Thiền sư Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987)
Extrait de l’article “ The Meeting of Buddhist and Western Psychology”-
The Naropa Journal of Contemplative Psychology- Vol IV. Traduction Karuna-France 2005
Nguyễn Thượng Chánh phỏng dịch
Đôi dòng về Thiền sư Chogyam Trungpa Rinpoche
“ Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987) là một trong những đạo
sư Tây Tạng đầu tiên mang Phật Pháp đến phương Tây. Năm 1963 được học bổng để
du học tại Đại Học Oxford. Năm 1967 sau khi tốt nghiệp Ngài thành lập Trung Tâm
Thiền Samaye-Ling tại Scotland với phương pháp thiền áp dụng vào đời sống hàng
ngày. Ngài nhận thấy hình thức cư sĩ thuận tiện hơn trong việc hoằng pháp, sau
đó Ngài hoàn tục. Năm 1974 Ngài thành lập Học Viện Phật Giáo Naropa tại
Boulder, Colorado. Khóa đầu tiên có 2000 sinh viên ghi danh. Học Viện quy tụ những
giáo sư nổi tiếng như: Trungpa (dạy Kim Cang Thừa), Ram Dass (Bhagava Rita),
Jack Kornfield (Phật Giáo Nguyên Thủy), Joseph Goldstein, Mahasi Sayadaw,
Anagarika Munindra (Nguyên Thủy)” (Trích từ
-Công cuộc hoằng pháp tại Hoa Kỳ và những đóng góp của Phật giáo Việt Nam -Trang
mạng Tìm Hiểu Đạo Phật Sốngđờithanhthản).
Theo Wikipedia
Ngài là thiền sư, giảng sư và nghệ sĩ. Sanh năm 1939
tại Tây Tạng và mất năm 1987. Ngài là hóa thân thứ 11 của sư trưởng Trungpa
Tulku.
Thiền sư Chogyam Trungpa Rinpoche, là một nhà sư Tây
Tạng nổi tiếng khắp thế giới. Ngài có những đóng góp đáng kể trong việc truyền
bá Phật Giáo Mật Tông tại các quốc gia Tây phương, nhưng đồng thời với việc hoằng
pháp, tư tưởng và cuộc sống cá nhân của ngài cũng để lại lắm diều tranh luận…
Chögyam Trungpa Rinpoche (Wylie: Chos rgyam Drung pa; February 28, 1939 – April 4, 1987) was a Buddhist meditation master and holder of both the Kagyu and Nyingma lineages, the eleventh Trungpa tülku, a tertön, supreme abbot of the Surmang monasteries, scholar, teacher, poet, artist, and originator of a radical
re-presentation of Shambhala vision.
Recognized both by Tibetan Buddhists
and by other spiritual practitioners and scholars as a preeminent teacher of Tibetan Buddhism, he was a major, albeit controversial, figure in the dissemination of Tibetan Buddhism
to the West, founding Vajradhatu and Naropa University and establishing the Shambhala Trainingmethod.
Among his contributions are the
translation of a large number of Tibetan texts, the introduction of the Vajrayana teachings to the West, and a presentation of the
Buddhadharma largely devoid of ethnic trappings. Regarded as a mahasiddha by many senior lamas, he is seen as
having embodied the crazy wisdom (Tib. yeshe
chölwa) tradition of Tibetan Buddhism. Some of his teaching methods and actions
were the topic of controversy during his lifetime and afterwards.(wikipedia).
Mời xem video: “Minh triết điên dại” phim tài liệu về cuộc đời của thiền
sư Chogyam Trungpa Rinpoche
Video: Crazy Wisdom: The life & Times of Chogyam Trungpa
Rinpoche-Trailer-Shambhala
http://www.youtube.com/watch?v=80jGSadccmY
***
Kinh
nghiệm trực tiếp và lý thuyết
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh
nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất
vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
Theo quan điểm Phật Giáo, việc học tập về lý thuyết
chỉ là một bước đầu tiên mà thôi. Nó cần phải được bổ túc thêm bằng sự huấn luyện
về kinh nghiệm trực tiếp, trong chúng ta và trong cả tha nhân nữa.
Trong truyền thống Phật Giáo, khía cạnh thực nghiệm
được phát triển bằng thiền định và đây là một sự quán trực tiếp vào trí tuệ.
Thiền định trong Phật Giáo không phải là một nghi thức lễ nghi, nhưng nó là phương
pháp giúp chúng ta làm sáng tỏ bản chất chân thật của trí tuệ cũng như kinh
nghiệm của chính bản thân mình.
Thông thường thiền định gồm có ba phần:
- Giới luật (Shila, discipline)
- Định (Samadhi, méditation)
- Bát nhã, tuệ minh, (Prajna, prise de conscience immediate)
Shila:
mục
đích đơn giản hóa cuộc sống nói chung và loại bỏ đi những phiền toái vô ích. Để
phát triển một kỷ luật tinh thần thật sự, điều cần thiết trước tiên là chúng ta
hãy tự quán để biết mình không ngớt thay đổi gánh nặng trong các sinh hoạt và công
việc bên ngoài.
Samadhi:
Định là trọng tâm trong vấn đề tu luyện của Phật Giáo. Phương pháp gồm có tọa
thiền và theo dõi hô hấp, và khi nhận biết lúc mình xao lãng nhịp thở (vì vọng
tưởng) thì phải kéo sự chú ý trở lại liền. Lúc ngồi thiền, thái độ của thiền giả
là phải chú tâm đến tất cả các hiện tượng đang xảy ra như luồng tư tuởng, ý nghĩ,
cảm xúc và tình cảm dấy lên trong khắp thân tâm. Có thể nói rằng, thiền định là
con đường đem tình thân hữu (amitié)
đến cho chính mình. Đây là một kinh nghiệm về bất gây hấn (non agression). Thật vậy, phương pháp thiền định thường được gọi là
“sống hòa bình” (demeurer en paix). Hành
thiền là con đường giúp chúng ta đi sâu vào nền tảng của bản thể,vượt ra ngoài
các lược đồ (schémas) sinh hoạt thông
thường.
Prajna:
là sự nhận thức cấp thời (prise de
conscience immédiate),vô khái niệm (non
conceptuelle) và đồng thời nó dẫn chúng ta vào việc nghiên cứu tri thức (étude intellectuelle). Khi một cá nhân thật
sự thấu hiểu được sự hoạt động của trí tuệ và để làm sáng tỏ thêm họ liền đặt
thành tên kinh nghiệm mà họ vừa trải qua. Sự tò mò đó rất là tự nhiên (spontanée), thế sao lại có người cho rằng
đó là bản chất của trí tuệ (nature de
l’esprit)? Sự nhận thức cấp thời đưa họ vào việc nghiên cứu nhưng đồng thời
cũng rất cần phải duy trì một kỷ luật thường trực trong việc hành thiền để những
khái niệm không bao giờ chỉ thuần nhất là khái niệm mà thôi. Công việc rèn luyện
tâm lý vẫn sống động, tươi mát, và bám rễ chặt chẽ…
Prajna
est une prise de conscience immédiate et non-conceptuelle et en même temps,
elle nous amène à l’étude intellectuelle. Lorsque quelqu’un a vu comment
fonctionne vraiment son propre esprit, il a un désir naturel de clarifier et de
mettre en mots ce dont il a fait l’expérience. Cette curiosité est spontanée :
comment d’autres personnes ont-elles parlé de la nature de l’esprit ? La prise
de conscience immédiate mène vers l’étude mais en même temps, il est nécessaire
de maintenir une discipline permanente
d’entraînement à la
méditation de façon à ce que les concepts ne deviennent jamais uniquement des
concepts. Le travail psychologique reste alors vivant, frais et bien enraciné.
Shila
là giới luật, căn bản của thiền định, Samadhi
là dịnh hay con đường ứng dụng còn Prajna
là quả hay tuệ minh.
Prajna được
khai mở nhờ vào thiền định. Qua kinh nghiệm Prajna, thiền giả giả cảm nhận trực
tiếp và cụ thể cách vận hành thật sự của trí tuệ, cũng như cơ chế và phản xạ
trong từng giây phút một. Prajna theo thông lệ thường hay được gọi là cái nhìn
phân biệt (vision discriminante) .
Đó
không có nghĩa là có sự ưu đãi và chọn lựa. Prajna chỉ nên được xem như sự thấu
hiểu không định kiến (sans aucun préjugé)
thế giới và trí tuệ của chính mình, nhưng Prajna lại có tính phân biệt (discrimine) giữa sự loạn tâm (không trụ một nơi, confusion) và chứng bệnh thần
kinh hay tâm căn (neurosis, névrose).
Shila
est la base de la méditation et samadhi est le chemin de la pratique. Le fruit
en est prajna, ou la prise de conscience. Elle commence à se développer grâce à
la méditation. Dans l’expérience de prajna, la personne perçoit directement et
concrètement comment l’esprit fonctionne réellement, ses mécanismes et ses
réflexes à chaque instant. Prajna est traditionnellement appelée la vision
discriminante, ce qui ne signifie pas que l’on développe des préférences.
Prajna est plutôt la connaissance de son propre monde et de son propre esprit
sans aucun préjugé. Prajna discrimine en ce sens qu’elle distingue la confusion
de la névrose.
Một câu hỏi quan trọng thường được nhắc đến khi các
nhà tâm lý học Tây phương bắt đầu nghiên cứu Phật Giáo: “Có phải bắt buộc để trở
thành Phật tử khi nghiên cứu Phật Giáo?” Lẽ dĩ nhiên câu trả lời là không, nhưng
chúng ta cần hỏi ngược lại họ: “ Vậy các người muốn học những gì?”
Điều
Phật Giáo thật sự cần truyền đạt đến các nhà tâm lý học Tây phương là họ phải
biết làm thế nào để tự liên hệ một cách chặt chẽ vào kinh nghiệm bản thân(relier plus étroitement à sa propre
expérience), vào sự tươi mát (fraicheur),
tính trọn vẹn (l’entièreté) và sự cấp
thời (l’immédiateté)của kinh nghiệm
đó.
Ce que le
bouddhisme a vraiment à apprendre au psychologue occidental, c’est de savoir
comment se relier plus étroitement à sa propre expérience et à la fraîcheur, à
l’entièreté et à l’immédiateté de cette expérience.
Muốn được như thế, họ không cần phải trở nên là Phật tử, nhưng cần phải
kiên trì áp dụng thiền định.
Rất có thể chỉ cần học lý thuyết về tâm lý học Phật Giáo mà thôi, nhưng
như thế thiền giả sẽ hoàn toàn đi bên cạnh yêu cầu của họ.
Nếu chúng ta không dựa vào kinh nghiệm của chính mình, chúng ta chỉ diễn
giải các ý niệm Phật Giáo thông qua các khái niệm (concepts)Tây phương mà
thôi.
Kinh nghiệm về thiền định sẽ làm phong phú cá nhân mình và người khác.
Đây là một sự trợ giúp quan trọng bất luận mục đích
của việc nghiên cứu Phật Giáo là gì.
Về
khía cạnh sức khỏe
Tâm lý học Phật Giáo được đặt trên nền tảng là tất cả
chúng sanh đều có căn bản tốt hết. Đó là những tính tích cực như khai tâm (ouverture), thông minh, và nhân ái (chaleur). Ý niệm trên xuất phát ra từ
kinh nghiệm về lòng tử tế, về giá trị của chính mình và của người khác. Sự hiểu
biết này rất quan trọng. Đây là cảm hứng tiên khởi (inspiration primordiale) trong ứng dụng và trong tâm lý học Phật giáo.
Theo nhản quan Phật giáo, những khổ ải trong cuộc đời
nên được xem như là những điều bất hảo tạm thời, phớt sơ ngoài mặt và chúng che
lấp bản tính căn bản tốt đẹp của con người. Phương diện vừa nêu ra mang tính tích
cực và lạc quan, nhưng một lần nữa chúng ta cần phải nhấn mạnh thêm là nó không
mang thuần túy tính khái niệm (conceptuel).
Nó xuất phát ra từ kinh nghiệm thiền quán và sức khỏe. Có nhiều lược đồ thần
kinh (schémas névrotiques), thường là
tạm thời và xuất phát ra từ quá khứ nhưng chúng ta có thể nhìn thấy và cắt
ngang qua chúng được.
Qua việc áp dụng những điều nghiên cứu, chúng ta sẽ
tạo ra được sức khỏe căn bản của trí tuệ, cho mình và cho cả người khác nữa. Chúng
ta thấy rằng những problèmes của mình
cũng không bám rễ đến độ quá sâu. Đúng là có sự tiến bộ. Chúng ta trở nên có ý
thức hơn, khỏe mạnh hơn và sáng suốt hơn
theo thời gian. Thật là điều vô cùng phấn khởi.
Xu hướng ưu đãi sức khỏe và tâm từ (bonté) xuất phát ra từ kinh nghiệm vô ngã
và ý niệm nầy đã gây không ít khó khăn cho các nhà tâm lý học Tây phương. Vô ngã
không phải là không có gì hết như nhiều người lầm tưởng. Nó không phải là một hình
thức của thuyết đoạn kiến hay hư vô (nihilisme)
nhưng ngược lại chúng ta có thể buông xả (lâcher
prise) ra khỏi các lược đồ thần kinh thông thường. Khi buông xả là chúng ta
làm thật sự. Chúng ta không tạo lại một cái vỏ (coquille) khác liền ngay sau đó đâu. Vô ngã, có nghĩa là mình có đủ
tự tin để không cần phải xây dựng lại cái gì hết nhờ vậy nó đem đến cho ta kinh
nghiệm về sức khỏe và sự tươi mát.
Kinh nghiệm vô ngã (absence d’égo) chỉ có xuyên qua thiền định mà thôi.
Kinh nghiệm nầy sẽ tạo cho mình một sự đồng cảm (empathie) thật sự đối với tha nhân. Ngã
(ego) chen vào trong trường hợp có thể
có sự trao đổi thật sự trực tiếp… Và rõ ràng đây là việc rất thiết yếu trong tiến
trình tri liệu.
Vô ngã giúp tất cả tiến trình làm việc với người khác
trở nên đích thực (authentique), cao
quý (généreux)và tự do.
Theo Phật giáo nếu không có vô ngã (sans absence d’égo), thì không thể nào có lòng từ bi (compassion)
thật sự được.
Le
point de vue de la santé
La
psychologie bouddhiste est fondée sur la notion que les êtres humains sont
fondamentalement bons. Leurs qualités les plus fondamentales sont des qualités
positives : l’ouverture, l’intelligence et la chaleur. Cette idée prend racine
dans l’expérience de la bonté et d’un sentiment de valeur en soi-même et chez
les autres. Cette compréhension est vraiment fondamentale. Elle est
l’inspiration primordiale de la pratique et de la psychologie bouddhistes.
Dans
la vision bouddhiste, les problèmes que nous rencontrons sont considérés comme
des imperfections passagères et superficielles qui recouvrent notre bonté
fondamentale. Ce point de vue est positif et optimiste mais, encore une fois,
nous devons souligner que ce point de vue n’est pas purement conceptuel. Il
prend racine dans l’expérience de la méditation et dans la santé qu’elle fait
émerger. Il y a des schémas névrotiques habituels temporaires qui se
développent à partir du passé mais on peut les voir et couper à travers eux.
Par
la pratique associée à l’étude, on fait l’expérience de la santé fondamentale
de l’esprit, le nôtre et celui des autres. On peut voir que nos problèmes ne
sont pas enracinés si profondément que ça. On remarque qu’on peut vraiment
faire des progrès. On découvre que l’on devient plus conscient, que l’on
développe plus de santé et de clarté au fur et à mesure qu’on avance. C’est
extrêmement encourageant.
Cette
orientation qui privilégie la santé et la bonté provient de l’expérience de
l’absence d’ego, une notion qui pose un certain nombre de difficultés aux
psychologues occidentaux. L’absence d’ego ne signifie pas que rien n’existe,
comme certains l’ont pensé. Il ne s’agit pas d’une forme de nihilisme. Cela
signifie au contraire que vous pouvez lâcher prise de vos schémas névrotiques
habituels et que, quand vous lâchez prise, vous le faites vraiment. Vous ne
recréez pas une autre coquille immédiatement après. L’absence d’ego, c’est
avoir suffisamment confiance pour ne pas reconstruire du tout et c’est faire
l’expérience de la santé et de la fraîcheur qui vont avec le fait de ne pas
reconstruire. On ne peut faire pleinement l’expérience de l’absence d’ego qu’à
travers la pratique de la méditation.
L’expérience
d’absence d’ego développe une véritable empathie à l’égard des autres. L’ego
interfère avec la possibilité d’une communication véritablement directe, hors
cette communication directe est de toute évidence essentielle dans le processus
thérapeutique. L’absence d’ego rend tout le processus de travail avec les
autres authentique, généreux et libre dans sa forme. C’est la raison pour
laquelle, dans la tradition bouddhiste, on dit que, sans absence d’ego, il est
impossible de développer une compassion véritable.
Áp
dụng vào trị liệu
Nhiệm vụ của người thầy là giúp bệnh nhân kết
nối
lại với tâm từ và sức khỏe cơ bản của họ. Những người có tìm
năng bệnh đến khám với một tâm trạng tha hóa (aliénation) và nghèo nàn bên trong. Chúng tôi phải chỉ mảnh đất sức khỏe chính trong
họ và điều nầy còn quan trọng hơn là phải làm một lô xét nghiệm có tính kỹ thuật
hầu giải quyết các vấn đề sức khỏe của họ.
Người ta
có thể nghĩ rằng đây là một sự đòi hỏi quá đáng, nhất là khi chúng ta phải đối
đầu với công việc chửa trị những cá nhân có bệnh sử tồi tệ và khó khăn. Nhưng căn
bản của sức khỏe tâm thần nằm ở trong tầm tay chúng ta và nó có thể được thực
nghiệm dễ dàng và đáng khuyến khích.
Để thực hiện điều trên, khỏi cần phải nói là người
thầy phải bắt đầu bằng việc thí nghiệm trí tuệ của ông ta.
Thông qua thiền định, sự trong sáng và hơi nóng của người
thầy sẽ được phát triển ra và có thể lan rộng qua người bệnh.
Quan điểm Phật giáo đặt tầm quan trọng vào lý vô thường
và vào khía cạnh tạm bợ của vạn vật. Quá khứ là quá khứ, tương lai thì chưa xảy
đến, bởi thế chúng ta làm việc với những gì chúng ta đang có sẵn nơi đây và
trong giây phút hiện tại. Sự kiện nầy giúp chúng ta không phân loại (ne pas catégoriser) và không lý thuyết
hoá (ne pas théoriser). Hoàn cảnh tươi
mát và sinh động (vivante) lúc nào cũng
có mặt trong giây phút hiện tại…
Chúng ta không cần phải quay nhìn về quá khứ để biết
chúng ta và người khác như thế nào. Câu giải đáp tự nó đã sáng tỏ tại đây và
ngay trong giây phút nầy.
La
pratique thérapeutique
La
tâche du thérapeute est d’aider les patients à se reconnecter à leur bonté et à
leur santé fondamentales. Des patients potentiels viennent à nous avec un fort
sentiment d’aliénation et de pauvreté intérieure. Nous devons leur pointer ce
terrain fondamental de santé qui existe en eux et cela est plus important
encore que de leur donner une batterie de techniques pour combattre leurs
problèmes. On pourrait penser que c’est beaucoup demander, surtout lorsque l’on
est confronté au travail avec quelqu’un qui a tout un historique de problèmes et
de difficultés. Mais la santé de l’esprit de base est en fait à portée de main
et peut-être facilement expérimentée et encouragée.
Pour
cela, il va sans dire que le thérapeute doit d’abord commencer par faire
l’expérience de son propre esprit de cette manière. A travers la méditation, la
clarté et la chaleur envers soi-même ont la place de se développer et elles
peuvent ensuite être étendues au patient.
Le
point de vue bouddhiste donne de l’importance à l’impermanence et au côté
transitoire des choses. Le passé est le passé, le futur n’a pas encore eu lieu,
ainsi nous travaillons avec ce qui est ici, la situation présente. Ceci nous
aide à ne pas catégoriser ou théoriser. Une situation fraîche et vivante existe
sans cesse, dans l’instant présent. Avec cette approche qui ne catégorise pas,
on est totalement présent plutôt que d’essayer de prolonger un évènement passé.
Nous n’avons pas à regarder la passé pour voir de quoi nous et les autres
sommes faits. Les choses parlent d’elles-mêmes ici et maintenant.
Phật
giáo và tâm lý học Tây phương
Lúc ở Oxford, một số điểm mạnh của tâm lý học Tây phương
đã làm tôi nễ phục và tôi vẫn còn như thế cho đến ngày hôm nay. Đó là tính nét khai
phóng, mở rộng trước những quan điểm và khám phá mới đồng thời nó cũng duy trì
một thái độ biết tự phê bình đối với chính họ. Tâm lý học Tây phương là một
trong nhiều ngành nghiên cứu tri thức (étude
intellectuelle) dựa nhiều nhất vào kinh nghiệm .
Nhưng đồng thời, nếu xét theo quan điểm tâm lý học
Phật giáo, chắc chắn rằng Tâm lý học Tây phương vẫn còn thiếu sót một cái gì đó
trong lối tiếp cận cũa họ.
Phần tử còn thiếu đó, như chúng tôi đã đề cập trong
suốt phần nhập đề, là tính tối thượng của kinh nghiệm trong giây phút hiện tại
(primauté de l’expérience immédiate)./.
Bouddhisme
et psychologie occidentale
Lorsque
j’étais à Oxford, j’ai été impressionné par certains points forts de la
psychologie occidentale et je le suis toujours. Elle est ouverte à de nouveaux
points de vue et à de nouvelles découvertes et maintient une attitude critique
envers elle-même. Elle est une des disciplines intellectuelles occidentales qui
est le plus basée sur l’expérience. Mais en même temps, du point de vue de la
psychologie bouddhiste, il y a certainement quelque chose qui manque dans son
approche. Cet élément manquant, comme nous l’avons suggéré dans toute cette
introduction, est la primauté de l’expérience immédiate.
Chögyam Trungpa Rinpoche, 1982
(extraits de l’article “The Meeting of
Buddhist and Western Psychology”, édité par Nathan Katz dans The Naropa
Journal of Contemplative Psychology, Volume IV, texte réédité en 2005 par
les éditions Shambhala dans l’ouvrage The Sanity We are Born With (Trí Tuệ Bẫm Sinh)
Traduction Karuna-France, 2005
Tham
khảo
Rencontre de la Psychologie Occidentale et de la Psychologie Bouddhiste-Chogyam
Trungpa Rinpoche-Traduction Karuna France-2005 http://www.formation-karuna.com/index.php?option=com_content&view=article&id=44&Itemid=55 –The
Sanity We Are Born With: A Buddhist Approach to Psychology. Reviewed by Antonio
Wood http://live.shambhala.com/learn-more/chogyam-trungpa/books-by-chogyam-trungpa/reviews/sanity-we-are-born-with/ -Shambhala-Chogyam Trungpa Rinpoche http://www.shambhala.org/teachers/chogyam-trungpa.php
Montreal Feb 21, 2012
Discussion about this post