PHIỀN NÃO VÀ KHỔ ĐAU
GỐC RỄ CỦA GIẢI THOÁT
Thiện Ý
Có bao giờ bạn tự hỏi: Nếu cuôc đời không có phiền não, khổ đau chúng ta
có cần tìm con đường tu giải thoát hay không? Theo quan niệm thông thường thì
ai trong chúng ta cũng tìm kiếm con đường đưa đến hạnh phúc và tránh né lối nào
dẫn đến khổ đau. Nhưng trên thực tế mấy ai trong chúng ta hoàn toàn thành
tựu được vậy! Đa số thường than phiền luôn bị khổ đau vây khốn, còn hạnh
phúc thì hiếm hoi như nắng hạn trông mưa. Mình luôn muốn hạnh phúc được
lâu bền, nhưng đa phần nó bị đứt đoạn vì phiền não luôn xen vào. Như vậy, hạnh
phúc chỉ xuất hiện khi phiền não, khổ đau hoàn toàn vắng mặt. Nói thế để thấy được sự ‘thiếu thực tế’ khi ai cũng trông chờ, hy vọng,
tìm kiếm một hạnh phúc hoàn toàn mà không bao giờ phải hứng chịu khổ đau. Sở dĩ, tôi cho là thiếu thực tế vì dù muốn dù không chúng ta ai cũng đều phải
kinh qua khổ sầu, từ kẻ sang giàu đến người nghèo khó, và rất có thể từ đây cho
đến ngày nhắm mắt! Điều muốn nói ở đây là làm sao chúng ta chuyển hóa chúng để
đạt được mục đích giải thoát của mình.
Hoa và Cỏ trong Đất Tâm
Tôi quan niệm rằng mỗi khi tiếp xúc với phiền não, khổ đau là mình
vừa tìm ra được thêm những đầu mối, gốc rễ giúp mình giải thoát. Nhờ những phát
hiện này, tôi mới có dịp thấy rõ sức mạnh của phiền não và vô minh trong
tôi. Như phương pháp đức Phật đã chỉ dạy trong Tứ Diệu Đế: trước hết,
mình nhận diện khổ đau (khổ đế) và nguyên nhân của nó (tập đế), sau đó, mình
xem căn bệnh này có trị được hay không (diệt đế) và phương cách nào để trị (đạo
đế). Rõ ràng, những phiền muộn, ưu phiền, lo âu, sân hận, ganh ghét, đố kỵ,
thất tình, lục dục, v.v.. là những tâm hành sinh ra những hạt mầm khiến đau khổ
đâm chồi, và cũng chính những hạt mầm này nếu bị hủy diệt thì hạnh phúc, an lạc
sẽ nảy sinh. Hễ chừng nào những hạt mầm xấu được chăm nom, tưới tẩm thì
những khổ đau, phiền não sẽ mọc rể ăn sâu. Gốc càng lớn, rể càng sâu, thì
càng khó mà diệt trừ. Trong kinh
Trung Bộ số 64 – phẩm Đại kinh Man đồng tử, Phật dạy về 5 hạ phần kiết sử
(thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham dục, và sân), là 5 sự buộc ràng khiến
chúng ta không thể thành tựu được các quả vị từ tu-đà-hoàn đến a-la-hán. Chỉ khi nào chúng ta tự mình cởi trói, triệt tiêu 5 món buộc ràng này, thì mới
thực sự được giải thoát. Trong đời sống hàng ngày, vì luôn bị những tâm hành
phiền não quấy nhiễu, thay vì chánh niệm và tỉnh thức để chúng tự hủy chúng ta
lại tưới tẩm, nuôi dưỡng chúng. Thử tưởng tượng xem nếu tâm ta là một mảnh
đất thì hiện những hoa màu nào đang mọc mạnh nhất trong ta? Tất nhiên là những
hoa màu do chúng ta chăm nom, nuôi dưỡng.
Mulla Nasruden quyết định trồng một vườn hoa. Ông ta sửa soạn
khoảng đất và gieo hạt của nhiều loại hoa đẹp mà ông thích lên trên đó. Nhưng khi chúng mọc lên cao, vườn hoa của ông lại mọc đầy những hoa dại lấn lướt
những loại hoa đẹp ông đã chọn. Ông ta đi tìm hỏi những người làm vườn
kinh nghiệm khắp nơi nhờ chỉ cách diệt loại hoa dại này, và đã thử mọi phương
pháp học được, nhưng đều vô ích. Cuối cùng, ông bèn đi đến tận thủ đô để
xin sự hướng dẫn của người làm vườn trong hoàng cung. Tuy nhiên, mọi cách
thức ông ta dạy, như những phương cách khác Mulla đã thử qua, đều thất bại. Họ
ngồi bên nhau trầm ngâm, suy tư một hồi lâu và sau cùng người làm vườn của
hoàng cung nói, “Vậy tôi đề nghị anh hãy học cách yêu thích chúng thì hơn!”
Cũng vậy, từ đây cho đến ngày lìa khỏi thế gian này chúng ta sẽ còn phải đối diện
với phiền não và khổ đau. Nếu lỡ chúng ta đã trồng nhiều hoa dại trong vườn
tâm thì chính chúng ta phải học cách yêu thích chúng như Mulla Nasruden đã làm
hoặc tìm cách triệt tiêu những hạt mầm hoa dại ngay từ bây giờ.
Phiền Não tức Bồ Đề
Có một câu chuyện kể rằng: Một người kia vừa mới chết và được sinh
vào một nơi thật là xinh đẹp, bao quanh với mọi thứ lạc thú không thể nào tưởng
tượng được. Một người bận áo choàng trắng đến đón chào anh ta và nói,
“Ngài có thể có mọi thứ ngài muốn – thức ăn, khoái lạc, mọi thứ giải trí.”
Anh ta thật
là sung sướng, và cả ngày anh ta thử hết tất cả những món mà anh ta đã mơ ước
khi ở trần gian. Nhưng một ngày kia, anh ta đâm chán với tất cả mọi thứ,
và cho gọi người hầu đến, và nói, “Tôi chán hết mọi thứ ở đây rồi, tôi cần một
việc gì đó để làm. Ông có việc gì cho tôi làm hay không?”
Người hầu buồn bả lắc đầu, rồi đáp, “Xin lỗi ngài. Đó là điều duy nhất chúng
tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của ngài. Không có việc làm gì ở đây cho ngài cả!”
Nghe người hầu trả lời xong, anh ta bèn nói, “Thật là hay chưa! Tôi chẳng thà
sinh vào địa ngục.”
Người hầu bèn nhẹ nhàng đáp, “Vậy ngài nghĩ ngài đang ở đâu đây?”
Qua câu chuyện trên, chúng ta nghiệm thấy rằng: khổ đau tức hạnh
phúc hay phiền não tức bồ đề. Nghĩa là, muốn thành tựu bồ đề chúng ta phải thấu
hiểu phiền não vì phiền não, khổ đau vốn là ‘mặt trái’ của tâm bồ đề. Do
vậy, việc đối diện, tiếp cận, hay kinh qua những phiền não là điều không thể
tránh được nếu chúng ta muốn giác ngộ, giải thoát. Thật là một điều không tưởng
khi chúng ta chỉ muốn đạt được giải thoát, giác ngộ mà không phải chịu khổ đau,
phiền não. Thế nhưng, thật là oái oăm thay chúng ta chỉ muốn tu tập làm
sao để đừng bao giờ bị khổ đau quấy rầy, chỉ muốn theo đuổi con đường nào đưa đến
hạnh phúc, giải thoát, và an lạc mà không phải đương đầu với những phiền toái của
thế gian! Chúng ta thường nghe và hiểu về con đường ‘Trung Đạo’ mà đức Phật đã
dạy, nhưng mình thì cứ theo đuổi và trông mong một con đường ‘Độc Đạo’ để tu
‘cho dễ’!
Đi tìm Giải Thoát trong
Phiền Não, Khổ Đau
Nếu quán chiếu sâu xa chúng ta thấy rằng trong hạnh phúc có mầm khổ
đau và, ngược lại, trong khổ đau có mầm hạnh phúc. Điều quan trọng là
thái độ của chúng ta khi đối diện với khổ đau hay hạnh phúc. Như Rita
Barber đã khéo léo diễn tả ý trên qua đoạn văn sau:
“Tôi có thể
xem việc con gái nửa đêm chạy vào phòng là một hành động quấy phá giấc ngủ của
tôi, hoặc xem đó là một hành động kêu cứu xin dỗ dành, nhận thức được rằng đây
là một khoảnh khắc trong cuộc đời của cháu cần sự vỗ về vì cháu bị ác mộng.
Tôi có thể xem việc con gái tôi đào bới những hạt giống mà tôi vừa trồng như là
một hành động phá phách, hư hỏng, hoặc là một hành động tò mò tìm hiểu của trẻ
thơ muốn tìm hiểu xem cái gì hay ai đã khiến cho hạt giống thành cây.
Tôi có thể xem việc con gái tôi từ chối mặc bộ đồ tôi chọn như là một hành động
không vâng lời, hoặc là một ý muốn được tự chọn lựa.
Tôi có thể xem việc dạy con gái tôi như là một sự thách đố khó khăn, hoặc là một
người thày dạy tôi cách sống.
Tôi có thể xem việc kêu khóc um sùm của các con như là một sự chống trái đáng bị
phạt, hoặc là những bước khởi đầu để tôi học biết cách thương lượng và sống
chung hòa bình với người khác.
Nhiều lần tôi cảm thấy bị thử thách để làm một bà mẹ hiền, nhưng hơn tất cả mọi
thứ, tôi cảm thấy mình có phước và trọn vẹn hơn tất cả những thứ có thể mua được
trên thế gian này, và thực sự vinh dự vì vị thiên thần nhỏ này đã chọn tôi làm
mẹ, và đồng thời là học trò và cũng là thầy giáo của cháu.
Tôi có thể xem việc có đứa con này là một món nợ kiếp trước hay là một món quà
vô giá của trời cho. Khi nhìn con, tôi
thấy thượng đế.
Đồng tiền có hai mặt, nhưng dù tôi được mặt nào, tôi đều là người chiến thắng.”
Thái độ sống của Rita Barber cho chúng ta một cái nhìn tươi mát
vào những hiện tượng, hoàn cảnh xảy ra trong cuộc sống hàng ngày và mình đã phản
ứng ra sao đối với chúng. Đơn giản qua cách nhìn và những tình cảm (cảm
thọ) của chính mình, chúng ta đã mở rộng vòng tay đón chào, hoặc hất hủi, ghê sợ
chúng. Như vậy, hiện tượng khổ đau, phiền não không phải hoàn toàn đáng sợ
và kinh hãi. Chúng chứa đựng những cảm giác bất an, bất như ý, bực giận,
khó chịu, v.v.. và v.v.. nhưng chính những yếu tố này lại là những nguồn kích
thích khiến ta vươn lên và tìm lối giải thoát, tự do. Thiếu chúng, chúng
ta như thiếu đi ‘nhân tố hay động lực cần thiết’ để khiến mình phấn đấu,
đứng dậy để làm người.
Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới
đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúc và an lạc như
chính bản thân đức Phật đã kinh qua. Những ngày sống trong nhung lụa, kẻ hầu
người hạ đến những năm tháng khổ hạnh cực cùng, đức Thế tôn đã nhận chân được
giá trị của cả hai thái cực – sung sướng và khổ đau. Từ đó, Ngài không còn thấy
khổ đau hay sung sướng là những trở lực cho công phu tu tập của Ngài. Ngược lại,
Ngài xem chúng chính là nguồn hứng khởi để luôn tinh tấn trong con đường tìm
giác ngộ và giải thoát. Có thể nói, chính sự trải nghiệm qua hai thái cực
này mà đức Thế tôn đã tìm ra con đường Trung đạo. Rõ ràng, chúng là nền tảng,
gốc rễ giúp đức Phật tìm ra chân lý giải thoát. Nói vậy để cùng nhìn nhận rằng
phiền não, khổ đau không hẳn là kẻ thù truyền kiếp của chúng ta; cũng như sung
sướng, hạnh phúc không phải lúc nào cũng là bạn hiền muôn thuở. Vì nếu thiếu một
trong hai, việc tìm kiếm con đường giác ngộ và giải thoát của chúng ta sẽ không
thể nào thực hiện được.
Thiện Ý
San Jose, California
Discussion about this post