
VÀNG
NĂM
Thích Giác Toàn

với các Thiền Sư thời Lý-Trần, sự ứng dụng tâm thức
tu hành với những giáo lý Đức Phật truyền dạy là một.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, Đức Phật khai
thị về không gian: “Mười phương thế giới đồng nhất thể.”
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật mở bày ý niệm về thời gian:
“Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc,
vi lai tâm bất khả đắc.”
Câu
chuyện vua Lý Thái Tông, khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038),
một sáng mùa Xuân tìm vào núi viếng thăm Thiền Sư Thiền
Lão. Với 4 câu thơ, đáp lời hai câu hỏi của nhà vua, Thiền
Sư đã lưu lại cho chúng ta những câu thơ tuyệt bích trong
thi ca Thiền học về không gian và thời gian.
Lúc
lên núi, gặp Thiền Sư vua hỏi: “Hòa Thượng đến tu núi
này được bao lâu rồi?”
Thiền
Sư đáp:
Sống
ngày nay biết ngày nay
Còn
Xuân Thu trước ai hay làm gì!
(Đản
tri kim nhật nguyệt
Thùy
thức cựu Xuân Thu)
Vua
lại hỏi tiếp: “Như vậy hằng ngày Hòa Thượng làm việc
gì?”
Thiền
Sư đáp:
Trúc
biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng
trong mây trắng hiện toàn chân.
(Thúy
trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch
vân minh nguyệt lộ toàn chân)
Thiền
Sư không làm thơ nhiều, nhưng tâm hồn Thiền Sư hiền và
đẹp nên ngôn ngữ Thiền Sư thốt ra cũng nhẹ và đẹp lãng
đãng như áng mây trời. Vì thế, không gian và thời gian đối
với Thiền Sư lại càng như không có gì để phải bận tâm.
Bởi quá khứ là cái đã đi qua; những điều hiện tại trong
khoảnh khắc rồi cũng qua mau, trở thành quá khứ; còn việc
tương lai là điều chưa đến, mà nếu có đến thì nó lại
cũng đi qua và sẽ trở thành quá khứ. Dòng thời gian luôn
qua nhanh như một dòng nước trôi xuôi. Nắm bắt cái đã qua
vừa làm mất công, vừa tự mình làm mệt, làm khổ cho chính
mình. Cho nên, chúng ta thấy các Thiền Sư chẳng những sống
với thực tại mà còn tỉnh thức trước thực tại. Các Pháp
vốn “như thực như thị,” hãy để nó diễn biến đúng theo
quy luật nhân quả của chính nó.
Chúng
ta tin chắc lời đáp của Thiền Sư đã tạo nên sự ngạc
nhiên lý thú cho nhà vua và kết quả đã đưa nhà vua về với
thực tại: – Như vậy, hằng ngày Hòa Thượng làm việc gì?
Thiền Sư không trả lời là hằng ngày mình làm việc gì,
nhưng nhà vua vẫn không buồn mà lại càng thích ý hơn khi
được Thiền Sư đưa nhà vua thể nhập vào sự hài hòa toàn
bích của tâm và cảnh, giữa con người và cảnh sắc thiên
nhiên không hai không khác:
“Trúc
biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng
trong mây trắng hiện toàn chân.”
Chính
cái bên ngoài là pháp trần, là hóa thân làm đẹp cái bên
trong; còn cái bên trong là tâm thức, là pháp thân chủ để
làm rạng rỡ, rực sáng cái bên ngoài. Người thân chứng
là người không còn thấy có khoảng cách giữa tâm và vật,
thức và trần. Cảnh chỉ là một – huyền diệu lung linh.
2)
Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096) nếu so với các Thiền Sư đời
Lý thì tuổi thọ nơi thân xác tứ đại của Thiền Sư có
phần ngắn ngủi hơn. Nhưng pháp thân chân tính của Ngài hiển
hóa trong thi ca thì sống mãi muôn đời. Và một điều kỳ
diệu là mùa Xuân nào đọc lại bài thơ của Thiền Sư vẫn
nghe như mới, như trào dâng một cảm xúc vô biên:
“Xuân
khứ bách hoa lạc
Xuân
đáo bách hoa khai
Sự
trục nhãn tiền quá
Lão
tùng đầu thượng lai
Mạc
vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.”
“Xuân
đi trăm hoa rụng
Xuân
đến trăm hoa cười
Trước
mắt việc đi mãi
Trên
đầu già đến rồi
Chớ
bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm
qua sân trước một cành mai.”
(HT.Thích
Thanh Từ dịch)
Về
mặt cấu tạo vật chất, thân con người là tứ đại (đất,
nước, lửa, gió) cấu thành, cảnh vật hoa cỏ thiên nhiên
cũng là tứ đại thành. Nhưng con người hơn vạn vật ở
chỗ là con người có hình thức sống, có tâm hồn, cho nên
con người đương nhiên là chủ thể của vạn vật. Điều
vi diệu ở đây là chủ thể và khách thể, tức con người
và vạn vật lại hội nhập hòa điệu trong tính đồng nguyên
nhất thể. Con người nhìn tấm gương phản chiếu của dòng
thời gian đến – đi, của hoa cỏ nở- rụng mà có thể cảm
nhận được dòng đời “trước mắt việc đi mãi,” để tự
nhìn lại chính mình “trên đầu già đến rồi” quả vô cùng
tuyệt diệu. Thấy được tính vô thường nơi thời gian, vô
thường của cảnh vật hoa cỏ thiên nhiên rồi cảm nhận
ra được sự vô thường nơi chính xác thân mình đâu phải
là điều dễ làm. Trong cuộc sống trùng trùng điệp điệp
này ai cũng trải qua, ai cũng đến đi, ai cũng trẻ già, ai
cũng sống chết; nhưng giác ngộ được thực tướng của
chính mình trong mỗi lúc, không phải ai cũng có thể cảm nhận
ra.
Khi
đốidiện nhân chứng trước sanh tử vô thường, chẳng những
không sợ hãi mà Thiền Sư còn đưa con người vào cõi an trú
vĩnh hằng, Niết Bàn bất diệt: “Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng
hết, đêm qua sân trước một cành mai.” Giữa cõi đất trời
siêu tuyệt, cành mai của Thiền Sư Mãn Giác chính là sự hội
tụ của tính nhân văn, là nét đẹp không cùng tận của con
người.
Đời
Trần, Thiền Sư Huyền Quang – một thi sĩ tài hoa, là một
trong số ít các vị tác giả có nhiều tác phẩm, hiện nay
còn lưu lại cũng khá nhiều. Bài thơ “Hoa Cúc” là một trong
những bài thơ nổi tiếng của Thiền Sư. Từ ngày Thiền Sư
tịch đến nay gần 700 năm, hễ nói đến Thiền Sư thì người
ta nhớ đến bài thơ “Hoa Cúc.” Bài thơ có sáu đoạn tứ tuyệt,
mỗi người có mỗi tâm trạng hòa nhịp theo ý thức xúc cảm
sâu lắng của Thiền Sư.
Giáo
lý vô thường, khổ não, vô ngã trước cuộc đời và sự
thâm cảm giữa ý thức uyên áo của con người với thiên
nhiên được Thiền Sư lột tả một cách tuyệt mỹ nơi đoạn
3:
“Vương
thân vương thế dĩ đô vương,
Tọa
cửu tiêu nhiên nhất thập lương
Tuế
vãng sơn trung vô lịch nhật,
Cúc
hoa khai xứ, tức trùng dương.”
“Quên
mình, quên hết cuộc tang thương
Ngồi
lặng đìu hiu mát cả giường
Năm
cuối trong rừng không có lịch
Thấy
hoa Cúc nở biết trùng dương.”
(bản
dịch của Phan Võ – lược khảo LSVHVN)
Bốn
loài: Mai, Lan, Cúc, Trúc là biểu tượng của bốn mùa: Xuân,
Hạ, Thu, Đông. Thiền Sư ngồi thiền định trong rừng, cảnh
cũng không người cũng không. Cây cỏ, hoa cảnh, thời gian,
không gian như đứng ngừng im lặng, như “giao hội” cùng trời
đất. Chỉ cần thấy “hoa Cúc nở” là biết “tiết trùng dương
đã đến, tựa như Thiền Sư Viên Chiếu đời Lý cũng đã
từng thổ lộ:
“Trùng
dương Cúc nở dưới rào
Trên
cành Oanh hót thanh tao dịu dàng.”
Nhưng
nét đẹp siêu tuyệt nơi Huyền Quang không dừng lại ở đây,
nó còn vương lên, vượt khỏi ta – người, tâm- cảnh, có
– không v.v… Nói theo tư tưởng Thiền của các Tổ sư là
dứt bỏ “Nhị kiến” không còn thấy có hai, dù không gian,
thời gian nào, dù người hay vật, sắc hay không (đoạn 5):
“Hoa
tại trung đình, nhân tại lâu
Phần
hương độc tọa tự vong ưu.
Chủ
nhân dữ vật hồn vô cạnh
Hoa
hướng quần phương xuất nhất đầu”
“Người
ở trên lầu hoa dưới sân
Vô
ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn
nhiên người với hoa vô biệt
Một
đóa hoa vàng chợt nở tung”
(bản
dịch của Nguyễn Lang)
Khi
nào con người trở về với chính mình thì khi đó cái đẹp
“tính nhân bản” hội tụ. Và cũng chính nơi mình, “tính nhân
bản” tỏa sáng muôn đời.
Tóm
lại, như chúng ta đã biết, cánh hoa vàng (hoàng hoa) của Thiền
Sư Thiền Lão, cành Mai vàng của Thiền Sư Mãn Giác đầu,
giữa đời Lý và đóa Cúc vàng của Thiền Sư Huyền Quang
gần cuối đời Trần… cả 3 đóa hoa vàng cách nhau trên dưới
300 năm. Vậy mà khi đọc lại, ta tưởng chừng như 3 con người,
3 vị Thiền Sư Thiền Lão-Mãn Giác-Huyền Quang và 3 đóa hoa
vàng chỉ là một – như mới đâu đây, mới hôm nào… rồi
chợt giật mình. Ồ! Đây rồi – đóa hoa vàng của chính
lòng ta “tâm thức sống của chính mình,” của mỗi người
chúng ta. Ôi! Những đóa hoa vàng tuyệt bích thiên thu.
Discussion about this post