thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập
vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp
ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc,
mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với
tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
Tôi
học lớp ba trường huyện cách đây hơn nửa thế kỷ. Vốn
liếng trí thức, văn chương của chúng tôi thời đó nằm
gọn trong Quốc văn giáo khoa thư. Đây là một bài thơ tôi
thuộc lòng từ thời đó đến bây giờ: bài Lính thú đời
xưa. Bài thơ chẳng hay gì, lại không thấy đề tên tác giả.
Không tác giả, có lẽ là ca dao. Mà ca dao thì đáng lẽ phải
hay hơn. Nhưng đó là ý kiến của tôi về sau này. Thuở đó,
thơ trong Quốc văn giáo khoa thư phần nhiều là như vậy, chẳng
hay nhưng có vần có điệu, đọc lên cũng thấy thơ. Bài Linh
thú đời xưa khá dài, chia thành hai phần. Bài thứ nhất:
Ngang lưng thì thắt đai vàng
Đầu đội nói dấu vai mang súng dài
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắt giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Bên
cạnh đó bài thơ có vẽ hình một người đàn bà nông dân
bế đứa con nhỏ, tiễn chồng ra đi. Ngày nay, người ta tiễn
nhau ở bến xe, ở nhà ga, ở sân bay. Thuở trước, biệt ly
diễn ra trên bến thuyền. Thuyền đi chậm, sông nước mênh
mang, nhìn theo không biết bao giờ mới hút bóng.
Bước
chân xuống thuyền nước mắt như mưa
Nước
mắt của ai như mưa? Của người chồng bước chân xuống
thuyền? Chắc không phải, vì đàn ông đâu có khóc như vậy!
Nhưng cũng có thể người chồng khóc như mưa ở trong lòng.
Khóc như thế, nỗi buồn không khô được, cứ ướt mãi.
Thuyền trôi trên nước, người chồng trôi trong nước mắt.
Khóc
như mưa, chắc phải là người vợ. Người chồng vừa bước
chân xuống thuyền thì mưa đã ào ào tuôn trên mắt người
vợ đứng trên bờ nhìn theo. Người đi, người ở đều ướt
sũng nước mưa. Mưa ướt sũng bến đò.
Lúc
nhỏ, đọc câu thơ, tôi bùi ngùi. Lớn lên, hiểu thêm rằng
biệt ly là khổ. Lớn lên nữa, già đi, lại chột dạ, thấy
mình lức nào cũng như đang tiễn biệt một cái gì, tiễn
một niềm tin bị cuộc đời đánh cắp, tiễn một quê hương
bỗng nhiên phụ phàng, tiễn bóng câu qua cửa sổ, tiễn cả
chính mình, tiễn mình trong từng phút từng giây. Nhưng đó
là chuyện khác. Trở về với bài Lính thú đời xưa, đoạn
hai, mà Quốc văn giáo khoa thư có ghi rõ là “tiếp theo”:
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Nhưng dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Khổ
thay là cuộc đời lính thú! Đày ải giữa nơi đèo heo hút
gió, quần quật tay chân hết sáng đến tối, anh lính muốn
than một tiếng cũng không biết kêu với ai ngoài tre, dang,
nứa điệp điệp trùng trùng. Tre ơi, dang ơi, nứa ơi, có
biết chăng tôi đây đang khổ với tấm thân này.
Không
với tấm thân… Lúc học lớp ba, tôi chưa hiểu có thân là
khổ. Chỉ hiểu nỗi khổ biệt ly. Cho nên tôi biết bùi ngùi
với bài thơ nhứ nhất mà không mấy rung cảm với bài thơ
tiếp theo. Chỉ có một câu làm tôi thắc mắc mãi, từ nhỏ
đến lớn, từ trẻ đến già, từ đó đến nay. Câu thơ thật
lạ kỳ, như ở đâu bay vào bài thơ, lạ hoắc, lảng xẹt.
Đó là câu cuối:
Nước
giếng trong con cá nó vẫy vùng
Tại
sao bỗng có con cá vẫy vùng trong giếng ở cuối một bài
thơ nói về anh lính thú từ biệt vợ sống đày ải trên
núi rừng? Giữa anh lính với con cá chẳng có một liên hệ
gì cả. Cách cấu trúc của câu thơ cũng kỳ quặc: hai câu
tám đi tiếp theo nhau:
Những dang cùng nứa biết ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Trong
một vài bài thơ lục bát ngày xưa, có khi tác giả phá thể,
chấm dứt bài thơ ở câu sáu. Nhưng nếu thế, tại sao lại
không chấm dứt như thế này:
Giếng
trong con cá vẫy vùng
Tại
sao lại thêm chữ “nó” quái gở vào câu thơ? Không phải
con cá vẫy vùng mà là con cá nó vẫy vùng. Tựa như con cá
với nó là hai, có con cá và có nó ở trong giếng đùa nghịch
với nhau, nó vẫy vùng nơi con cá, con cá vẫy vùng nơi nó.
Quái, tại sao có con cá hạnh phúc như vậy ở đây?
Tôi
chịu thua. Mà cũng chẳng ai giải thích được cho tôi. Tôi
đó ai giải thích nổi! Câu thơ nhảy vọt từ chuyện khổ
qua chuyện vui, không đầu không đuôi, không gốc không ngọn,
chẳng nghĩa lý gì cả. Anh lính thú nhớ vợ, mơ về chăn
gối ấm êm bên cạnh vợ? Anh lính thú kiệt sức giữa lúc
chém tre đẵn gỗ bổng thấy lóe ra trong một cơn mê sảng
hình ảnh thanh bình của giếng nước ở quê nhà? Bài thơ
quá giản dị, chất phác, không cho phép tôi diễn dịch cao
xa. Nhưng câu thơ nằm mãi trong đầu tôi vừa như một hình
ảnh êm dịu, vừa như một vũ trụ bí mật quyến rũ, mời
mọc, thách thức óc tưởng tượng của tôi. Tôi không tóm
được nó, cho nên nó dẫn tôi đi lang thang.
Tôi
lang thang trong thế giới thiền. Đừng bắt tôi giải thích
tại sao. Trong thiền không có tại sao. Nó thế là nó thế.
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó
đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ
lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc
cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang
thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi
tiếng.
Một ông sư hỏi Phong Huyệt: “Người nào không hiểu thì
chẳng bao giờ thắc mắc; tại sao vậy?”
Phong Huyệt đáp: “Con rùa đi trên đất thì để lại vết
chân trong bùn”.
Một ông sư khác hỏi Triệu Châu: “Muôn vật quy về một;
vậy một quy về đâu?”
Triệu Châu trả lời: “Hôm qua, đến huyện Kinh, ta có may
một cái áo nặng bảy cân.”
Có người hỏi Động Sơn: “Phật là ai?”
Trả lời: “Ba cân vải”.
Người kia đem câu nói của Động Sơn hỏi Trí Môn.
Ông này cắt nghĩa: “Một mớ hoa, một mớ lụa”. Rồi hỏi
lại:
– Hiểu chưa?
– Dạ chưa hiểu.
– Tre trúc phương nam, tùng bách phương bắc.
Lại có người đem cùng câu hỏi đó hỏi Hòa Sơn: “Phật
là ai?”
Trả lời: “Ta biết đánh trống, tùng tùng tùng, cắc cắc
tùng.”
Vui thật là vui. Vui như thế thì hãy đọc thêm vài chuyện
nữa, vài câu cuối nữa.
Có người hỏi Hương Lâm: “Bồ Đề Đạt Ma đến từ phương
Tây là có ý nghĩa gì vậy?” Trả lời: “Ngồi lâu thì mỏi”.
Một ông sư hỏi Tào Sơn: “Làm thế nào khám phá ra được
một sự im lặng mà không ai có thể diễn tả bằng lời?”
– Ta không khám phá ở đây.
– Thầy khám phá ở đâu.
– Nửa đêm hôm qua ta mất ba đồng tiền cạnh giường ngủ.
Câu cuối trong các chuyện thiền có khi là một bài thơ, một
câu thơ. Bằng thơ, đồ đệ của Huệ Nam tả sư phụ của
mình như sau:
Ông thầy già Huệ Nam
Có câu chuyện “sinh đẻ ở đâu”
Tôi biết sư phụ tôi rõ lắm
Tôi sẽ tả sư phụ ra đây
Tôi sắp tả sư phụ đây này
Con mèo biết cách bắt con chuột già.
Các ông thiền sư thi nhau điên? Có thể lắm! Nhưng càng điên
lại càng hay! Hay tuyệt! Tôi đố ai có câu cuối bất ngờ
hơn thế này:
Từ Minh hỏi Quế Sâm: “Nguyên lý căn bản của đạo
Phật là gì?”.
Quế
Sâm trả lời:
Mây trời không tụ
Trên đỉnh núi cao
Vằng vặc vầng trăng
Thanh tịnh soi mình trên sóng.
Từ
Minh quắc mặt: “Thật là sỉ nhục! Tu già đời rồi mà
còn hiểu bậy bạ như vậy! Làm sao thoát khỏi sinh tử luân
hồi!”
Quế
Sâm quỳ lạy sư phụ dạy bảo cho biết sai chỗ nào.
Từ
Minh quát: “Hỏi ta đi!” Quế Sâm lặp lại câu hỏi ban nãy:
“Nguyên lý căn bản của đạo Phật là gì?”. Sư phụ nghiêm
trang:
Mây trời không tụ
Trên đỉnh núi cao
Vằng vặc vầng trăng
Thanh tịnh soi mình trên sóng
Nếu
thiền mà không ngược đời thì thềin đã chẳng phải là
thiền. Tôi đi vào thế giới đó thì phải thay đổi giày
mà đi: lấy chiếc giày chân phải mang vào chân trái, chiếc
giày chân trái mang vào chân phải, hai chân lúc đó mới thoải
mái.
Lúc
đó mới thấy cái chuyện ngược đời chính là cái chuyện
tại sao có bàn chân phải với bàn chân trái, tại sao có chiếc
giày bên trái với chiếc giày bên phải, tại sao mỗi khi mang
giày lại cẩn thận xem chiếc nào phải chiếc nào trái. Đứa
trẻ lên ba có bao giờ phân biệt như vậy đâu! Thật Tánh
Đại sư để lại bài thơ như thế này:
Với hai bàn tay trống, ta đi
Ấy thế mà trong tay ta lại có cái cuốc
Với hai chân đất, ta đi
Ấy thế mà ta đang cưỡi trên lưng con bò
Ta đang đi trên cầu
Kìa! Không phải nước chảy mà cái cầu đang trôi
Dưới
nước có cái cầu đang chảy. Cụ Nguyễn Du đáng lễ phải
viết lại câu thơ như thế này: Dưới nước cầu chảy trong
veo. Bởi vì cụ không thấy được như vậy cho nên cụ cứ
than thở hoài, sống bây giờ mà cứ khóc chuyện ba trăm năm
sau. Bashô của Nhật học được cái ngược đời của thiền,
lấy ngược nhìn xuôi, cho nên “những điều trông thấy”
chẳng làm cho ông “đau đớn lòng” gì cả. Ngược lại,
ông thoải mái với những chuyện trước mắt mà ông để
hết tinh thần để thấy, để nghe. Có người hỏi ông: “Thế
nào, ông mạnh giỏi không?” .Trả lời:
– Mưa tạnh thì rêu xanh hơn.
Lại hỏi:
– Cái đạo gì có trước khi rêu xanh?
Trả lời:
– Một con ếch nhảy vào nước: nghe tiếng đó đi!
Câu trả lời viết thành một bài thơ hài cú nổi tiếng:
Ồ! Cái ao xưa!
Một con ếch nhảy
Tiếng nước!
Không
biết nghe, không biết thấy, thì cái ao có đó cũng như không,
con ếch có nhảy cũng chẳng làm ai nghe tiếng nước đánh
bõm. Không biết thấy thì Phật đứng trước mắt cũng chẳng
thấy. Biết thấy, biết nghe thì tiếng nước thường tình
cũng là một sự kỳ lạ mầu nhiệm. Thơ là gì, nhất là
thơ hài cú, nếu không phải là ba bốn sự vật thường tình
bỗng trở thành linh hoạt dưới mắt Bashô?
Một cành cây trụi lá
Một con quạ đậu trên cành
Hôm nay chiều thu.
Lang
thang trong thế giới thiền xấc láo, ngỗ ngược, tôi chợt
có một ý nghĩ đùa nghịch: đổi câu cuối của các chuyện
thiền, nghĩa là câu quan trọng nhất, câu sống chết. Chẳng
hạn như chuyện sau đây:
Cao
Phong là danh sư thiền dưới đời Tống. Một hôm, sư phụ
của ông hỏi bất thần: “Ai gánh giùm cho ông cái thân xác
đã mất hết sự sống này?” .Cao Phong lúng túng, khổ sở
không tìm ra câu trả lời. Ông loay hoay suy nghĩ nát óc trong
mấy ngày đêm. Một buổi sáng, bước vào thiền đường,
tình cờ nhìn lên bức họa chân dung Pháp Hiển, ông bỗng
để ý đến hai câu thơ của Pháp Hiển viết dưới bức họa:
Suốt trăm năm – ba vạn sáu nghìn buổi sáng
Cũng cái lão già này cứ mãi vào ra!
Cao
Phong bừng tỉnh. Sau đó, ông gặp lại sư phụ. Thầy hỏi:
“Ai gánh giùm cho ông cái thân xác đã mất hết sự sống
này?” Cao Phong trả lời: “Hô!”. Thầy hươi gậy lên toan
đánh. Trò gạt tay thầy ra: “Sư phụ không đánh tôi được
nữa!” Thầy nói: “Tại sao không?” Trò không trả lời,
bỏ đi. Hôm sau, thầy lại hỏi: “Mọi vật quy về một;
vậy một quy về đâu?” Trả lời:
– Con chó kiếm nước sôi nơi cái chảo.
Thầy nạt:
– Ai dạy cho ông chuyện ngu xuẩn như vậy?
Cao Phong đủng đỉnh:
– Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng!
Giá như câu cuối này được kể dưới thời Tống, không
chừng câu thơ đã đi vào sử sách chứ không phải chỉ nằm
khiêm tốn trong Quốc văn giáo khoa thư!
Tôi kể thêm chuyện nữa:
Một
ông sư hỏi Triệu Châu: “Một ngọn lửa thắp ra thành trăm
ngọn lửa; vậy từ đâu đến cái ngọn lửa duy nhất đó?
Vạn sự trở về Không, vậy Không trở về đâu?” Thầy
đáp: “Lưỡi ta ngắn quá, không trả lời cho ngươi được.”
Trò hỏi: ” Tại sao ngắn?” Trả lời” “Ở ngoài hay ở
trong đều cùng một bản chất”. Trò sụp lạy xin nói rõ
hơn. Triệu Châu nạt:
– Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng!
Trong
trường hợp ông thiền sư không muốn nói nhiều, tôi đề
nghị một chuyện khác nữa như thế này:
Một
ông sư hỏi Thủ Sơn: “Người xưa nói: có một chữ, một
chữ duy nhất, mà nếu ta hiểu được thì có thể xóa hết
tội lỗi đã phạm trong vô số kiếp. Chữ duy nhất và cuối
cùng đó là gì?” Thủ Sơn trả lời: “Nó nằm ngay dưới
mũi của ông.” Lại hỏi:
– Nghĩa là gì?
– Nước giếng trong!
Hoặc
là thế này, cho ngắn gọn hơn nữa, hợp với khẩu khí
thiền hơn:
Một
ông sư hỏi Trường Sa: “Trong khi biến đổi sông núi đất
đai, làm sao dồn tất cả các thứ đó vào cái tôi?” Thầy
trả lời: “Trong khi biến đổi cái tôi, làm sao sản sinh
ra đất đai sông núi?” Ông sư không hiểu. Thầy quát:
– Nước!
Tôi
cũng có thể sáng tác một chuyện thiền của riêng tôi, rút
cảm hứng từ những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống
thường ngày: nấu cơm, rửa chén. Thú thật, mỗi lần nghe
gạo sôi trong nồi điện, tôi thường tự hỏi không biết
gạo đang sướng hay khổ, đang quằn quại trong sức nóng của
điện như anh lính thú vất vả trong cực nhọc của núi rừng,
hay đang vui cái vui của Phật dưới cội bồ đề, trong đêm
cuối cùng, khi trời sắp sáng. Gạo sôi, sôi sùng sục, nước
bốc hơi qua vung, rồi êm dần, lặng xuống, yên lặng. Khi
nồi điện bật nút, tôi nghe gạo trong nồi reo lên: “Cơm!”,
và tôi thấy sao mai chợt sáng trên trời. Giác ngộ là lúc
gạo bỗng thấy mình thành cơm? Đó quả thật là một bí
mật sâu kín, bởi vì gạo làm sao thành cơm được nếu chất
cơm đã không có sẵn nơi gạo? Anh lính thú cũng là một hạt
gạo như Phật, vậy thì ai dám bảo anh đã không thành Phật
qua một kinh nghiệm của riêng anh? Nếu không, tại sao anh bỗng
nhảy vọt từ một nỗi khổ không rên la được với ai qua
một hình ảnh hạnh phúc tuyệt vời?
Kinh
Thập Địa tả trạng thái của Bồ-tát khi đạt đến tầng
thứ tám của đời sống tâm linh bằng một hình ảnh rất
đẹp: giống như người bơi thuyền ra biển, lúc mới xa bờ
thì sóng lớn dồn dập, rần rộ muốn nuốt con thuyền, đập
tan nó ra, cuốn phăng nó đi, xé nó thành trăm mảnh vụn, nhưng
càng ra xa thì nước càng lắng, và ra đến giữa đại dương
mênh mông thì sóng yên biển lặng, thuyền không một chút
chèo chống mà vẫn trôi êm trên nước. Biển nào cũng là
biển, trong bờ hay giữa khơi thì biển cũng chỉ là một;
thuyền nào cũng là thuyền, nhấp nhô giữa sống hay êm ả
giữa mênh mông thuyền đâu có phải là hai? Nếu ông thiền
sư nào đó hươi gậy trên đầu tôi, hỏi: “Phật là ai?”,
tôi sẽ trả lời không suy nghĩ:
– Anh lính thú!
Và nếu ông hỏi tiếp: “Giác ngộ là gì?”, tôi sẽ đáp
không chút khó khăn:
– Nước giếng trong!
Có
thể đạo Phật của tôi “trí thức” quá, đưa tôi đi quá
xa một bài thơ dân dã. Có lẽ tôi phải lang thang trong một
thế giới khác, có tiếng võng, có ca dao, có cổ tích. Giếng
nước! Hình ảnh thân thuộc biết bao nhiêu! Kìa, có bóng ai
thấp thoáng bên miệng giếng, có tiếng ai gọi: bống bổng
bồng bông… Ấy, cô Tấm đang thả cơm xuống giếng cho con
cá bống. Cô Tấm có một người dì ghẻ ác, một cô em gái
hiểm; cô Tấm bị ngược đãi, nhưng cô tấm không kêu khổ,
chỉ khóc. Cổ tích Việt Nam có một cô Tấm khóc rất dễ
thương và một ông Bụt hiền như Bụt. Khi Bụt hiện ra, cô
Tấm không ngạc nhiên, cũng không mừng rỡ, tưởng chừng
như Bụt hiện ra là chuyện tự nhiên, như Bụt ở đâu đó,
bên cạnh cô, cô khóc là Bụt hiện.
Tôi
không biết khóc như cô Tấm, nhưng tôi có cảm tưởng Bụt
vẫn hiện ra với tôi, nghĩa là trong tôi. Tôi biết một cách
chắc chắn rằng hễ ai mời Bụt là Bụt đến, nhưng phải
biết cách mời. Cách mời cũng giản dị thôi: chỉ cần sống
như Bụt, sống như lời Bụt nói, sống như hình ảnh của
Bụt. Sống như vậy thì cuộc đời sẽ là cổ tích.
Tam
Tạng là cổ tích hay cuộc đời? Là cổ tích, vì ai chẳng
biết chuyện ông Tam Tạng qua Tây Trúc thỉnh kinh, gặp đầy
yêu quái dọc đường. Là cuộc đời, vì Tam Tạng là Huyền
Trang. Tam Tạng là cổ tích đi vào cuộc đời, là cuộc đời
đi vào cổ tích. Đây là đoạn Huyền Trang vượt qua sa mạc,
do sử sách chép lại:
“…
Chừng canh ba, pháp sư lén vượt được cửa ải Ngọc Môn,
mừng lắm, đặt hành lý xuống nằm ngủ, cách người Hồ
năm mươi bước. Mới nằm một lát, người Hồ rút dao đứng
lên. Pháp sư ngờ người Hồ đổi dạ, ngồi dậy niệm đức
Quan Âm. Thấy vậy, người Hồ về chỗ nằm ngủ. Gần sáng,
người ngựa lại tiếp tục đi, nhưng được vài dặm thì
người Hồ bảo không đi thêm được nữa, đi thì chết. Pháp
sư đơn độc đi vào sa mạc, chỉ nhìn xuống người hay phân
ngựa mà đi. Một lát bỗng thấy có mấy trăm quân binh diễu
ra trước mặt, thoáng tiến thoáng lui, người ngựa cờ xí
biến ảo liên hồi, nhìn xa thấy rõ, đến gần lại tan. Pháp
sư mới nhìn nghi là giặc cướp, đến gần mới biết quái
dị. Nhưng trong không gian có tiếng nói: cứ đi, đừng sợ.
Vượt
qua bốn đồn canh, pháp sư đi vào đại sa mạc Mông Cổ. Đại
sa mạc này dài hơn tám trăm dặm, trên không có chim bay, dưới
không có thú chạy, nước không một giọt, cỏ không một
lá. Một mình một ngựa, pháp sư chỉ niệm đức Quan Âm và
bài Bát Nhã tâm kinh mà đi. Giữa đại sa mạc, gặp bao nhiêu
hiện tượng quái dị vay bọc trước sau, pháp sư niệm bài
kinh này thì tan biến liền, lại gặp bao nhiêu nguy khốn, niệm
bài kinh này vượt qua hết thảy.
Pháp
sư đi cỡ trăm dặm thì lạc đường, tìm suối Dã Mã không
thấy. Lấy túi nước để uống thì lỡ tay, nước đổ hết
trên cát. Quanh quẩn không biết hướng nào, bèn lấy hướng
đông. Nhưng đi thâm mười dặm nữa, pháp sư tự nghĩ: mình
đã nguyện chưa đến xứ Phật thì không lùi về hương sđông
một bước, sao bây giờ lại quay về! Thà đi tới hướng
tây mà chết, nhất quyết không quay về hướng đông để
sống. Trở ngựa lại, pháp sư chuyên tâm niệm đức Quan Âm
mà đi theo hướng Tây Bắc. Bấy giờ, cát nóng mênh mông,
người ngựa đều lả, đêm thì yêu quái nhấp nhánh như sao,
ngày thì cuồng phong cuốn cát, tung bay như mưa lũ. Pháp sư
không nao núng gì cả, chỉ khổ vì khát quá, không đi được
nữa. Đã bốn đêm năm ngày, pháp sư không có một giọt nước
thấm môi. Cổ, miệng và bụng nóng gần chết. Quị xuống
mặt cát nóng rát, pháp sư vẫn thầm niệm đức Quan Âm, thầm
bạch: con đi đây, không cầu lợi lộc, không mong danh vọng,
chỉ vì Phật pháp vô thường mà thôi, Bồ-tát là đức Từ
Bi, thương người cứu khổ, con thế này là đang khổ đây,
lẽ nào ngài không biết. Pháp sư tác bạch như vậy và không
ngừng niệm danh hiệu của ngài. Nửa đêm hôm ấy là đêm
thứ năm, đột nhiên có luồng gió mát thổi đến thân thể
pháp sư; pháp sư nghe mát như tắm nước lạnh, nhờ vậy mà
sáng mắt, ngựa cũng dậy được. Cơ thể đã thư, pháp sư
thiếp được một lát, mộng thấy vị thần cao lớn bảo
sao không gắng dậy, đi được mười dặm thì đột nhiên
ngựa tự rẽ qua ngã khác, kéo lại cũng không chịu. Thêm
vài dặm nữa, bỗng thấy cả mẫu cỏ xanh. Pháp sư cho ngựa
ăn, lại đi mười bước thì thấy một ao nước, trong và
ngọt. Uống rồi, người ngựa đều khỏe, nghỉ lại một
ngày. Hôm sau múc nước, lấy cỏ, đi tới. Thêm hai ngày nữa,
pháp sư ra khỏi sa mạc”.
Tôi
tặng câu chuyện này cho anh lính thú “hữu thân hữu khổ”
của tôi. Trên rừng thiêng nước độc, chắc anh còn đau sốt
liên miên, có khi không chừng kề cận cái chết. Tôi chắc
anh chẳng biết ông thiền sư là cái ông gì, nhưng chắc chắn
anh biết Bụt là ai, giọt nước Quan Âm mát như thế nào.
Đừng nói anh lính thú kể chuyện không đầu không đuôi,
câu kết lạ hoắc với câu tam câu tứ. Có cái gì lạ hoắc
với sa mạc bằng ao nước đâu! Thế mà Tam Tạng bảo tôi
viết bài thơ hài cú như thế này:
Sa
mạc, sa mạc, sa mạc
Sa
mạc
Nước!
Trí
thức của tôi cũng chỉ là sa mạc: tôi sẽ chết khát trong
đó như chết khát trong bài thơ lớp ba, và sẽ không bao giờ
nhảy vọt đến câu cuối nếu không có sự giao cảm của
lòng tin. Trí tuệ sẽ khô cứng nếu không có lòng tin tươi
mát. Với trí tuệ mà thôi, chưa chắc tôi đánh hơi được
mùi cỏ xanh như con ngựa của Huyền Trang. Chưa chắc tôi thấy
được Bụt như cô Tấm. Chưa chắc tôi được là con cá nó
vẫy vùng trong nước giếng trong.
C.H.T.
(http://www.lieuquanhue.com.vn)
Discussion about this post