
HƯƠNG
XUÂN
Hạnh
Đoan
Xuân
về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương.
Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới,
mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông, nóng
nảy của mùa Hạ hay vẻ đìu hiu của mùa Thu.
Không
phải xuân về tôi mới cảm nhận được nét tưng bừng tươi
tắn, mà vào thời điểm trước khi bầu cử làng xã, có dịp
đi ngang qua các ủy ban, nhìn băng rôn treo rực sắc màu, từng
ánh mắt nụ cười của người ứng cử chứa đầy vẻ thân
thiện, tử tế, vị tha… khiến tôi không nhịn được phải
buột miệng nói với chị Phượng:
– Thiệt
giống như khí xuân, ấm áp, chan hòa tình người…
Chị
tôi mỉm cười bảo:
– Ừ,
trước ngày bầu cử là vậy, ra đây cảm giác rất thích,
cứ như ai cũng mở lòng, dang tay đón mình…
– Phải
chi lúc nào mình cũng đối với nhau được như thế này,
cho dù không phải Tết, hả chị?
Đó
là ước mơ bất chợt, là những lời bâng quơ tôi tùy tiện
nói ra. Đối với xuân, người ta luôn trân trọng, giữ gìn,
nhất là vào những ngày đầu năm được xem là thời khắc
thiêng liêng: khai bút vào giao thừa, mong người tốt tới xông
đất…
Nói
năng, hành sự mỗi mỗi đều giữ gìn, vì ta sợ xui xẻo
quanh năm. Không hẹn mà chúng ta cùng làm giống nhau, cùng dọn
gương mặt tươi roi rói, cực kỳ hoan hỷ để nghênh xuân.
Ít ai dám nói lời xấu, mở miệng toàn là chúc lành, mời
nhau những món ngon, cùng viếng thăm thể hiện mối tương
giao thắm thiết. Ta cùng cho và nhận những cái tốt, không
biết có may mắn suốt năm không?
Nhưng
ít ra ta hưởng trọn niềm vui như Tết, cười nhiều, tươi
tắn nhiều, mọi héo sầu, ủ ê, phiền bực được cất hết,
được nén lại, để… xài trong mấy mùa kia.
Có
người phàn nàn: Tết nhứt bày đặt chúc tới chúc lui, toàn
là nói những lời rỗng gạt nhau, chỉ tổ mất thời giờ,
có ích gì đâu!
Không
biết lời chúc có thành sự thật hay không, nhưng nó là lời
lành chính hiệu, là mong ước hiền thiện người ta dành tặng
nhau, có thể theo tập tục xuân, có thể theo phép xã giao xưa
bày nay làm, song với tôi đó là tấm lòng thành của người
nói, là ngôn ngữ tối thiện đặc biệt chỉ mùa Xuân mới
có.
Tôi
nhớ trong chuyện cổ, ngài Xá Lợi Phất có lần đi trên đường
gặp một phụ nữ sinh khó, ngài đã chúc lành bằng cách hồi
hướng tất cả phước báu do những việc thiện mình từng
gieo đến sản phụ, mong bà sinh dễ, mẹ tròn con vuông. Kết
quả hiện y như lời ngài.
Phật
từng dạy, ai đời đời không vọng ngữ, chúc người điều
gì, sẽ thành sự thật. Đó là uy lực của đức không nói
dối. Vậy thì tôi sẽ chờ… chờ người và tôi cùng tích
góp. Tích góp từng ngày không nói dối, từng đời không nói
dối, cho đến khi đủ để chiêu cảm quả lành… dù từ
mộng mơ đến hiện thực khoảng cách rất xa, có khi như trời
với đất. Khó, nhưng không có nghĩa là không thể.
Đây
là cõi nhân gian, không phải là chỗ “Chư thượng thiện
nhân câu hội nhất xứ”, không phải là chỗ chúng ta họp
lại hưởng phúc, bởi lòng chúng ta còn đầy phiền não, cư
xử còn nhiều bất toàn vì không làm chủ được thân tâm.
Phật và chư Thánh đến cõi nhân gian vì bi nguyện cứu khổ,
độ sinh. Còn ta đến cõi này vì nghiệp dẫn dắt.
Khi may mắn tới, ta toét miệng cười và khóc sưng mắt lúc xui
xẻo bủa giăng. Ta luôn ở thế bị động không bao giờ làm
chủ, vì không làm chủ nên đời sống ta ít hạnh phúc. Mà
hạnh phúc thế gian chỉ là tạm có – nó luôn nằm trong giới
hạn, hễ hưởng quá mức là biến thành khổ ngay. (Món ăn
ngon mà nuốt mãi cũng thành cực hình. Ngủ mãi cũng thành
lừ đừ trì độn v.v…).
Vì
vậy Phật dạy ta thực hành giáo pháp của Ngài để tập
làm chủ, để diệt khổ. Phật luôn nhắc ta có bản tâm sáng
làu làu, trọn lành như Phật, vì nó bị vùi lấp trong vô
minh và rác rưởi tật xấu nên không phát huy diệu dụng.
Muốn lấy được ngọc, thì phải dọn sạch mớ rác rưởi
kia, điều kiện đầu tiên trong giáo pháp Ngài là bắt buộc
ta phải sống thiện, dứt ác. Đây là nền tảng, là căn bản
nhập môn.
Ta
đã nghe đến nhàm nên không lưu tâm, ta thuộc làu như cháo
nhưng không thực hành. Ta quên béng rằng là Phật tử, thì
không được quyền gây tổn thương cho người trong cả lời
nói, ý nghĩ… Có lần tôi suýt á khẩu vì câu hỏi đơn giản:
– Má
con hay đi chùa. Vì sao đi chùa mà vẫn không hết chửi? Càng
đi càng chửi nhiều?
Tôi
làm một màn điều tra, quả tình bà có chửi nhiều thật.
Song không phải tại đi chùa nhiều, mà tại tật tánh ngày
càng tăng theo tuổi tác.
Điều
này không ngoại lệ đâu, nếu ta không để ý, không kiểm
soát mình từng ngày, không tập thắng bớt tật xấu thì bảo
đảm nó càng sinh sôi tăng trưởng đến bất trị, vì càng
cao tuổi, các cơ quan trong ta càng lão suy, các “dây thắng”
đều bị mòn lờn.
Bằng
chứng là thứ mẫu tôi, bản chất bà rất hiền dịu thuần
phác. Lúc tuổi gần 60, bà trúng gió một trận nặng, ba tôi
phải chích lể cấp cứu mới giải nguy kịp thời. Khi tôi
về thăm, ngỡ ngàng nhìn dung nhan bà biến đổi thì ba tôi
nói:
– Bây
giờ đỡ nhiều lắm rồi! Lúc đó bả méo mồm lệch mắt
trông xấu tệ!
Thứ
mẫu than với tôi:
– Lúc
này tao kỳ quá, mỗi lần cười là thắng không được, hôm
qua có chuyện vui, tao cười mãi, bé Xí (đứa cháu mới lên
năm) nói “Bà ngoại cười riết giống khùng quá” nhưng
mà tao ngưng không được.
Tôi
an ủi:
– Không
sao đâu má! Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ mà!
Má không nghe nói cười nhiều lần trong ngày làm giảm trầm
uất, trị táo bón, ngăn ung thư dạ dày, ruột… đó sao.
– Hôm
qua tao đi bác sĩ, ông hỏi tao bớt bịnh chưa? – Tao trả lời:
-Bớt! Nhưng mà còn nói nhiều quá! Ổng cười, đưa tay đầu
hàng. Bây giờ làm sao đây?
Thứ
mẫu tôi rất ít tật song bà vẫn âu lo và nhận ra “cái
thắng không ăn” của tuổi già. Bà hay ở chỗ – phát hiện
được mình “kỳ”. Tôi thì lo rằng chúng ta sẽ không phát
hiện được mình “kỳ”, không nhận ra kịp thời khi mình
thịnh nộ, không thấy rõ mình đang sân nhiều quá, nói lời
tổn thương người nhiều quá… mà những thói tật lúc trẻ
nếu không thắng kịp, già sẽ trầm trọng và trở thành nan
y. Ta làm khổ mình (vì chứa nhiều thói xấu) rồi ta hành
khổ lây đến người chung quanh. Điều bất hạnh nhất của
ta là sống mà lòng đầy thói tật, sống mà không có lòng
từ bi, sống mà không bao giờ thấy được lỗi của mình.
Hồi
nhỏ tuổi, tôi dễ nhịn, dễ hiền. Nhưng khi lớn lên, có
chút quyền với lũ nhóc, tôi bắt đầu khó khăn. Tôi hay bắt
bẻ (viện cớ là khó cho chúng nên) nhưng e rằng một ngày
nào đó chúng sẽ nên, còn tôi thì ngược lại. Khi tôi la,
tôi muốn các em phải cúi đầu nghe, phải nhẫn nhịn giỏi.
Nhưng bản thân tôi thì không nhẫn nhịn giỏi, không chịu
được lời phật ý trái tai. Đúng lý ra, hễ càng làm lớn,
tôi càng phải nhịn giỏi và ít tham, sân, si… hơn. Người
mới tu có thể đèo theo nhiều tánh tật – vì họ mới, sơ cơ, chưa bỏ kịp. Còn người cũ tu – thâm niên – thì bắt
buộc tật phải rơi rụng dần cho đến sạch trơn, có vậy
mới không tủi thẹn khi nhận mình là đồ đệ Phật môn.
Phật
là người đã hoàn thiện, nhân cách toàn mỹ. Chúng ta chưa
thành Phật, song vẫn có thể học theo Ngài. Phật chẳng hề
nóng nảy chửi rủa, chẳng hề nói xấu nói lén ai. Chúng
ta vào chùa mà không thực hiện được những lời dạy căn
bản nhất của Ngài thì thật đáng buồn.
Mỗi
mùa Xuân qua, mong rằng tánh tật trong ta ngày càng ít đi, rác
rưởi trong tâm ta sớm được dọn sạch, để trí tuệ và
lòng từ của giác tâm luôn tỏa sáng, phả hương xuân ngào
ngạt, bất kể thời tiết nào.
Hạnh
Đoan (Theo Giác Ngộ xuân Mậu Tý)
Discussion about this post