“NGỌN LỬA THÍCH QUẢNG ĐỨC”
CÁCH ĐÂY 50 NĂM
Đào Văn Bình
(Nhân Lễ Tưởng Niệm 50 Năm Bồ Tát Thích Quảng Đức Tự Thiêu
23/6/2013 tại Santa Ana, Orange County, California)
Kính
thưa chư tôn đức,
Kính
thưa quý vị quan khách, thưa quý đạo hữu.
Khi
cuộc đấu tranh của Phật Giáo nổ ra vào năm 1963 tôi mới chỉ là cậu sinh viên Đại
Học Luật Khoa chuẩn bị thi lên năm thứ hai. Vì ở ngay Quận Ba, Sài Gòn cho nên
có dịp theo dõi báo chí, đài phát thanh, truyền đơn, tài liệu và chứng kiến nhiều
diễn biến quan trọng của cuộc đấu tranh. Thấm thoắt nửa thế kỷ đã trôi qua. Hôm
nay chúng ta ngồi đây để ôn lại lịch sử và với tư cách của một người con Phật,
chúng ta tưởng kính chư thánh tử đạo là những người đã hy sinh thân mạng mình để
bảo vệ sự trường tồn của đạo pháp. Qua tài liệu, phim ảnh, sách vở còn để lại,
không phải chỉ trong thư viện Việt Nam và cả khắp thế giới, cuộc đấu tranh năm
1963 hoàn toàn là cuộc đấu tranh bất bạo động cho quyền bình đẳng tôn giáo.
Trong thâm tâm chư vị tiền bối cũng như những gì mà quý ngài đã làm – hoàn toàn
không có tính ghét bỏ, kỳ thị, loại trừ hoặc chống phá bất cử tôn giáo nào.
Ngày hôm nay cũng thế, ôn lại lịch sử là để hậu thế biết mà tránh vết xe đổ của
quá khứ. Tôi tin chắc rằng trong thâm tâm bất cứ người con Phật nào và toàn thể
quý vị đang ngồi đây, dù chúng ta đang nhỏ lệ, bủi ngùi, xót xa cho những gì xảy
ra cho Phật Giáo Việt Nam cách đây nửa thế kỷ – lại có ý nghĩ căm thù hoặc ghét
bỏ những người đã gây thảm họa cho Phật Giáo. Hai chữ “ thù ghét” không có trong
kho tàng kinh điển Phật Giáo. Đức Phật ra đời là nhằm khai thị “Phật
Tánh” nơi chúng sinh và giáo hóa chúng sinh đối xử với nhau trong tinh
thần Từ Bi – Hỉ Xả. Phật Giáo ra đời không phải để cổ xúy hay gieo rắc hận thù.
Cái mạng mạch đó, cái sinh mệnh quyết tử của Phật Giáo đó có từ trong trái tim
của Đức Phật rồi được lưu truyền trong huyết quản của chư Tổ rồi thấm vào máu
chúng ta…đã hơn 2500 năm mà không dứt. Tôi có thể chứng minh thêm điều đó bằng
câu chuyện sau đây:
Để minh chứng cho tinh thần cao thượng và từ
bi hỉ xả của Phật Giáo tôi xin ghi ra đây lời nói chân tình của một Phật tử người
Mỹ tên John vừa được Phật tử tên Huyền Lam dịch ra Việt ngữ và đưa lên mạng lưới
toàn cầu, ”Suốt
mấy năm nghiên cứu Phật giáo, đến thiền đường này, không một ai khuyên tôi quy
y làm người Phật tử. Tôi rất ngạc nhiên và ngưỡng mộ cách hành xử của người con
Phật. Tuy nhiên điều làm tôi và cả thế giới ngỡ ngàng khâm phục hơn cả chính là
sự kiện 2 thánh tích Phật giáo bị Taliban phá hủy. Trong niềm tiếc thương vô
biên, người Phật tử toàn thế giới không hề có một lời kêu gọi trả thù hay phỉ
báng tôn giáo của những người gây ra hành động này. Cá nhân tôi bàng hoàng,
rung chấn con tim tận cùng khi nhận ra rằng: Trong sự mất mát không thể bù đắp
này, nhân loại thế giới đang có cơ hội hiếm hoi chiêm nghiệm thành qủa của một
tôn giáo mà lòng từ bi, trí tuệ không phải chỉ trong sách vở. Không phải chỉ thể
hiện qua một người, vài người mà hằng trăm triệu người con Phật. Tôi quyết định
quy y để chính thức làm một người Phật tử nhỏ bé trong mấy trăm triệu người
này.”
Cuộc tự
thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức cho chúng ta thấy Đại Hùng, Đại Lực, Đại
Trí, Đại Từ và Đại Bi của Phật Giáo là có thật. Nó không phải là phép mầu của
thần linh mà là sự tu chứng bản thân.
-Đại hùng
là không sợ chết, ung dung hy sinh mạng sống của mình.
-Đại lực
là vượt qua sự đau đớn của thế xác mà chỉ bậc đại định mới có thể làm được.
-Đại trí
là nhận thấy nếu mình không chịu hy sinh thì đại cuộc không thành. Lúc đó tăng
ni chỉ còn cách trốn qua Cao Miên để sống và Phật Giáo chắc chắn sẽ diệt vong.
-Đại từ,
đại bi là không hề oán hận mà còn chúc lành cho kẻ đang bách hại mình và tôn
giáo của mình. Chỉ có bậc đại giác nói trắng ra chỉ có Phật Giáo mới có thể làm
được chuyện đó.
Nửa thế kỷ đã qua đi. Theo
luật vô thường, những biến cố chính trị lớn lao của Miền Nam rồi cũng dần dần
đi vào quên lãng theo ngôn ngữ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong bài thơ Lửa Từ
Bi:
thành tro, Lụa
tre dần mục nát “.
Thế
nhưng cuộc tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức vẫn còn nằm mãi trong ký ức
của dân tộc. Nó ghi dấu một giai đoạn bi thương của Phật Giáo Việt Nam nhưng
cũng thật hào hùng. Qua đó chúng ta rút ra được hai bài học cho thế hệ mai sau.
Thứ
nhất:
Phật Giáo là máu thịt, là linh hồn của dân tộc. Qua mấy ngàn năm, lịch sử chứng
tỏ Phật Giáo không có tham vọng gì ngoài việc tu chứng bản thân, nguyện cầu cho
‘quốc thái dân an”, mọi người sống trong tinh thần thương yêu đùm bọc lẫn nhau
“chín bỏ làm mười” và gìn gữ di sản của cha ông để lại. Cái linh hồn đó, cái mạch
sống đó đã thấm sâu vào gốc cây đa đầu làng, giếng nước đầu đình, bờ kinh thửa
ruộng, làng quê, phảng phất trong làn khói lam chiều mờ tỏa, quyện vào câu hò
Miền Trung, làn quan họ Bắc Ninh, tiếng Vọng Cổ u buồn của Miền Nam, thể hiện
qua cách ăn, cách ở lễ Tết của người dân, ghi đậm vào văn học sử và vào lịch sử
oai hùng của dân tộc qua các triều đại Đinh-Lê- Lý-Trần. Nói khác đi, Phật Giáo
là bản sắc Việt Nam.
Nếu
bản sắc ấy mất đi thì 4000 ngàn năm văn hiến và 4000 năm lịch sử cũng lần hồi
biến dạng rồi bị chôn vùi theo.
Thứ
hai:
Tôn chỉ của Phật Giáo là Từ Bi, Hỉ Xả. Vậy trong tương lai, nếu phải đấu tranh
cho sự tồn vong của Phật Giáo thì phải đấu tranh trong tinh thần bất bạo
động như các vị tiền bối năm 1963 đã làm. Điều đó có nghĩa là chúng ta
chấp nhận hi sinh nhưng không được xử dụng bạo lực, kỳ thị, kích động hận thù,
đốt phá, giết chóc, lật đổ, đánh bom hay bom tự sát và không được làm tổn hại tới
sinh mệnh, tài sản của đối tượng mà chúng ta đang tranh đấu.
Trong tinh thần đó, giống như lời nguyện
cầu của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, dù “vần
điệu của thi nhân chỉ là rơm rác” nhưng chúng ta cùng:
cho nhân loại hòa bình. Trước
sau bền vững tình huynh đệ này.
Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật
Đào
Văn Bình
MỤC LỤC
Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm
Bồ Tát Thích Quảng Đức Tự Thiêu
Discussion about this post