Tịnh Độ Tông
Trích Phật Học Phổ Thông
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Tôn này thuộc về Đại- thừa, chủ
trương dạy người chuyên tâm niệm Phật đẻ được cảnh vãng sanh về Tịnh độ của
Phật A-DI-Đà. Do đó, tôn này mới có tên là Tịnh độ tôn.
Đây là một trong nhiều pháp môn của
Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng.
Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào,
củng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi, thì tôn này là môt
đại lộ bằng phẵng ,rộng rãi, mát mẽ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp
nguy hiểm chướng ngại giữa đường.
Bởi những lẻ ấy, nên từ xưa đến nay,
đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt
nam chúng ta, ngày xưa củng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của
tôn này. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài này để giới thiệu
” con đường tu thứ hai” trong mười tôn phái của Phật Giáo.
1.- Duyên Khởi Lập Tông
Tịnh độ căn cứ vào những kinh điền
gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tôn đã y- cứ thì rất nhiều. Ơí đây chúng
tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Đó là các
bộ:
1.-Kinh vô lượng thọ: Kinh này được
chép lại 48 lời thề nguyên của đức A-Di-Đà , khi còn là một vị Tỳ kheo tên là
Pháp Tạng. Nội dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: sau khi thành Phật, ngài sẽ
lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng sanh
trong mười phương Thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh
hiệu Ngài và thường cầu được vãn sanh về cõi tịnh độ của Ngài.
2.- Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh này
chép rõ 16 Pháp quán và 9 Phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh
độ.
3.- Kinh tiểu bổn A-Di-Dà:Kinh này
lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham
mộ, phát nguyện tu theo pháp môn ”trì dân niệm Phật cho đến nhất tâm bất
loạn” để được vãng sanh về cõi ấy.
Ba kinh trên này là ba bộ kinh
chính; cổ nhân thường gọi là ” ba kinh Tịnh độ”. Ngoài ra còn có các kinh
khác như:
Kinh Bửu tích chép việc đức Phật vì
vua Tịnh phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn ”trì dân niệm
Phật” để cầu sanh về Thế giới Cực lạc.
Kinh đại bổn A-Di-Dà, Kinh Thập lục
quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa, kinh Phương Đẳng, kinh Hoa
nghiêm.v.v..
Giáo điển về Tịnh độ truyền qua
Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Đông-tấn nhờ Ngài Huệ-viễn đại sư ra công
hoằng hóa, nên tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung
Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Đàm loan, ngài Đạo Xước, ngài
Thiện-đạo.v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và
mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
II. Bốn Cõi Tịnh Độ.
Tịnh độ không phải chỉ có một cõi,
mà rất nhiều cõi. Đứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm
4 cõi Tịnh độ sau đây:
1.- Thường tịch quang Tịnh độ: đây
là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. ”Thường” là không thay đổi, không sanh
diệt, tức là Pháp thân Phật; ”Tịch” là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức
là đức Giải thoát của Phật; ”Quang” là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là
đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật
là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ”Thường tịch quang Tịnh độ”.
Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc
mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác ”thường vắng lặng,
chiếu soi và thanh tịnh”, nên gọi là ”Thường tịnh quang Tịnh độ”. Chư Phật
khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thanh và độ không hai, song vì căn cứ
theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Độ. Chứng đến chỗ này, nếu
đứng về Thân thì gọi là ”Pháp Thân”, còn về độ, thì gọi là ”Thường tịch
quang Tịnh độ”.
Kinh Tinh danh, về lời sớ có chép:
Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ
ở cõi ”Thường tịch quang Tịnh độ”.
2.- Thất-báo trang nghiêm Tịnh độ:
hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời
dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn- thật nên gọi là ”Thật-báo trang
nghiêm Tịnh độ”. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh
Quán-vô-lượng -thọ về lời sớ có chép: ”Tu-tập chơn-thật”, cảm đặng quả báo
tốt đẹp, cho nên gọi là ”Thật báo trang nghiêm”. Bên Đại-thừa Viên giáo thì
cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Đại-thừa
Biệt-giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Đẳng giác Bồ Tát.
3.-Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh
Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Đây là cõi
Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến-hoặc và tư-hoặc
trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới và Vô-sắc-giới ), nhưng còn dư lại hai hoặc
là: vô-minh hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là ”hữu-dư ”. Đã là
”hữu-dư ” tức là chưa phải hoàn toàn cứu-cánh, nên gọi là cõi Tịnh độ này là
” Phương-tiện hữu-dư Tịnh độ ”.
4.- Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Đây
tức là cõi Tịnh độ của Đưc Phật A-di-đà ở Tây-phương. Đã gọi là Tịnh độ, hay
Cực-lạc, tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bón ác thú.
Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung
với chúng sanh mới vãng-sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là
”Phàm thánh đồng cư Tịnh độ ”.
Vì phần đông tín-đồ Phật Giáo
Việt-Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi
Tịnh độ này, tức là cõi Cực-lạc của Phật A-Di-Đà, nên ở đây, chúng tôi xin căn
cứ theo kinh ”Tiểu bổn A-Di-Đà” thuật lại lời Đức-Phật Thích Ca đã tả về cảnh
giới của cõi Tịnh độ này: ”…Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn
mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực-lạc. Vị Giáo-chủ ở Thế-giới ấy là
Phật A-di-đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu-lơn (tường-hoa) bảy lớp
lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Đáy hồ
toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa
sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang
chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn
bằng thất bảo.
Trên không trung hòa lẫn những bản
nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật họa hiện ra, để thuyết pháp luôn
trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió
thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng phát nhiệm mầu.
Cảnh giới Cực-lạc tốt đẹp, trang
nghiêm như thế là do công đức của Phật A-Di-Dà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và
các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành chữ A-Di-Dà người Trung Hoa
dịch là ”Vô lượng thọ”, hay ”Vô lượng quang”, nghĩa là đức Phật này sống
lâu không lường và hào quang chiếu sáng cũng không lường.
(1) Chữ A-Di-Đà, người Trung Hoa
dịch là “vô lượng thọ” hay “vô lượng quang”, nghĩa là Đức
Phật này sống lâu không lường và hào quang chói sáng cũng không lường
III.- Ba Yếu Tố Để Cầu Sanh Tịnh
Độ
Muốn được vãng-sanh, về cõi Tịnh độ
nói trên, hành giã phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba
yếu tố này thường được gọi là ba món tư-luơng (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu
một món ăn nào, hành-giả củng không thể tu hành có kết quả được.
1.-Thế nào là ”Tín”? -Tín là đức
tin vững chắc, không gì lay chuyển được Đức tin rất quan trọng va fcần thiết
cho người tu hành. Kinh Hoa-Nghiêm có dạy: ” Tin là mệ sanh ra các công đức
”. Nhờ đức tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu được.
Tin có ba phần:
a). Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng
hoàn toàn sáng suốt, biết các viẹc sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại
và vị lai, thấy hết thảy hằng sang thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng.
Tin răng fdo lòng từ-bi muốn cứu khổ sanh-tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật
Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo người mà được
chúng sanh vãng-sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Đức-Phật Thích- ca không
hư đối, Đức-Phật A-Di-Đà và cảnh Tịnh độ đều có thật.
b). Tin Pháp: Tin rằng pháp-môn niệm
Phật là pháp-môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ
nguyền của Phật A-Di-Đà có đầy đủ hiệu lực để ccứu độ chúng sanh, và nếu ta
thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng-sanh về cõi Tịnh độ
của Phật A-Di-Đà.
c). Tin mình: Tin rằng mình có đầy
đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp-môn này. Tin rằng nếu mình thực-hành
đúng như lời Phật Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A-Di-Đà, chuyên trì danh hiệu
Phật A-Di-Đà cho đến ” nhất tâm bất loạn” thì khi lâm-chung chắc chắn thế nào
mình củng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.
2.-Thế nào là ”nguyện”? Nguyện là
lời hứa-hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân
chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc
thuyền, àl cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con
người tu hành mau đêá mục đích.
Nguyện quan trọng như thế, nên
hành-giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo
pháp-môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong
cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Đà.
Để có một ý-niệm về chữ ” nguyện
”, chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật
A-Di-Đà, khi còn làm Pháp-tạng Tỳ-Kheo:
-” Sau khi ta thành Phật, chúng
sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười
niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng-sanh, thì ta thề không thành bậc
Chánh-Giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh-pháp
”.
-” Nếu ta đặng thành Phật, chúng
sanh ở mười phương pháp-giới phát tâm Bồ-Đề, tu các công đức, một lòng
phát-nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, gia như ta không cùng với đại chúng
đoanh vây hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc
Chánh-giác ”.
” Nếu ta đặng thành Phật, chúng
sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không
được thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh-Giác ”.
3.-Thế nào là ”Hành”?- Hành là
thực-hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ
là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành)
thì chỉ ước ao, mong muốn ảo-huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín,
Nguyện,Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ củng phải có đủ, mới đủ điều kiện
vãng-sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đúng vững được,
thiếu một chân, tất phải ngã.
IV.-Phương Pháp Tu Về Tịnh Độ
Sau kh đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay
ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng
muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rỏ phương pháp tu hành. Vvẫn biết rằng
pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng
niệm Phật củng có nhiều cách, nhiều loại, mà chúng tôi xin dẫn một ìt phương
phát sau đây:
1.-Trì-danh niệm Phật: -Trong lối
niệm Phật này, hành-giả chỉ chuyên tâm trì-niệm danh hiệu của Phật A-Di-Đà. Mỗi
ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngũ, hành-giả phải chớ niệm luôn, không
cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngũ,
hành-giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả
cần phải xem phương pháp ” Kinh hành niẹm Phật ” (xem nghi thức kinh hành
niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành-giả đều hồi hương cầu sanh Tịnh độ.
2.- Tham-cứu niệm Phật: -Trong lối
tu này, hành-giả phải tham khảo cứu-xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm
” Nam-mô A-Di-Đà Đà Phật ”, hành-giả phải quán-sát câu niệm Phật này, từ đâu
mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai v.v..? Nhờ sự chuyên tâmchú ý
tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng-tưởng dần dần chìm lặng,
nước hiện tâm hiện bày, hành-giả được ” nhất tâm bất loạn ”, đến khi lâm
chung, sẽ được sanh về cảnh-giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp
tham cứu câu ” thoại đầu ” bên Thiền-tôn, nên gọi là ” tham-cứu niệm Phật
”.
3.- Quán-tương niệm Phật: Trong lối
tu này, hành-giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật.
Hành-giả ngồi trước tượng Phật, chú
tâm chiêm ngưỡng, quan sát các tướng tốt mà liên tưởng các đức-tánh của Phật.
Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi
chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi,
hỷ-xã của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành-giả phai dần; nhờ
quán từ-bi của Phật mà tánh Sanh của hành-giả bớt dần …Hễ quán thêm một
đức-tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành-giả được bớt đi. Tánh của
Đức-Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành-giả như vết mực; tia sáng mặt
trời càng sáng nhiêìu va fcàng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh.
Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức
tánh như từ-bi, hỷ-xả, bình-dẳng, lợi tha được huân-tập, thấm nhuần vào tâm
hành giả; lâu ngày, tâm hành-giả sẽ thanh-tịch, lọc sạch những niệm ác độc và
sẽ giống tâm Phật, được vãng-sanh về cõi Phật.
4.-Quán-tưởng niệm Phật:- Trong lối
tu này, hành-giả ngồi yen một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt,
mà hành-giả quán tưởng như có Đức-Phật A-Di-Đà, cao lớn đứng trên hoa sen,
phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành-giả ngồi
ngay thẳng, hai tay chắp lại, củng tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp
dẫn. Hành-giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi củng
không dừng nghĩ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức
là páhp quán đã thuần-thục. Khi lâm chung, hành-giả chắc chắn sẽ được vãng-sanh
về Tịnh độ.
Trong kinh Quán Phật tam-muội chép
rằng: ‘Phật vì Phụ-vương, nói pháp quán-tưởng bạch hào …”. Quán-tưởng
bạch-hào nghĩa là quán-tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân
mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Đây là một
phương pháp quán tưởng niệm Phật.
5.-Thật tướng niệm Phật:- Thật tướng
niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt,
không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là”thật tướng “.
Trong năm pháp niệm Phật trên này,
thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm ( thật
tướng niệm Phật ) là thuộc về lý: không còn, niệm còn tu, không còn năng sở,
cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.
Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ
rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm trên, cho đến
khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ
có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bi thử, không hữu, khong vô. Đến
chỗ này, kinh Di-Đà gọi là”được nhất tâm bất loạn”. Kinh Tứ thập nhi
chương chép; “niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm”.
Trong năm pháp niệm Phật trên đây,
từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môn
dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, củng đều
có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.
V.-Lợi Ích Của Pháp Niệm Phật
Lợi ích của pháp niệm Phật thật vô
lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về
Lý.
1.-Lợi ích về Sự:
a) Niệm Phật sẽ trừ được các phiền
não.
Những người gặp các cảnh khổ, như tử
biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất thường v.v ..sanh các phiền não, nếu
biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khỗ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại
có kết quả tốt đẹp như thế? Vì taam ta củng như dòng nướcluôn luôn tuôn chảy.
Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở thành đục bẩn; nếu chúng
ta pha vào những chát thơm tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ
nhớ nhgĩ đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục.
Khi ta niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên đau khổ. Đémự nhớ Phậtnày thế
cho câí nhơá sự đau khổ; một giờ niệm Phật thì sẽ đổi được một giòpw sầu khổ,
một ngày niệm Phật thìđổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm Phật được
tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ gỉam đi chừng âý. Cho nen cổ nhân
có câu”Một câu niệm Phật giải oan khiên”.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp
vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm Phật nảychi cho một số người sầu khổ
gần như điên cuồng, vì sự nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết
quả rất là tốt đẹp.
b)Niệm Phật sẽ trừ được niệm chung
sanh.
-Chúng sanh hằng ngày nhớ nghĩ đến
những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v ..miệng thốt ra những điều tội ác,
thân làm những việc xấu xa. Đó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng
ta niệm Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc tội lỗi nừava
thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế là niệm Phậtsẽ trừ được niệm chúng
sanh. Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì
niệm chúng sanh dứt sạch.
c.-Niệm Phật sẽ làm cho thân thể
được nhẹ nhàng an ổn.-Bệnh tật của chúng ta, một phần do thể xác, nhưng một
phần củng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận,
nhục nhã v.v.. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn
bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì
những nỗi uất hận đè nặng lên tâm can chúbg ta, sẽ như được trút ra cùng hơi
thở, cùng tiếng niệm, và thâm tâm ta được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu
tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người
bệnh hồi hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sựhồi
hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được,ngủ yên và bệnh mau bình phục.
d.-Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt,
học hành mau nhớ:-Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị
gió, không sáng được.nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống
khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng
vậy.
đ) Niệm Phật, khi lâm chúngẽ được
sanh về Tịnh độ.-Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta
nhiều ích lợi thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thẻ chât lãn
tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau.
Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến
” nhất tâm bất loạn” thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ,được
luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên
để tiếp tụctu hành cho đến quả Phật.
2.-Lợi ích về Lý:
Khi hành giả niệm Phật được
“nhất tâm bất loạn”, thì các vọng tưởng hết, chơn tâm thanh tịnh hiện
ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là “Thường”,chơn tâm thanh tịnh
vắng lặnglà “Tịch”, chơn tâm sáng suốt vô cùng là ”
Quang”.cảnh “Thường-Tịch-Quang Tịnh-độ” chỉ ở nơi chơn tâm ta,
chứ không nơi đâu khác.
Lại nữa, chơn tâm không hoại diệt
là”Phật Vô-lượng-thọ”; chơn tâm chiếu soi vô tận là “Phật
Vô-lượng-quang” và đó củng tưc là “Thanh -tịnh diệu pháp thân của
Phật A-Di-Đà”.
Tóm lại, người niệm Phật đến khi hết
vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật A-Di-Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở
nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép:”Tự tánh
Di-Đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.
Xuyên qua các đoạn trên, chúng ta
thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng. Nếu những người không tin có Phật
A-Di-Đà, có cảnh Tịnh độ mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như
trên.
VI.- Sự Quy Ngưỡng Và Cầu Sanh Tịnh
Độ Của Các Vị Bồ Tát Và Tổ Sư
Chúng ta đừng tưởng rằng Pháp môn
Tịnh độ là một Pháp môn tầm thường, giản dị chỉ dành riêng cho những người căn
trí thấp-thỏi, hẹp hòi tu hành. Thật ra, mặc dù Pháp môn này không đòi hỏi
hành-giả có một sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng, nhưng
vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ
tát và Tố sư đã được thực hành pháp-môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Văn
thù là vị Bồ tát có một trí tuệ tối-thắng, không ai sánh kịp, thế mà Ngài cũng
phát nguyện sanh về nước Cực-lạc của Phật A-Di-Đà như sau:
Nguyện ngã lâm dục mạng chung
thời
Tận trừ nhất thế chư chướng-
ngại
Diện kiến bị Phật
A-Di-Đà
Tức đắc vãng-sanh An-lạc
sát.
(Tôi nguyện đến khi lâm- chung, diệt
trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy được Phật A-Di-Đà, liền được vãng -sanh
về cõi Cực-lạc).
Các vị Bồ tát như Ngài Phổ Hiền,
Quán-Âm, Đại-Thế-Chí cũng đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ.
Các vị Tổ ở các tôn khác, mặc dù
hoằng truyền tôn mình, nhưng cũng vẫn tu về Tịnh độ. Như Ngài Thiên-Thân, tổ
của Duy- thức tôn; Ngài Trí-giả đại- sư, tổ của Thiên -Thai tôn; Ngài Hiền-thủ,
tổ của Hoa -nghiêm tôn; Ngài Nguyên -Chiếu luật sư, tổ của Luật tôn; Ngài
Mã-Minh, Long -Thọ, tổ của Thiền-tônv.v.. .cũng đều thực hành pháp môn Tịnh
độ.
Sau nữa, các vị Đại sư danh tiếng ở
Trung Hoa, như Ngài Đàm Loan, Ngài Đạo Xước, Ngài Thiện đạo, Ngài Thừa Viễn,
Ngài Pháp-Chiếu, Ngài Thiếu-Khương, Ngài Tĩnh-Am v.v..đều dùng pháp-môn này để
tự độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
VII.- Kết Luận.
Chúng ta đã biết qua tôn-chỉ, đặc
điểm phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh- độ tôn. Đến đây chúng ta cần phải
lắng tâm suy xét kỹ lưỡng, xem phương pháp tu về Tịnh độ tôn này, có thiết thực
lợi ích và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan trọng này,
chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta nhận thấy phương pháp tu này rõ
ràng không thích hợp với chúng ta, thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một
phương pháp khác. Nhưng chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi
ích chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và mai sau, thì chúng ta đừng
chần chừ gì nữa, hãy hạ thủ công- phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng
chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món tư-lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh-tấn
thực-hành các phương pháp niệm Phật.
Với thái độ thiết tha chân thành,
một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ ”Nhất
tâm bất loạn”.
Discussion about this post