KHẢO SÁT VỀ NGUỒN GỐC
LỄ VU LAN Ở KATHMANDU, NEPAL
Nguyễn Phú
Trong quá trình 5 năm cư trú tại Nepal, chúng tôi đã có dịp may để khảo sát những phong tục cổ truyền của dân chúng địa phương. Một trong những lễ quan trọng trong năm, cũng có thể nói là quan
trọng nhất, của Phật tử ở đây là Đại lễ Vu lan. Lễ Vu lan của Nepal có gì khác với lễ Vu lan tại Trung Quốc và Việt Nam? Nó được thực hiện như thế nào? Nguồn gốc của lễ ấy? Trước tiên chúng ta hãy nhìn lại nguồn gốc
của lễ Vu lan ở Trung Quốc
Nguồn gốc Lễ Vu lan tại Trung Quốc
Phần
này chúng tôi không đi sâu vào chi tiết về từ nguyên, lịch sử hoặc cách
thức thực hành nghi lễ. Chỉ điểm qua một số nét chính để có cơ sở so sánh với lễ Vu lan tại Nepal.
Tượng Phật được trưng bày cho Phật tử chiêm bái và cúng dường nhân mùa Güla
Có
lẽ bị ảnh hưởng từ Phật giáo Trung hoa, Phật giáo của Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên cũng tổ chức lễ Vu lan gần giống như của Trung Hoa. Nói chung, tất cả các nước trên đều tổ chức lễ Vu lan dựa theo bài kinh Phật thuyết kinh Vu lan do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn (265-316). Kinh này nói về sự tích Phật dạy ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ khi mẹ bị đọa ở địa ngục. Và tất cả đều thống nhất ở một điểm theo truyền thống Phật giáo: ngày rằm tháng Bảy (theo âm lịch Trung Hoa) là ngày chư Phật hoan hỷ, oai lực chư Tăng được tăng trưởng sau ba tháng an
cư, và là ngày tự tứ, do đó chư Tăng hội họp đầy đủ.
“…Rằm tháng Bảy là ngày tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu…”.(Phật thuyết Kinh Vu lan)
Thật
ra, tập tục cúng bái tổ tiên và tẩy trừ ma quỷ vào dịp rằm tháng Bảy tại Trung Quốc đã xuất hiện từ rất lâu đời (ít nhất là từ đời Hán). Còn Tết Trung nguyên của Đạo giáo thì cũng có trước thế kỷ thứ VII. Khi Phật
giáo truyền đến Trung Quốc, có lẽ trùng hợp về thời điểm và quan niệm báo hiếu nên người Trung Quốc đã hấp thụ lễ Vu lan của Phật giáo và biến
lễ Vu lan tại Trung Quốc trở thành một lễ dân gian mang tính tổng hòa của: Tập tục thờ cúng tổ tiên + Tết Trung nguyên của Đạo giáo + Lễ báo hiếu của Phật giáo.
Chư Ni tụng kinh trên đỉnh đồi Swayambhu vào mùa Güla
Nội
dung mang màu sắc Phật giáo có thể thấy qua việc thiết lễ cúng dường chư Tăng và cầu nguyện cho người đã khuất. Còn những tập tục như cúng cô
hồn, đốt vàng mã là những tập tục còn sót lại của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc. Sau này Mật tông Trung Quốc còn soạn thêm lễ cúng thí ngạ quỷ. Từ đó có thể thấy lễ Vu lan ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung Quốc không còn thuần khiết và bị pha trộn bởi những yếu tố văn hóa địa phương.
Việc tìm hiểu nguồn gốc lễ Vu lan tốt nhất nên khảo sát tại quê hương bản quán của nó, tức địa bàn Bắc Ấn. Tuy
nhiên, Phật giáo tại vùng Bắc Ấn đã tàn lụi hơn 1.000 năm trước, những lễ tiết Phật giáo cũng đã nhạt nhòa theo thời gian.
May mắn thay cho chúng tôi, một địa điểm tại Nepal vẫn còn bảo lưu được lễ Vu lan nguyên thủy: Thung lũng Kathmandu.
Phật tử đi kinh hành cầu nguyện vòng quanh bảo tháp Swayambhu
Güla – tháng lễ trọng của cộng đồng Newari
Güla
là một lễ hội đặc biệt của Nepal và chỉ duy nhất có ở Thung lũng Kathmandu (Kathmandu Valley), đây chính là nước Nepal cổ đại với tên gọi
Nepal-Mandala vào thời Asoka Đại đế.
Xin nói qua một chút về lịch sử của Kathmandu Valley.
Về
địa lý, Kathmandu Valley nằm cách Kapilavastu của Vương quốc Sakya 400km. Thung lũng này nằm trên độ cao hơn 2.000m trên mực nước biển và được bao bọc bởi những ngọn núi cao. Đặc điểm này đã làm nên cái tên cổ đại nổi tiếng của thung lũng vì những ngọn núi bao bọc xung quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình mandala. Theo huyền sử, Kathmandu chính là một cái hồ lớn vào thời tiền sử (các khảo cứu địa chất mới nhất tại đây đã chứng minh điều này). Những sườn núi xung quanh
hồ lớn ấy là nơi cư trú của sắc dân Naga – nhóm chủng tộc Mongoloid của
Hymalaya mà địa bàn cư trú kéo dài đến tận Trường Sơn của Việt Nam. Cũng theo huyền sử, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát đã tìm đến đây để chiêm bái Swayambhu (Ánh sáng tự sinh từ một hoa sen do Đức Phật Bipaswi gieo trồng). Ngài Văn Thù đã dùng báu kiếm của mình rạch một lối thoát nước và biến cái hồ ấy trở thành Thung lũng Kathmandu, còn hòn đảo giữa hồ trở thành ngọn đồi Swayambhu ngày nay. Sắc dân Naga sống gần đấy đã quy tụ lại dưới sự lãnh đạo của một đệ tử của ngài Văn Thù, sau này được ghi
nhận trong sách sử cổ đại của Ấn Độ là Kirat hay Kiran. Bộ tộc Kiran đã
từng tham chiến và giúp đỡ có hiệu quả trong cuộc chiến tranh của liên minh các vương quốc Ấn Độ chống đạo quân viễn chinh của Alexander. Sau này, trong công cuộc thống nhất Ấn Độ của Chandragupta (ông nội của Asoka Đại đế), họ trở thành một đồng minh tin cậy của ông trong việc kiến tạo Đế quốc Maurya. Chính Asoka, sau khi hành hương chiêm bái tất cả các thánh tích Phật giáo của Ấn Độ, đã đi đến Nepal-Mandala vào năm 250 TCN. Ở bốn góc của thành phố cổ Patan (trung tâm quyền lực của Nepal
cổ đại) còn tồn tại bốn bảo tháp lớn, được truyền tụng rằng, chúng đã được dựng nên bởi chính vua Asoka khi ông đến thăm Nepal-Mandala. Một huyền sử nữa là vua Asoka đã gã con gái của ông là công chúa Charumati cho một hoàng thân trong triều đình Kiran.
Đội nhạc cổ truyền dẫn đầu mỗi nhóm đi cầu nguyện
Đội nhạc cổ truyền thế hệ trẻ vào mùa Güla
Về
truyền thống Phật giáo, có lẽ Phật giáo đã du nhập vào Nepal-Mandala từ
thời Đức Phật. Huyền sử cũng nói rằng, chính Đức Phật Thích Ca đã viếng
thăm một vương tử Sakya tại Nepal-Mandala trước khi Ngài nhập Niết bàn,
và sau này ngài A Nan cũng nhiều lần đến Nepal-Mandala thăm viếng và truyền đạo cho các quý tộc Sakya lưu lạc đến đây sau khi vương quốc Sakya ở Kapilavastu bị tận diệt. Nagarjuna (Long Thọ), Buddhaghosa (Phật
Âm), Atisa đều đã đến thăm viếng Thung lũng Kathmandu và Swayambhu. Vì thế Phật giáo tại Kathmandu Valley có một truyền thống sâu xa và vững chắc, kéo dài không ngưng nghỉ suốt từ thời Đức Phật còn tại thế cho đến
nay. Đến cuối thế kỷ XIX, những nhà khoa học Anh đã ghi nhận rằng, có đến 80% dân số của Kathmandu Valley theo đạo Phật. Chỉ từ sau khi có luật chống lại Phật giáo vào thời Rana những năm 1910-1930 và những hành
động quá khích của chính quyền để thiết lập một vương quốc thuần Hindu,
số lượng người theo đạo Phật mới bị giảm sút nghiêm trọng, chỉ còn trên
dưới 20% vào thời điểm hiện nay. Mặc dù vậy, hầu hết những gia đình đã cải đạo sang Hindu đều giữ những tập tục Phật giáo của mình. Và điều quan trọng hơn, cộng đồng “thuần túy Phật giáo” Sakya vẫn giữ nguồn mạch
Phật giáo chảy mãi tại Kathmandu Valley.
Phật tử đọc kinh tại Golden Temple
Phật tử tựu tập tại “Golden Temple – Patan để đọc kinh Phật cùng Chư Tăng-Ni
Đối với Phật tử của Kathmandu Valley, sự kiện quan trọng nhất trong năm là tổ chức một tháng lễ trọng Güla.
Güla
là tên của tháng thứ 10 trong lịch Newari (Nepal Era Calendar) – một nguyệt lịch được sử dụng từ năm 880 tại Kathmandu Valley. Güla là một từ
Newari cổ (Newari là ngôn ngữ của cư dân bản địa ở Thung lũng Kathmandu, có nguồn gốc từ ngôn ngữ Bhrami, được sử dụng rộng rãi vào thời vua Asoka). Güla cấu thành từ “gun” có nghĩa là điềm lành và từ “la” là một khoảng thời gian (trong trường hợp này là một tháng). Chính vì vậy, Güla có nghĩa “tháng tốt lành”. Theo lịch Ấn Độ, Güla bắt đầu từ
ngày thứ nhất của tuần trăng Srawan và chấm dứt vào ngày đầu tiên của tháng Bhada (tháng Tám-Chín). Theo dương lịch, tháng Güla thường rơi vào
khoảng giữa tháng Tám đến giữa tháng Chín, và hoàn toàn trùng khớp với tháng Bảy âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc.
Vào tháng Güla, sau khi lúa đã cấy xong, Phật tử Newari bước vào tháng lễ quan trọng nhất trong năm của họ. Dễ quan sát hơn cả là việc họ chiêm bái ngọn đồi Swayambhu – Thánh địa Phật giáo quan trọng nhất của thung lũng Kathmandu.
Suốt cả tháng Güla, Phật tử Newari cầu nguyện, chay
tịnh, thiền quán và biểu diễn âm nhạc tôn giáo. Trong tháng Güla, họ không ăn thịt gà và trứng. Từ rất sớm (4-5 giờ sáng) họ đi bộ (đa số đi chân trần) thành từng nhóm đến Swayambhu cùng với những ban nhạc cổ truyền dẫn đầu mỗi nhóm để thực hiện những buổi lễ đặc biệt, bất kể thời
tiết thế nào. Nhạc cụ chính của tất cả các ban nhạc là Dhah (trống 3 tấc, một nhạc cụ cổ truyền tồn tại hơn 2.000 năm nay ở Thung lũng Kathmandu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy chứng tích của nó từ thời Kiran –
Asoka Đại đế). Những chàng trai, cô gái người Newari đeo những cái trống cổ truyển này trên cổ và vỗ bằng tay trái còn tay phải gõ bằng một
cái dùi đặc biệt, đầu cuốn tròn như dấu “?”. Nhóm nhạc công tài tử này còn có những người thổi kèn và chơi những cái chập chõa nhỏ như chén ăn cơm.
Phật tử Tây Phương cũng về Swayambhu cầu nguyện nhân mùa Güla
Vào
tháng Güla, Swayambhu đông nghịt người chiêm bái, đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Không chỉ Phật tử mà cả người theo đạo Hindu (hoặc Phật giáo
cải sang Hindu) cũng đi đến Swayambhu để tỏ lòng kính ngưỡng Đức Phật. Họ leo lên 365 bậc đá của ngọn đồi, vượt qua những khu rừng thưa, những tượng đá của các linh vật, những pho tượng Phật cổ bằng đá to ngoại cỡ, và những con khỉ ngồi dọc theo đường đi để chờ thức ăn… để lên tới đỉnh đồi. Người người chen chúc nhau trong không gian chật hẹp và càng chật hẹp hơn bởi đèn dầu, cờ phướn, tượng Phật và tranh cuộn Thangka trang hoàng các tự viện và bàn thờ, bởi mùi nhang trầm hòa quyện cùng tiếng chuông và tiếng quay của những bánh xe cầu nguyện đặt vòng quanh bảo tháp. Đây đó, những nhóm Tăng Ni ngồi tụng thật lớn những bộ kinh Phật cho mọi người cùng nghe, trong khi những nhóm nhạc tài tử thì tụ tập bên
cạnh những tháp đá và chơi những bản nhạc cổ truyền hoặc hát lời ngợi ca chư Phật. Theo truyền tụng, việc chiêm bái trong tháng Güla này đã được thực hiện ở Thung lũng Kathmandu từ nhiều thế kỷ, có lẽ từ 2.500 năm trước. Nghi thức này lặp lại mỗi ngày trong suốt tháng Güla. Những ngày về sau của tháng lễ, số lượng các nhóm nhạc và người cầu nguyện càng đông khi những người ở xa xôi hơn cũng tề tựu về.
Vajracharya (Giai cấp tư tế Phật giáo của cộng đồng Newar)
đọc kinh Phật nhân mùa Güla
Tại
Patan (thành phố cổ nhất của Thung lũng Kathmandu, nơi được mệnh danh là thành phố Phật giáo), trong khi mưa thỏa cơn khát của đất đai và vạn vật, Phật tử nhắc nhở nhau nhớ lại những lời Phật dạy. Phật tử Newari ở đây thực hiện một tháng lễ quan trọng bằng cách tỏ lòng tôn kính Đức Phật, nhắc nhở nhau cố gắng thực hiện ngũ giới trong cuộc sống hàng ngày, tối thiểu là một tháng.
Những nữ Phật tử tắm gội sạch sẽ
và chỉ ăn một bữa mỗi ngày trong suốt tháng Güla. Mỗi ngày, trước khi nấu nướng thức ăn trong ngày, những người phụ nữ nắn những cái tháp nhỏ bằng đất sét (Caitya) và cầu nguyện trước chúng với lòng tin rằng, hành động đó sẽ tích lũy công đức cho chính họ và gia đình. Những cái tháp nhỏ đó được cầu nguyện và giữ cẩn thận cho đến ngày cuối cùng của tháng Güla. Vào ngày cuối cùng của tháng Güla, những người phụ nữ thực hiện một nghi lễ đặc biệt: mặc những bộ trang phục đẹp nhất mà họ có cùng với
nữ trang đắt tiền, họ bưng những cái tháp nhỏ trong một cái khay bạc hoặc đồng, theo sau những nhóm nhạc cổ truyền, đi tới một dòng sông gần nhà. Ở đây họ thực hiện nghi lễ cuối cùng trước các caitya rồi đặt chúng
xuống nước. Kết thúc mùa Güla, số Caitya có thể lên đến hơn trăm ngàn cái.
Bảo tháp Swayambhu trong đêm Güla nhìn từ cửa sổ phòng của tác giả
Vào
ngày thứ tám của tháng Güla, Phật tử ở Patan thực hiện lễ “Pancha Dana”
– lễ dâng cúng năm thứ vật thực (gạo lức, gạo trắng, đậu, lúa mì và muối). Đó chính là lễ cúng dường cho các chư Tăng Ni theo nghi thức cổ truyền. Huyền thoại truyền rằng đó chính là ngày Siddhartha từ bỏ lối tu
khổ hạnh để chọn con đường Trung đạo và sau đó chứng ngộ thành Phật. Trong ngày Pancha Dana, các cửa hiệu và nhà cửa trang hoàng với hoa và các tranh tượng Phật. Phụ nữ ngồi trước cửa nhà với những cái bồn bằng đồng chứa đầy 5 thứ phẩm vật dâng cúng (nguồn gốc của Vu lan bồn(?), và dâng mỗi lần đầy hai tay vào bình bát của các Tăng Ni đi khất thực ngang
qua theo phong tục được chính Đức Phật thực hành hơn 2.500 năm trước. Các Tăng Ni ban phước lành cho mỗi thí chủ bằng cách cầm những cuốn kinh
Phật chạm vào trán của họ, cầu chúc cho họ nhận được phước duyên và sự bảo hộ của chư Phật. Khi trời chạng vạng tối, một nhà sư đi vòng quanh thành phố và lắc một cái chuông báo hiệu kết thúc ngày Pancha Dana, khi đó các Tăng Ni không nhận thêm lễ vật dâng cúng nữa. Sau đó, vào ngày thứ 28 của tháng Güla, Pancha Dana lại được tổ chức ở hai thành phố khác
của Thung lũng Kathmandu là Kathmandu và Bhaktapur.
Kinh Phật cổ được trưng bày nhân mùa Güla
Bahi Doe Boyegu, sự trưng bày các tượng Phật trong sân chùa, rơi vào ngày thứ 12, và có thể kéo dài vài ngày, tùy thuộc vào quyết định của cộng đồng Sakya của tự viện đó. Trong ngày này, những thánh tích và tượng cổ được trưng bày cho công chúng chiêm bái và cầu nguyện. Đó là những tượng gỗ tuổi đời vài thế kỷ, có tượng đã bị mối mọt làm hư hại. Đó là những bức tranh cuộn Thangka, và những tấm thảm treo tường cổ, thể hiện cuộc đời Đức Phật hoặc các Thánh tăng, đó còn là những hạt gạo ngoại cỡ được cho rằng đã được trồng ở Thung lũng Kathmandu vào thời cổ đại. Mỗi ngày có đến hàng trăm người đến chiêm bái ở mỗi tự viện. Tại một ngôi chùa ở Thamel, những cuốn kinh cổ hơn ngàn năm tuổi, viết bằng mực hoàng kim, được trưng bày một lần duy nhất trong năm cũng vào dịp này.
Vào ngày rằm, Phật tử tề tựu tại các bảo tháp Asoka ở Patan để cầu nguyện.
Vào ngày thứ 17, diễn ra lễ Mata-Ya, lễ Đèn. Vào ngày ấy, mọi người bưng những cây đèn dầu đi không mệt mỏi vòng quanh khắp các đường lớn, hẻm nhỏ của Patan, để cầu nguyện cho những người thân đã chết. Họ đi chân trần, mặc những bộ đồ đẹp nhất và tụng đọc những bài ngợi ca chư Phật. Đi đầu luôn luôn là những nhóm nhạc cổ truyền.
Bắt đầu từ tờ mờ sáng, những đoàn người kéo đi xuyên qua mê cung của các con đường nhỏ hẹp và hẻm hóc của thành phố cổ Patan, rắc gạo, tiền xu và bột đỏ lên tất cả các khám thờ tượng, tháp, chùa, đền dọc theo đường đi. Họ đi càng nhanh khi trời đã đến giữa trưa, và quan niệm rằng càng khổ nhọc bao nhiêu thì người thân đã khuất của họ sẽ bớt đau khổ bấy nhiều. Họ rắc những đồng xu trên đường đi trong khi gọi tên người thân đã khuất, trong khi những người khác hát vang những bài ca ngợi ca sự chiến thắng của Đức Phật trước ma vương. Đến quá trưa thì hầu hết mọi người gần như kiệt sức, bột đỏ chảy dài trên thân thể thành những dòng mồ hôi đỏ, bám đầy cả trên tóc, trên quần áo. Nhưng họ vẫn không dừng lại. Một số thanh niên và đàn ông của những gia đình có người thân chết trong vòng một năm qua cởi trần và quỳ lạy trong đất bụi trước mỗi khám thờ dọc đường. Jyapu, cộng đồng nông dân bản địa của Thung lũng Kathmandu, tin chắc rằng lễ Đèn là để tưởng niệm người thân đã khuất của họ.
Chúng tôi nghĩ rằng Güla chính là từ nguyên của Vu lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu lan bồn là để chỉ cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Tăng trong ngày Pancha Dana.
Một điều thú vị là từ Kathmandu Valley cho đến Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên thì ở đâu tinh thần kính ngưỡng chư Phật, chư Tăng và báo hiếu cũng là trọng tâm của lễ Vu lan.
Nguyễn Phú
(Nguồn: http://old.thuvienhoasen.org)
Discussion about this post