một thi sĩ nọ đã phát biể:
Mai này cát bụi tiêu tan
hết
Chỉ có tình
thương để lại đời.
Vậy thì, lòng từ bi sẽ
là món quà vô giá của con người dành cho môi trường. Nó vừa là điều kiện cần và
đủ để cho mỗi người chúng ta tận hưởng sự đền đáp từ thiên nhiên. Thiên nhiên
cũng giống như con người chúng ta. Đối với Phật giáo, môi trường thiên nhiên
được xem như là một cơ thể sống khổng lồ với những vận hành nhịp nhàng không
khác gì một cơ thể sống thực thụ. Tuy rằng, nó không biết giận hờn, buồn vui,
nhưng nếu chúng ta quan tâm, yêu thương và bảo vệ thì nó sẽ là người bạn thân
thiết cho đời sống của chúng ta. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta phá hoại hay tàn
hại thiên nhiên thì người lãnh hậu quả cũng chính là bản thân và thế hệ con
cháu của chúng ta. Bởi vậy, theo đúng quy luật nhân duyên của Phật giáo, lòng từ
bi cần phải được con người chúng ta nuôi dưỡng một cách nghiêm túc. Có nuôi
dưỡng lòng từ bi thì mới đảm bảo được hạnh phúc lâu dài của gia đình, xã hội và
cả thế hệ mai sau nữa.
Tóm lại, để chăm sóc môi
trường, đối phó với hiện tượng thay đổi khí hậu, với giáo lý Duyên Khởi, Phật
giáo khuyến cáo con người về mối quan hệ đa chiều giữa con người và môi trường
thiên nhiên. Đến bao giờ mối quan hệ này được tôn trọng và nâng lên thành quy
luật thì mới có thể đảm bảo được sự trong sạch cho môi trường sống của con
người. Đồng thời, thông qua năm nguyên tắc đạo đức Phật giáo cũng khuyến
khích nhân sinh phải chú trọng xây dựng và thể hiện tình thương yêu một cách
thiết thực của mình đối môi trường xung quanh bằng những hành động mang tính
không sát hại chúng sanh, không tàn phá rừng núi, cỏ cây một cách bừa bãi, phải
giảm thiểu các nhu cầu liên quan đến sát hại càng nhiều càng tốt vì đó là cách thức
hiệu quả nhất để nuôi dưỡng và phát triển lòng từ bi. Đó chính là nền tảng của
Phật giáo để ngăn chặn các vấn nạn làm tổn hại môi trường đồng thời cũng để xây
dựng một đời sống có chất lượng tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, để hiệu quả hơn, thiết
nghĩ, trong chương trình giáo dục Phật giáo, chúng ta nên có phân khoa riêng
biệt về môi trường sinh thái, về hành tinh xanh để nghiên cứu và thúc đẩy hơn
nữa về ý thức bảo vệ cuộc sống cộng đồng trên trái đất của chúng ta.
Bài tham luận Vesak 2008
Discussion about this post