Thưa
quý
thính giả,
Tuần
qua, trong số thư của quý thính giả gửi về, chúng tôi trích
ra hai câu hỏi và sẽ xin lần lượt trả lời.
Câu
hỏi thứ nhất như sau:
—
Nếu linh hồn người chết đi tái sinh thành kiếp sống
mới, thì tại sao mấy trăm năm trước, loài người chỉ có
mấy trăm triệu, mà nay theo thời gian đã tăng lên tới 5 tỷ,
vậy linh hồn của những người mới này ở đâu mà ra?
Kính
thưa quý vị,
Trong
những kỳ phát thanh trước, chúng tôi đã có trình bày về
quan điểm của nhà Phật trước vấn đề “linh hồn”,
nay chúng tôi xin nhắc sơ lại.
Nhà
Phật quan niệm rằng tất cả mọi hiện hữu đều là do sự
biến hiện của Thức. Theo kinh Lăng Nghiêm, dòng sinh mệnh
khởi đi do một niệm Vô Minh bất giác, nổi lên từ Biển
Tâm mênh mông, bỗng thấy có “cái Ta” và “cái không phải
Ta”, cũng như người đang thức, chớp mắt đã lạc vào giấc
ngủ, mộng thấy đủ thứ hiện ra, bị đánh cũng thấy đau,
khóc cũng có nước mắt, sợ hãi cũng chạy trốn, vân vân
… Nhưng thời gian của giấc ngủ bình thường chỉ lâu có
một đêm, sáng dậy bèn biết ngay rằng chuyện xảy ra trong
đêm là nằm mộng, không thật. Đó là những giấc mộng nhỏ,
nằm trong giấc mộng lớn, là kiếp người
Trong
dòng sinh tử kéo dài triền miên, từ kiếp này qua kiếp khác,
người ta không thể tự tỉnh dậy, như đối với giấc ngủ
một đêm, mà từ cái niệm Vô Minh bất giác đó khởi đi,
trải qua mỗi đời sống, lại do những hành động mà tạo
thành nghiệp thiện, hoặc ác. Theo tâm lý học của nhà Phật,
thì những hành động thiện hoặc ác này đều chứa trong
Tàng Thức (là cái kho lưu giữ lại mọi hoạt động của
Thức), làm nhân cho những kiếp sau, tiếp tục trôi lăn trong
mê vọng của sinh tử luân hồi, mãi đến khi nào thức tỉnh,
trở lại được trạng thái Tâm Thanh Tịnh, thì mới hội
nhập lại với Bản Thể Chân Tâm, mới chấm dứt được
dòng sinh tử, đó là Kiến Tánh thành Phật.
Phật
có nghĩa là người giác ngộ, không phải thần linh. Vì
Vô Minh khởi đi từ vô thủy, hiện hành Thức Tâm sinh diệt,
còn gọi là Vọng Tâm sinh diệt, không phải là Thật, là Chân,
nên nhà Phật không quan niệm rằng có một cái được coi
là Thật, là linh hồn trường tồn bất biến, kéo
dài từ kiếp này qua kiếp khác đến vô tận, mà chỉ coi
dòng đời hiện ra là do sự chi phối của nghiệp nhân thiện,
hoặc ác, trong Tàng Thức, khi Tâm trở lại trạng thái
thanh tịnh, không còn nghiệp nhân làm chủng tử gây nên đời
sau, thì dòng đời sẽ chấm dứt, hóa giải Vọng Tâm, hội
nhập Bản Thể Chân Tâm.
Sự
kiện dòng đời xuất hiện là do một niệm Vô Minh bất giác
nổi lên từ Biển Tâm, cũng có thể tạm ví như một đợt
sóng nổi lên từ biển cả. Trong biển cả mênh mông, nhiều
hay ít đợt sóng nổi lên, tùy theo gíó thổi mạnh hay yếu.
Từ Biển Tâm, nhiều hay ít dòng đời xuất hiện, tùy theo
nhiều hay ít niệm Vô Minh bất giác. Chúng ta có thể tạm
dùng thí dụ cụ thể, cũng như máy thu thanh và làn sóng trong
không gian. Vào thời kỳ đầu của kỹ thuật truyền thanh,
người ta mới chế tạo được máy phát và thu thanh trên một
làn sóng, gọi là radio một đài. Sau này, khoa học kỹ thuật
tiến bộ, máy thu thanh có thể thu cả trăm làn sóng khác nhau,
nên gọi là radio nhiều đài. Như vậy, dù lúc trước chưa
sử dụng được nhiều làn sóng để phóng âm thanh vào, không
có nghĩa là không có làn sóng. Và khi khoa học tiến bộ hơn
nữa, máy móc tinh vi hơn nữa có thể phát, thu hàng ngàn tỷ
làn sóng khác nhau, thì cũng không có nghĩa là những làn sóng
đó mới được sinh ra, mà nó vốn có sẵn trong không gian
mênh mông, cũng như Biển Tâm vốn đã có sẵn những yếu
tố để một niệm Vô Minh có thể khởi lên, bắt đầu một
dòng sinh mệnh, hoặc hàng ngàn tỷ niệm Vô Minh khởi đầu
hàng ngàn tỷ dòng sinh mệnh.
Ngoài
ra, nhà Phật không quan niệm chỉ có một thế giới mà
chúng ta đang ở, mà cho rằng trong khoảng không gian bao la,
có hằng hà sa số thế giới (hằng hà sa số nghĩa là
nhiều như số cát nơi sông Hằng bên Ấn Độ, là một biểu
tượng số lượng lớn đến nỗi không thể tính đếm được).
Có những thế giới mà nhà Phật thường nhắc đến, gọi
là Tam Giới, gồm;
—
Dục Giới, là nơi ở của những cuộc sống nhiều tham
muốn, cụ thể là thế giới của chúng ta;
—
Sắc Giới, là nơi lưu trú của những chúng sinh không
còn tham muốn, nhưng vẫn còn có hình thể, tướng mạo.
—
Vô Sắc Giới, là cảnh giới mà chúng sinh đã hết tham
muốn, không còn hình thể, tạm gọi là thế giới vô hình,
chỉ còn tâm thức.
Như
thế thì sự sinh hay diệt của một kiếp sống có thể giao
thoa trong nhiều thế giới, hữu hình và vô hình, nhưng
chúng ta chỉ biết đến có mỗi thế giới loài ngưòi này,
nên chỉ suy tính quanh quẩn trong thế giới này mà thôi.
Để
quý thính giả thấu triệt vấn đề “linh hồn” theo
quan điểm của nhà Phật, chúng tôi xin kính gửi tới quý
thính giả một bài pháp, lược trích trong cuốn Đức
Phật và Phật Pháp, do hòa thượng Narada Maha Thera
biên soạn theo kinh sách nhà Phật, và do cư sĩ Phạm
Kim Khánh dịch:
Hòa
thượng Narada, sinh năm 1898 tại Tích Lan, xuất gia năm 18 tuổi
và nhập học tại đại học đường Tích Lan. Sau này, hòa
thượng được bổ làm giảng sư về môn Đạo Đức Học
và Triết Học tại đại học này.
Hòa
thượng nổi tiếng về kiến thức sâu rộng, nhất là về
đạo hạnh và lòng từ bi. Ngài là tác giả của nhiều sách
Phật giáo rất có giá trị, thí dụ cuốn “The Manual
of Abhidhamma” là bản chuyển dịch ra Anh văn phần uyên thâm
nhất của giáo lý nhà Phật. Kinh Pháp Cú cũng được ngài
phiên dịch ra Anh văn và chú giải. Còn cuốn “The Buddha and
His Teachings” (Đức Phật và Phật Pháp) là một tác phẩm
xuất sắc của tác giả. Cuốn này có thể được xem là sách
căn bản cho những ai muốn tìm hiểu Phật giáo.
Trong
công cuộc hoằng pháp, hòa thượng được cử đi truyền giáo
tại Trung Quốc và các nước Đông Nam Á như Cam Bốt, Lào,
Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai, vân vân … Tại những nơi này,
ngài thường được tiếp đón rất nồng hậu. Quốc vương
Cam Bốt tôn vinh ngài là Đức Đại Tôn Giả (Sri Maha Sadhu).
Ngoài
ra hòa thượng cũng đi hoằng pháp tại các nước Tây phương.
Năm 1955, ngài sang Úc, và giúp tổ chức các hội Phật Giáo
địa phương tại các bang New South Wales, Victoria, Tasmania và
Queensland. Năm 1956, hòa thượng sang Anh quốc, tổ chức lễ
Tưởng Niệm 2.500 năm ngày Đại Bát Niết Bàn của đức Phật.
Sau đó ngài giúp củng cố Phật sự, và xây dựng ngôi chùa
danh tiếng mang tên Chùa Phật Giáo Luân Đôn (London Buddhist
Vihara). Ngài cũng đã sang Hoa Kỳ thuyết giảng về đề tài
“Đức Phật và Triết lý đạo Phật” tại đài kỷ niệm
Washington, trước một cử tọa rất đông đảo.
Ngài
là một sứ giả Như Lai rất hăng hái và nhiệt tình, thu hút
được nhiều người nghe, và lúc nào cũng khuyến khích thành
lập các hội Phật Giáo địa phương ,để bồi đắp công
trình hoằng dương đạo pháp.
Hòa
thượng Narada có nhiều gắn bó với đất nước và Phật
tử Việt Nam. Ngài đã từng đến Việt Nam vào đầu thập
niên 1930, mang theo nhiều nhánh cây bồ đề, đã trồng xuống
tại nhiều địa danh trong nước, như Phú Lâm (Chợ Lớn),
Cần Thơ, Châu Đốc, Vĩnh Long ở miền Tây Nam bộ, Biên Hòa,
Phước Tuy, Vũng Tàu ở miền Đông Nam bộ, ra đến Đà Lạt,
Huế ở miền Trung và Vinh, Hà Nội ở miền Bắc.
Trong
thập
niên 1950, khi Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam
được thành lập, ngài đến Việt Nam nhiều lần, để thuyết
pháp hằng tuần tại chùa Kỳ Viên, Sài Gòn, thu hút đông
đảo Phật tử đến nghe, và có rất nhiều người đến xin
quy y với ngài. Đặc biệt là vào năm 1963, ngài đã khuyến
khích ủng hộ công tác xây cất bảo tháp Thích Ca Phật Đài
tại Vũng Tàu, ngày nay được xem như là một di tích lịch
sử. Ngoài ra, ngài còn giúp xây dựng một bảo tháp khác ở
Vĩnh Long.
Sau
đây là lời dạy của hòa thượng Narada, một bậc thầy người
ngoại quốc mà Phật tử Việt Nam đã được kết duyên lành,
một sứ giả Như Lai đã lặn lội đến những xứ sở xa
xôi để chiếu rọi Tuệ Đăng tới chúng sinh.
Hòa
thượng Narada dạy rằng:
…”….
Thuyết tái sanh của Phật Giáo không
phải là thuyết chuyển sinh linh hồn, hiểu như có sự di chuyển
của một linh hồn từ thân xác nầy đến cơ thể vật chất
khác.
Trong
sách vua “Milinda
Vấn
Đạo”, Đại Đức Nagasena đã dùng nhiều truyện
ngụ ngôn để giúp ta lãnh hội dễ dàng quy luật tái sanh
của Phật Giáo. Câu truyện mồi lửa rất là rõ ràng. Đời
sống xem như một ngọn lửa, và hiện tượng tái sanh như
sự mồi lửa từ cây đèn này sang cây đèn khác. Ngọn lửa
của đời sống liên tục tiếp diễn, mặc dầu có sự gián
đoạn bộc lộ ra bên ngoài mà ta gọi là cái chết.
Vua
Milinda
hỏi Đại Đức Nagasena:
– Bạch
Đại Đức, phải chăng có sự tái sanh, mà không có cái gì
được chuyển sinh từ xác thân này đến xác thân khác?
Đại
Đức Nagasena trả lời:
– Tâu
đại vương, đúng như vậy, sự tái sanh diễn tiến không
cần có cái gì được chuyển sinh từ thân này đến thể
xác khác?”
Vua
đề nghị:
– Xin
Đại Đức cho một thí dụ.
Đại
Đức Nagasena hỏi:
– Tâu
Đại Vương, thí dụ có người dùng lửa của cây đèn này
để mồi cây đèn kia. Có phải ngọn lửa của cây đèn này
được dời qua cây đèn kia không ?
Vua
đáp:
– Bạch
Đại Đức, không phải vậy.
Đại
Đức Nagasena nói:
– Đúng
thế, tâu Đại Vương, tái sanh diễn tiến không cần có sự
di chuyển của cái gì từ nơi này đến nơi khác.
Vua
lại đề nghị:
– Xin
Đại Đức cho thêm một thí dụ khác.
Đại
Đức Nagasena nói:
– Tâu
Đại Vương, Ngài còn nhớ không, thuở nhỏ đi học, ông thầy
dạy làm thơ đã đọc cho Ngài nghe vài vần thơ, để Ngài
đọc theo đến thuộc lòng.
Vua
trả lời:
– Bạch
Đại Đức, quả có như vậy.
Đại
Đức Nagasena hỏi:
– Vậy
thì, tâu Đại Vương, có phải lời thơ được chuyển từ
ông thầy sang trí nhớ của Đại Vương không?
Vua
đáp:
– Bạch
Đại Đức, không.
Đại
Đức Nagasena nói:
– Thì
cũng như thế, tâu Đại Vương, hiện tượng tái sanh diễn
tiến mà không cần có cái gì chuyển từ chổ này sang qua
nơi khác.
Vua
Milinda hỏi tiếp:
– Bạch
Đại Đức, vậy thì cái gì tiếp nối từ kiếp này sang kiếp
khác?
Đại
Đức Nagasena trả lời:
– Tâu
Đại Vương, chính phần tâm linh và phần vật chất, được
sanh ra trong kiếp sống kế.
Vua
hỏi:
– Có
phải cũng chính tâm linh và thể xác trong kiếp trước được
di chuyển và sanh trở lại trong kiếp sống sau không?
Đại
Đức Nagasena trả lời
– Tâu
Đại Vương, không phải chính tâm linh và thể xác trong kiếp
trước được được sanh trở lại trong kiếp sống sau này.
Tuy nhiên, tâm linh và thể xác ở kiếp trước đã hành động,
gây nhân, tạo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác, thì tùy thuộc
nơi nghiệp ấy, tâm linh và thể xác được sanh ra trong kiếp
nầy.
Vua
hỏi:
– Bạch
Đại Đức, nếu không phải chính tâm và thân của kiếp trước
được sanh trở lại trong kiếp kế, thì ta có thể tránh khỏi
quả báo của những hành động bất thiện do tâm và thân
của kiếp trước gây ra trong kiếp trước không?
Đại
Đức Nagasena trả lời:
– Tâu
Đại Vương, nếu ta còn tái sanh trong một kiếp sống khác,
thì tất nhiên còn phải chịu hậu quả của những hành động
trong những kiếp quá khứ. Chỉ khi nào ta chấm dứt được
sức mạnh của nghiệp lực, thì ta mới chấm dứt được
sự lãnh chịu quả báo, của những hành động thiện, hoặc
ác, trong quá khứ mà thôi.
Dr.
Ananda Coomasvami, trong cuốn “Buddha and the Gospel of Budhism”, cũng
giải thích tiến trình “ tử – sinh “ , bằng thí dụ
về một loạt những quả bi da:
“Thí
dụ như, nếu một quả bi da lăn đến, đụng một quả khác
đang ở yên một chổ, thì quả lăn tới ngưng lại và quả
bị đụng bắt đầu lăn. Không phải là quả banh lăn trước
được dời sang quả banh bị đụng. Nó vẫn còn nằm lại
phía sau, nó chết. Nhưng chính vì sự di chuyển của nó, sức
xung kích của nó, cái kết quả dĩ nhiên, hay cái nghiệp lực
của quả banh trước, xuất hiện trong quả banh kế, chớ không
phải một chuyển động khác mới được tạo ra.”
Cũng
như thế, xác thân đã chết, nhưng nghiệp lực tái sanh
trong một cơ thể khác, mà không cần có cái gì di chuyển
từ kiếp sống nầy sang kiếp khác. Chúng sinh mới được
sanh ra, không hoàn toàn là một, nhưng cũng không tuyệt đối
khác hẳn với chúng sinh vừa mới chết, bởi vì cả hai cùng
nằm trong một luồng nghiệp. Chỉ có sự liên tục của dòng
đời, triền miên thay đổi, tiếp diễn trong thể xác mới,
là hiện hành trong thân khác, mà thôi. …”...
Thưa
quý thính giả,
Trên
đây là bài giảng của hòa thượng Narada Maha Thera. Chúng tôi
ước mong đã gửi được tới quý vị đôi chút khái niệm
về linh hồn qua nhãn quan của nhà Phật.
Sau
đây, chúng tôi xin nói về câu hỏi thứ hai.
Hỏi:
—
Nếu đã có những người chết rồi, khi tái sinh lại
nhớ được chuyện kiếp trước, thì tất cả mọi người
đều phải nhớ chuyện kiếp trước, sao lại người thì nhớ,
người thì chẳng hề nhớ tí nào chuyện kiếp trước cả?
Kính
thưa quý vị,
Do
quan niệm rằng cõi đời này là thế giới tương đối, là
hư vọng, là tương sinh tương duyên, cái này sinh thì cái kia
sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, không phải là tuyệt
đối chân thật, cho nên nếu có người khi tái sinh không nhớ
được kiếp sống cũ, trong khi có người khác lại nhớ được,
thì cũng là chuyện nằm trong quy luật tương đối. Nhà Phật
không thuyết phục mọi người bằng những lối giải thích
mê tín, áp đặt người nghe phải tin. Vì thế, trước những
hiện tượng xảy ra có bằng chứng rõ ràng, người Phật
tử ghi nhận một cách công bình, phóng khoáng.
Tuy
nhiên,
nếu chúng ta dùng những chuyện đã xảy ra để chiêm
nghiệm, so sánh, thì cũng có thể tự tìm được câu trả
lời, tạm coi như hữu lý.
Nhà
Phật cho rằng kể từ lúc một niệm Vô Minh bất giác nổi
lên, bỗng thấy có “cái Ta” và “cái không phải Ta”,
khởi đầu dòng sinh mệnh, trôi lăn trong môi trường tương
đối, thì cũng là khởi đầu giấc mộng dài. Trong giấc mộng
dài đó, có những khúc ngắn hơn, tạm gọi là giấc mộng
trung bình, là thời gian của một đời sống. Trong khoảng
thời gian của giấc mộng trung bình là đời sống đó, lại
có những giấc mộng ngắn hơn nữa, là khoảng thời gian của
những giấc mộng mà chúng ta có hằng đêm.
Không
phải tất cả các giấc ngủ hằng đêm của chúng ta đều
có mộng. Hoặc giả tỉ tất cả các đêm đều có mộng,
thì cũng không phải là mỗi sáng thức dậy, chúng ta đều
nhớ lại tất cả những giấc mộng đã qua. Thực tế là
có người đang ngủ bỗng la lên ú ớ, rồi choàng dậy, mắt
nhìn ngơ ngác, tim đập mạnh, hoảng hốt, sợ hãi, vì những
hình ảnh trong cơn ác mộng vừa qua. Có người lại rất ít
khi mộng thấy có chuyện gì xảy ra, dù mọi người đều
có những giấc ngủ đại khái giống nhau. Có người lại
thường thấy mộng đẹp, trong mộng còn cười lên nữa. Nhưng
khi tỉnh dậy, hỏi họ mộng thấy gì mà vui cười, thì họ
ngơ ngác vì không nhớ gì cả.
Giấc
mộng dài trung bình là cuộc đời thì cũng vậy thôi. Có một
số ít người “thấy” được những chuyện xảy ra trong
kiếp quá khứ của dòng sinh mạng, hiện vẫn còn trong Tàng
Thức ngoài không gian. Nhưng có nhiều người không “thấy”
được gì cả. Cũng như có những người có khả năng phi
thường về lòng thương yêu, hy sinh vì người khác, trong khi
lại có những người ích kỷ vô cùng tột, không hề biết
giúp đỡ tha nhân là cái gì.
Câu
chuyện “Người
đàn
bà đi tìm các con của kiếp trước” được
đài truyền hình BBC và đài ABC, chương trình 20/20 thực hiện,
mà chúng tôi đã gửi tới quý thính giả trong một kỳ trước,
đã nói lên sự “thấy” được quá khứ của người
mẹ đi tìm con. Nếu chúng ta không “thấy” được
quá khứ của chúng ta, thì cũng có thể hiểu được, rằng
chúng ta sống trong thế giới tương đối, không thể có sự
tuyệt đối giống nhau, của tất cả mọi người và mọi
việc.
Ban
Biên Tập/TVHS
Discussion about this post