PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Tâm Diệu Minh Thường Trụ [Bài 9] – Từ Cuộc Đời Tới Cuộc Đời: Những Chuyển Tiếp Và Trung Hữu -Bản Dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

Kalu Rinpoche
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 9]
Từ Cuộc đời tới Cuộc đời: Những Chuyển Tiếp và Trung Hữu

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Trích từ: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The
Buddha. Wisdom, 1997.
(Tâm diệu minh thường trụ. Con đường của Phật)

Tôi mong ước nhận định
được tất cả những biến hiện
chúng xuất hiện đối
với tôi trong trung hữu là những phóng chiếu
của chính tôi; những hiển
hiện
của chính tâm của tôi.

Liên Hoa Sinh
, “Sách Tây Tạng của Người Chết”. (Tử Thư
Tây Tạng).

———————–

Sẽ không có tái sinh nếu, vào thời điểm chết, chúng ta bị biến
mất như một ngọn lửa nến vụt tắt hoặc sự bốc hơi của nước. Nhưng tâm là chân không
(emptiness: chân không diệu viên ; chân không diệu hữu), và chân không dung thông
(the void) không biết cái chết. Vào lúc chết, thân và tâm, chúng được gắn với
nhau
là những hiện tướng hư huyễn, li biệt; mỗi bên đi đường riêng của nó. Lúc đó,
một lần nữa, do bởi năng lực của nghiệp, những căn bản tập khí và phiền não tạo
lập bởi nhiều tác nhân dẫn chúng ta tới tái sinh vào một trong sáu cõi (cõi người,
trời, a tu la, súc sinh, ngạ qủy, địa ngục).

Trung Hữu

Theo Chính Pháp ( Dharma) cũng như theo các truyền thống khác,
chết không phải là một chấm dứt.Vượt ngoài chết, có một loạt tương tục của các
trải nghiệm trong những trạng thái khác biệt được nhận biết gộp lại là trung hữu ( bardo). Thuật ngữ Tây Tạng
này nguyên văn nghĩa là “ giữa hai ” ( between two), khoảng ở giữa (interval),
hoặc sự thông qua, lối thông qua (passage). Những lối thông qua này là tất cả
những trạng thái tâm thức đi thông qua. Những liên hoàn của trung hữu ( the
series of the bardos) tạo thành hiện hữu lưu chuyển hoặc sinh tử lưu chuyển (cyclic
existence or samsara)

Những liên hoàn của trung hữu tương ứng với sự chuyển cư của
tâm thức từ cuộc đời tới cuộc đời, nhưng cũng tương ứng với những biến hoá hình
dáng
xảy ra từng mỗi sát na trong những trạng thái tâm thức của chúng ta .

(The series of bardos
corresponds to the transmigration of the consciousness from life to life, but
also to the transformations that occur moment by moment in our states of
consciousness
).

Giáo pháp quan liên đến những trung hữu khác biệt được trình
bày đặc biệt trong một văn bản truyền thống rất phổ biến, Bardo Thodrol, nguyên văn
nghĩa là, “ sự hiểu biết thông suốt giải thoát cách tuyệt các trung hữu” (“ the
understanding that frees from the bardos”), mà ở Tây phương thường được biết
nhiều hơn với tên “ Tử Thư Tây Tạng”

(The Tibetan Book of the Dead).

Giáo pháp này đưa ra những chỉ giáo thực dụng về làm thế nào
tiến qua các trung hữu và dâng hiến một đạo
lộ để thật chứng bản chất của những trung hữu này và tự giải thoát chính chúng ta cách tuyệt với các
trung hữu.

(It gives practical
instructions on how to proceed through the bardos and offers a path for
realizing the nature of those bardos and liberating ourselves from them)

Mặc dầu “ khoảng ở giữa chết và tái sinh” ( the interval
between death and rebirth) là nghĩa được biết đến nhiều nhất, từ ngữ “ trung hữu” (bardo) không những chỉ nói đến thời kì giữa chết và
tái sinh, nhưng còn nói đến tất cả những trạng thái hiện hữu tâm thức trải nghiệm.

Thế nên, từ ngữ “trung hữu” cũng được dùng để nói đến dòng đời
(life), là trung hữu giữa sinh và chết và là, trong đa số trường hợp, cái thời kì dài nhất của các trung hữu.

Cũng có trung hữu giữa hai tâm niệm ( the bardo between two
thoughts), hoặc giữa hai trạng thái của tâm thức, nó là cái ngắn nhất của các
trung hữu.

Thời kì từ thời điểm nhắm mắt ngủ tới khi thức tỉnh thì được
gọi là trung hữu chiêm bao, trong khi trải nghiệm chính cái chết thì được gọi là trung hữu của thời điểm chết.

(The period from the
moment of falling asleep to waking up is called the dream bardo, while the
experience of death itself is the bardo of the moment of death)

 Sau khi sự hô hấp ngừng
lại hoàn toàn, có một thời kì khi tâm vẫn ở lại trong một trạng thái toàn thể bất
thức thì được gọi là trung hữu của tính không (= trung hữu của chân không / chân
không
diệu viên / chân không diệu hữu )

(After respiration
stops completely, there is a period when the mind remains in a state of total
unconsciousness, called the bardo of emptiness
)

Cuối cùng, trung hữu của sinh thành ( trung hữu của sinh hữu;
trung hữu của tái sinh) là thời kì theo sau trung hữu của tính không, trong thời
kì này tâm thức có sự trải nghiệm của một thế giới sau cái chết, nó kéo dài cho
tới thời điểm tái sinh.

(Finally, the bardo of
becoming is the period that follows the bardo of emptiness, during which the
consciousness has the experience of a postmortem world, which lasts up until
the moment of rebirth)

Bốn Trung Hữu Quan Trọng

Nói vắn tắt, có bốn trung hữu quan trọng từ tiến trình chết
tới tái sinh là:

1. Trung hữu từ sinh tới chết, hoặc, trạng thái chúng ta hiện
ngay lúc này.

2. Trung hữu của thời điểm chết, tương ứng với lối thông qua
từ sống tới chết.

(tương ứng, có thể tạm
hiểu là từ sinh tới chết, lối sống ra sao,tỉ dụ vui với thiện hạnh của người, của
mình, và buồn với ác hạnh của người, của mình, thì tâm tình vào thời điểm chết
tương ứng với thời từ sinh tới chết. ĐHP)

3. Trung hữu của tính không (= trung hữu của chân không / chân
không
diệu viên / chân không diệu hữu), thời kì theo sau chết.

4. Trung hữu của tái sinh, giai đoạn giữa trung hữu của tính không và một thời-gian- cuộc-đời khác(
another lifetime) là khi chúng ta bắt đầu
một trung hữu mới của sinh tới chết.

Sáu trung hữu được nói đến thường xuyên gồm cả hai trung hữu
khác ở trong trung hữu của sinh tới chết: trung hữu chiêm bao và trung hữu thiền
định
. Mỗi một trung hữu này tương ứng với những trạng thái của tâm thức sống trọn
vẹn
trong suốt thời-gian-cuộc-đời này.

Trong những chương theo sau , chúng ta sẽ miêu tả mỗi một
trong bốn trung hữu quan trọng này, chúng cùng nhau tạo thành hiện hữu sinh tử
lưu
chuyển. 

———————————————————————————————————-

Phụ Lục 1 Đại Sư Tăng Triệu giảng Tính Không

Xin nhớ đến lời Đại sư Tăng Triệu (374 hoặc 378 – 414 ) (
tịch lúc 27 hoặc 31 tuổi) trong Triệu luận , phần Tông Bản Nghĩa:

 “Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội , năm danh từ
trên vốn chỉ có một nghĩa.

Để vạch ra tông chỉ chánh pháp là căn bản của bổn Luận, hai
chữ BỔN VÔ chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt
Thánh phàm, nên gọi là BỔN VÔ, chẳng phải có ý làm thành vô ( có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành
vô, vì BỔN VÔ này nó vượt ngoài cái có và không tương đối
).

Vì tất cả pháp đều do
vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp
mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI.

Vì duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân
duyên sanh
ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thể là chơn như
biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH.

Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có
tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG.

Vì bổn vô là thể của
tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng , pháp tánh , tánh không, đều là cái
nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …

Tại sao vậy ? Tất
cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa
sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó
mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh
thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH,
pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự
thể , chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là BỔN VÔ.”

( Trích từ Triệu Luận
Lược giải. Thích Duy Lực dịch , in trong CHƯ KINH TẬP YẾU , trang 470 – 471) ..

———————————————————————————————————–

Phụ
Lục
2. Tâm như hư không vô sở hữu

Nguồn gốc của Phật
pháp
là tâm ,
Nguồn gốc của vũ trụ
cũng là tâm ,
Người học Phật pháp
phải biết cái nguồn gốc đó chính là tâm mình chứ chẳng phải ai khác .

 

…Tổ thứ 14 của Thiền Tông Ấn Độ là ngài Long
Thọ
dùng “Hư không vô sở hữu” để thí dụ cho tâm. Tâm linh vốn chẳng có hình thể
số lượng, do đó dùng bộ óc suy nghĩ chẳng thể tiếp xúc, nên chẳng thể dùng lời
nói
văn tự để diễn tả.

Phật pháp chỉ có thể miễn cưỡng nói là TÍNH
KHÔNG
. KHÔNG này tức là để hiển bày sự dụng của tâm. Cũng như hư không vô sở
hữu
mà dung nạp tất cả vật, tất cả vũ trụ vạn vật từ mặt trăng, mặt trời cho
tới núi sông, đất đai, nhà cửa, cây cối,bất cứ cái gì đều phải nhờ cái “ VÔ SỞ
HỮU
” này dung nạp và ứng dụng .

Cuộc sống hằng ngày của con người như ăn cơm,
mặc áo, nói năng tiếp khách, làm việc đều phải nhờ cái ‘ vô sở hữu’ này mới
được hiển bày, chỉ tiếc rằng chúng ta ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Nên
Phật Thích Ca dạy pháp thiền trực tiếp để mọi người đều được tự hiện toàn vẹn
chính tâm mình. Cái giờ phút hiện ra tâm mình gọi là kiến tính thành Phật .

Dù nói thành Phật thực chẳng có Phật để thành,
chỉ là ở trong mở mắt chiêm bao tỉnh dậy mà thôi [Cũng như ở trong nhắm mắt
chiêm bao tỉnh dậy ] thì tự chứng tỏ tất cả sự vật trong chiêm bao ( người và
thế giới chiêm bao ) đều chẳng thật gọi là chứng ngộ.

Bản thể của tâm vô sở hữu tức là trống rỗng, vì
trống rỗng nên gọi là TÍNH KHÔNG, vì tính không nên cùng khắp không gian thời
gian
. Cùng khắp không gian thì chẳng có khứ lai nên gọi là NHƯ LAI, nghĩa là
đúng như bản lai ; cùng khắp thời gian thì không có gián đoạn sinh diệt nên gọi
là NIẾT BÀN.

Vì trống rỗng vô sở hữu chẳng có chỗ để trụ nên
gọi là VÔ SỞ TRỤ ; vì trống rỗng vô trụ thì chẳng thể trói buộc nên gọi là GIẢI
THOÁT
. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ, tâm của chúng sinh đều có tính giác ngộ nên
gọi là PHẬT TÍNH, cũng gọi là Bồ Đề. Bồ Đề nghĩa là giác ngộ. Nói tóm lại, danh
từ thì có muôn ngàn sai biệt khác nhau nhưng nghĩa thì chẳng khác, chỉ là hiển
bày
thể dụng của tâm mà thôi.

Vì tâm vô sở hữu thì chẳng thể kiến lập, nên
Phật nói là VÔ THỦY, chẳng có bắt đầu, cũng gọi là vô sinh. Vì có sinh thì phải
có bắt đầu. Vì vô sinh thì không thể kiến lập, nếu có thể kiến lập ắt có sự
sinh khởi và bắt đầu, cho nên người chứng quả gọi là NGỘ PHÁP VÔ SINH, cũng gọi
là CHỨNG VÔ SINH PHÁP NHẪN. Nói một cách khác, tất cả kinh Phật đều dùng sự hiểu
biết
của chúng sinh để chứng tỏ tất cả sự vật qua ý thức của bộ não nhận biết
đều chẳng phải thật, nên nói VẠN PHÁP
DUY TÂM, TẤT CẢ DO TÂM TẠO . Vì tâm có thể tạo là có kiến lập, tức là chẳng
thật vậy .

…..

[Lược trích từ “Vũ Trụ Quan thế kỷ 21, Yếu Chỉ Phật Pháp , Yếu Chỉ Trung Quán Luận
” của HT Duy Lực ]

———————————————————————————————————–

Phụ Lục 3. Chủ
nghĩa
Hư vô

Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch , in 2000, 6
quyển 7374 trang + quyển Mục lục.

Chân như:
Sanskrit: bhuta-tathata; tathata. Chỉ cho bản thể chân thực tràn khắp vũ trụ;
là nguồn gốc của hết thảy muôn vật .
Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế, Thực tướng, Như lai
tạng
, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị
giới….
Trong sách Phật Hán thời kì đầu dịch là:
Bản Vô. Chân, chân thật không hư dối; Như, tính của sự chân thật ấy không thay
đổi….

Hư Vô chủ Nghĩa (
Nihilism)
Chủ nghĩa phủ định tất cả đạo đức,tập quán, chế độ, tôn giáo, hoặc chân lí, giá
trị
của bất cứ sự vật gì.

Theo “Patrul Rinpoche. Lời vàng của Thầy tôi”. Bản dịch
2008, http:/vietnalanda.org. thì
“Những người theo chủ nghĩa thường hằng (eternalism) tin là có một cái ngã
thường hằng và một đấng tạo hoá (tạo lập thế giới) hiện hữu vĩnh cửu bên ngoài
ta, chẳng hạn như các vị thần Isvara và Vishnu.
“những người theo thuyết hư vô tin rằng tất cả sự vật hoàn toàn tự phát, không
có đời quá khứ hay đời vị lai, không có nghiệp quả, không có tự do và giải thoát
”
“ Có 360 biểu từ vọng kiến (false view) và 62 biểu từ tà kiến (wrong view)

( biểu từ = statement), có thể gộp chung thành hai nhóm :
chủ nghĩa thường hằng và chủ nghĩa hư vô ( =đoạn diệt; chấm dứt, không có gì
cả).
Theo quan điểm hành động không tạo nghiệp quả thì thiện hạnh không đem lại lợi
ích
, và ác hạnh không đem lại tổn hại.”

Nếu bạn có một thoáng chút ý niệm về danh từ chân như, bạn
sẽ biết bản chất của bạn là tính Bản Phật Phổ Hiền (Nature of Primordial Buddha
Samantabhadra)

( Phổ Hiền= All-around Goodness).
Như vậy bạn chấp thuận, tùy thuận, và hỗ trợ ( blessing) cho chính cuộc đời
bạn, cuộc đời của kẻ khác, hiện hữu tồn sinh, và bạn chung vui xẻ buồn với mọi
người
, với vạn hữu, chung lưng đấu cật với mọi người để chống lại các thảm họa
do con người và thiên nhiên gây ra (do vô minh, do duyên khởi) và bạn đem lại
an-ổn-không-sợ-hãi cho mình , cho người (benediction: vô uý thí)

Một thoáng ý niệm về chân như, giúp bạn nhận thức bạn vốn là
đấng phúc đức, tốt lành , thiện hảo, bạn đã gặp chính mình (encounter
yourself), gặp bản lai diện mục, “ta về gặp lại tình ta, dấu chân viễn mộng chỉ
là phù vân ” ( Thiền sư Viên Minh).

Ngài Long Thọ và ngài Phật Hộ (Buddhapalita) đều giảng Chân
như
là thật chứng tuệ tri chính minh bằng
tuệ quán không bị nhơ nhuốm. Chân như không phải là do người khác chỉ dạy hoặc
do người khác trao cho bạn.

Từ ngữ Phật học ngài Vô Trước ( Asanga 375-430) giảng :

Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn
muội
, Hắc ám… là đồng nghiã

————————————

Chú thích thuật ngữ

1.Viết theo “The Tibetan Book of the Dead”, translated
by A. F. R. Thurman,

Bantam Books,1994

 “ Trung hữu” được dùng
tối thiểu theo 3 nghĩa:

(a) nghĩa căn bản thông dụng để nói về toàn thể thời kì giữa
chết và tái sinh;

(b) nghĩa kĩ thuật để nói về sáu trung hữu : trung hữu đời sống,
trung hữu chiêm bao , trung hữu thiền định, trung hữu điểm chết, trung hữu thật
tại (=pháp tánh), và trung hữu tái sinh ;

(c) và theo nghĩa “ một giai đoạn tiến triển của một trung hữu”,
thì chính nó cũng được gọi là một trung hữu, tuy nó ở trong sự trải nghiệm của một giai đoạn riêng biệt trong một
trong sáu trung hữu (= một giai đoạn phát triển nhỏ — của một trong sáu trung
hữu–, thì cũng gọi là một trung hữu )

“ Between” is used in
at least thre e senses: its basic colloquial sense of the whole period between
death and rebirth; its technical sense in the set of the six betweens, the
life, dream, meditation, death-point, reality, and existence betweens;and in
the sense of “ phase of a between” , where the experience of a particular
period in one of the six

betweens is itself
called a between.

2. Trung hữu tính không (emptiness between)= trung hữu pháp
tánh
(dharmata between) = trung hữu thật tại (reality between)

3. Ngài Long Thọ : Duyên khởi = Tính không = Trung đạo = Như
huyễn

4. Ngài Tăng Triệu : Bổn Vô= Thật Tướng = Pháp Tánh = Tánh
Không
= Duyên Hội

5. “Thanh Tịnh Đạo” của
Ngài Phật Minh / Phật Âm ( Buddhaghosa), Thích Nữ Trí Hải dịch, có giảng (
trang 960 , quyển 2 , đoạn 250:

“Ở đây, trở thành gọi là hữu…
Chính tiến trình nghiệp là hữu, thì gọi là nghiệp hữu .
Cũng vậy, chính tiến trình tái sanh là hữu thì gọi là sanh hữu.
Và ở đây tái sanh là hữu vì nó hiện hữu …
Nghiệp cần được hiểu là hữu vì nó đem lại hữu hay sự tái
sanh…
Tất cả nghiệp đưa đến tái sanh đều là nghiệp hữu…
Sanh hữu là nói vắn tắt các uẩn do nghiệp sanh.” 

————————————————————————————————————

Kalu Rinpoche

From Life to Life: Transitions and the Bardo

May I recognize all
the manifestations that appear to me in the bardo as being my own projections;
emanations of my own mind.

Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

——————–

There would be no rebirth if, at the moment of death, we
disappeared like a candle flame going out or water evaporating. But mind is
emptiness, and the void does not know death. At death , body and mind, attached
as they are to illusory appearances, separate; each goes its own way. Then once
again, by the power of karma, basic tendencies and afflictions caused by
various agents lead us to be reborn in one of the six realms.

Bardo

According to Dharma as well as other traditions, death is
not an end. Beyond death, there is a continuous series of experiences in
different states known collectively as the bardo.
This Tibetan term literally means “ between two” , “interval”, or “passage”.
These passages are all the states that the consciousness passes through. The
series of bardos makes up cyclic existence, or samsara.

The series of bardos corresponds to the transmigrationof the
consciousness from life to life, but also to the transformations that occur
moment by moment in our states of consciousness. The teachings relating to the
different bardos are presented in particular in the well-known tradition text,
the Bardo Thodroll, literally , “
the understanding that frees from the bardos”, better known in the West as “ The Tibetan Book of the Dead ”. It
gives practical instructions on how to proceed through the bardos and offers a
path for realizing the nature of those
bardos and liberating ourselves from them.

Even though “the intrval between death and rebirth” is its
best-known meaning, the word “bardo” refers not only to that period between
death and rebirth, but to all the existential states the consciousness goes
through.Therefore, the word is also used to refer to life, which is the bardo
between birth and death and is, in most cases, the longest life of the bardos.
There is also the bardo between two thoughts, or between two states of
consciousness, which is the shortest of the bardos. The period from the moment
of falling asleep to waking up is called the dream bardo, while the experience
of death itself is the bardo of the moment of death. After respiration stops
completely, there is a period when the mind remains in a state of total
unconsciousness, called the bardo of emptiness. Finally, the bardo of becoming is the period that follows the bardo
of emptiness, during which the consciousness
has the experience of a postmortem world, which lasts up until the moment of
rebirth.

The Four Great Bardos

Briefly, the four great bardos from the process of dying to
being reborn are:

1. The bardo of birth to death, or, the state we are in right
now.

2. The bardo of the moment of death, corresponding to the
passage from life to death.

3. The bardo of emptiness, the period following death.

4. The bardo of becoming, the stage between the bardo of
emptiness and another lifetime in which we begin a new bardo of birth to death.

The six bardos frequently referred to include two others in
the bardo of birth to death: the dream
bardo and the meditation bardo. They each correspond to states of consciousness lived out during this lifetime.

In the following chapters we will describe each of the four
great bardos, which together make up cyclic or samsaric existence.

———————————————

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha.
Wisdom, 1997. 

Tin bài có liên quan

Về Chết Và Tái Sinh – Những Điểm Then Chốt Để Thực Hành Bồ Đề Tâm Vào Giờ Phút Cuối Đời

Về chết và tái sinh – những điểm then chốt để thực hành bồ đề tâm vào giờ phút cuối đời

Về Chết Và Tái Sinh – Cách Thức Tái Sinh

Về chết và tái sinh – cách thức tái sinh

Về Chết Và Tái Sinh – Cách Thức Đối Mặt Với Cái Chết

Về chết và tái sinh – cách thức đối mặt với cái chết

Vận Dụng Tư Tưởng Bát Nhã Kim Cang Trong Cuộc Sống

Vận Dụng Tư Tưởng Bát Nhã Kim Cang Trong Cuộc Sống

Vấn Đề Trợ Tử – Nguyên Hiệp

Vấn Đề Trợ Tử – Nguyên Hiệp

Vấn đề sanh và tử trong đời người

Vấn Đề Hỏa Táng & Di Chúc Của Một Số Vị Đại Sư Đương Đại

Vấn Đề Hỏa Táng & Di Chúc Của Một Số Vị Đại Sư Đương Đại

Vấn Đề Cúng Kiếng

Vấn Đề Cúng Kiếng

Vài Suy Nghĩ Về Số Mệnh Trong Phật Giáo

Vài Suy Nghĩ Về Những Hình Thức Lễ Táng – Thích Quảng Phước

Vài Suy Nghĩ Về Những Hình Thức Lễ Táng – Thích Quảng Phước

Load More

Discussion about this post

Viết Tiếp Bài “Xây Chùa Để Làm Gì?” Minh Thạnh

VIẾT TIẾP BÀI "XÂY CHÙA ĐỂ LÀM GÌ?" Minh Thạnh Có học giả tiên đoán đến năm 2050 Phật giáo...

Trách Nhiệm

Trách Nhiệm

TRÁCH NHIỆMMinh NiệmKhi nhìn vào đóa hoa đào có thể ta cho rằng đóa hoa này là do chính cây...

Đôi Mắt Biết Tu

Đôi mắt biết tu

ĐÔI MẮT BIẾT TU Như Hùng Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nên những...

Exodus: Bản Nhạc Hay- Biểu Tượng Của Đi Tìm Tự Do Thoát Khỏi Độc Tài Trị

Từ thuở bé khi xem bộ phim “This land is mine”(Miền đất hứa) tôi đã bị hút hồn bởi giai điệu...

Tản Mạn Về Từ Hán Việt – Phần 4: Bính Âm, Phanh Âm, Phiên Âm Hay Pīnyīn? Nguyễn Cung Thông

Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ...

Mừng Xuân Mới, Xin Hạ Hỏa

Mừng Xuân Mới, Xin Hạ Hỏa

MỪNG XUÂN MỚI XIN HẠ HỎA Cao Huy Hóa Đông tàn, xuân đến, tiết trời mát dịu, mọi người được...

Pháp Hội Dharamsala 2013 Dành Riêngcho Người Việt Nam

PHÁP HỘI DHARAMSALA 2013 DÀNH RIÊNGCHO NGƯỜI VIỆT NAM Với niềm cảm mến đặc biệt đối với Phật giáo Việt...

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Năm 2021

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Năm 2021

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Thiền Sư Đạo Nguyên

THIỀN SƯ ĐẠO NGUYÊN SƠ TỔ TÔNG TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN NỘI DUNG PHIM Hoa trong mùa xuân, chim cu...

Thách Thức Về Những “Biến Dạng” Trong Văn Hóa Tâm Linh Các Lễ Hội

Thách thức về những “biến dạng” trong văn hóa tâm linh các lễ hội

THÁCH THỨC VỀ NHỮNG "BIẾN DẠNG" TRONG VĂN HÓA TÂM LINH CÁC LỄ HỘI Thích Đạt Ma Phổ Giác   ...

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 38)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 38) Pháp Sư Tịnh Không   Nguyện thứ chín, “Hằng thuận chúng sanh”...

Tảng Đá Có Nặng Không?

Tảng đá có nặng không?

TẢNG ĐÁ CÓ NẶNG KHÔNG? Nguyễn Duy Nhiên Có lần Ngài Ajahn Chah đi dạo với các đệ tử của...

Nếp Sống Của Một Thiền Sư

Nếp Sống Của Một Thiền Sư

NẾP SỐNG CỦA MỘT THIỀN SƯRich Orloff - Cao Huy Hóa dịch Lời người dịch: Nhà sư Phật giáo sống...

Những Bài Pháp Thoại Trong Ba Tháng An Cư (24)

Những bài pháp thoại trong ba tháng an cư (24)

53- Ngày Thứ 53, 54, 55, 56 Ngày 8/8/ÂL, chư tăng đi trì bình khất thực, được nghỉ ngơi. Ngày...

Sinh Ký Tử Quy – Ajahn Chah (Lưu Ly Dịch)

Sinh Ký Tử Quy – Ajahn Chah (Lưu Ly Dịch)

SINH KÝ TỬ QUY Ajahn Chah Trong bài này Đaị sư Ajahn Chah, một vị sư Thái lan có lối...

Viết Tiếp Bài “Xây Chùa Để Làm Gì?” Minh Thạnh

Trách Nhiệm

Đôi mắt biết tu

Exodus: Bản Nhạc Hay- Biểu Tượng Của Đi Tìm Tự Do Thoát Khỏi Độc Tài Trị

Tản Mạn Về Từ Hán Việt – Phần 4: Bính Âm, Phanh Âm, Phiên Âm Hay Pīnyīn? Nguyễn Cung Thông

Mừng Xuân Mới, Xin Hạ Hỏa

Pháp Hội Dharamsala 2013 Dành Riêngcho Người Việt Nam

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Năm 2021

Thiền Sư Đạo Nguyên

Thách thức về những “biến dạng” trong văn hóa tâm linh các lễ hội

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 38)

Tảng đá có nặng không?

Nếp Sống Của Một Thiền Sư

Những bài pháp thoại trong ba tháng an cư (24)

Sinh Ký Tử Quy – Ajahn Chah (Lưu Ly Dịch)

Tin mới nhận

Bảy loại phước xuất thế gian

Làm thế nào để thoát khỏi bóng đen của những nỗi buồn phiền?

Phật dạy: Không thể đánh giá con người qua vẻ bề ngoài

Theo đuổi hạnh phúc chỉ là điểm khởi đầu chứ không phải là mục đích

Lời Phật dạy: Hãy nhớ tinh tấn, chớ có lười biếng

Chùa Núi Minh Đức – Khối Phố Thạnh Đức, Huyện Phú Ninh, Tỉnh Quảng Nam, Việt Nam

Tôi tin Phật

Đại trùng tu ngôi Tổ đường và nhà thờ Mẫu chùa Phúc Hưng – Hải Phòng

The Self-immolation In Vietnam –

Lời Phật dạy về giá trị đạo đức cho một xã hội, quốc gia

Tu tâm dưỡng tánh để không rời vào cuộc đời nghiệt ngã

Giáo dục đạo đức cho con ngay từ thuở bé như thế nào?

Phật tử ăn chay trường thì phải tuyệt dục, có đúng lời Phật dạy?

Phật dạy mạng người sống trong hơi thở

Những việc nên làm khi có người thân mới qua đời

Phật dạy gì về tâm dua nịnh?

Thư Ngỏ Kêu Gọi Trùng Tu Chùa Thanh hòa

Phật dạy: Cách nhìn người để biết họ tà hay chánh

Tin Phật, áp dụng lời Phật dạy để hoàn thiện chính mình

Chùa Bửu Long, Phường 11, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh

Tin mới nhận

Thần Thông Trong Nhà Phật

Hang Đá Vân Cương (Yungang Grottoes) Đại Đồng, Trung Quốc

Sướng khổ và niết bàn theo quan điểm của Phật giáo

Đời là bể khổ

Tư tưởng giáo dục Phật giáo

Đức Phật Thuyết Kinh Pháp Diệt Tận

Chánh Niệm Tốt cho Sức Khỏe Tim Mạch và Vòng Eo của Bạn (song ngữ)

Phát biểu tại lễ nhận huân chương vàng quốc hội hoa kỳ

Quán Niệm Hơi Thở Anapana Sati

Vai Trò Của Phật Giáo Trong Việc Giải Quyết Xung Đột Ở Đông Nam Á Từ Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai Đến Nay

Vì đâu nên nỗi

Sống hạnh phúc

Có giấc mơ

Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma Khóc

Nghiên cứu về thú hướng tái sanh qua dấu hiệu nóng, lạnh của thân thể

Vũ Trụ & Pháp Giới Theo Quan Điểm Phật Giáo (Song Ngữ Vietnamese-English PDF)

Con Ăn Chay Trường Nhưng Bác Sĩ Bảo Ăn Mặn Để Chữa Bệnh, Nên Làm Như Thế Nào?

Ông Táo

Câu chuyện thứ mười hai: TRỌNG TRÁCH

Giữa Một Thời Gian Nan Trần Khải

Tin mới nhận

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 325)

Một Câu Chuyện Sợ Ma Trong Kinh Điển Pali

Kinh Bách Dụ: Hẹn con đi sớm

Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Quyển 2)

Sen Nở Trời Phương Ngoại, Thầy Nhất Hạnh Giảng Kinh Pháp Hoa

Niệm Hơi Thở Vào – Hơi Thở Ra

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 315)

Kinh Bách Dụ: Người xuất gia tham lợi dưỡng

A Hàm Tuyển Chú

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 98)

Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương

Hàm Ý Phẩm Phổ Môn Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Vài Hàng Giới Thiệu Về Kinh Điển Phật Giáo

Kinh Duy Ma

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 15)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 24)

Quảng Ngãi: Trang nghiêm kính mừng Đại lễ Phật đản Phật lịch 2566

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 29)

Quá Trình Hình Thành Đại Tạng Kinh Hán Văn

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 350)

Tin mới nhận

Học Phât vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 15)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 163)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 368)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 175)

Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 222)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 74)

Khai Thị Phật Học Cơ Bản (Phần Cuối)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 323)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 87)

Kinh Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc Kinh

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 3)

Quán Thế Âm Hiện Thân Của Lòng Từ

Kinh Vô Lượng Thọ Diễn Nghĩa

Tịnh Nghiệp Tam Phước tập 3

Niệm Và Niệm Phật

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 16)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 28)

48 Lời Nguyện Của Phật A Di Đà Song Ngữ

LOẠT ẢNH KỶ NIỆM CHẶNG ĐƯỜNG 60 NĂM HOẰNG PHÁP CỦA ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.