Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch
sống mong manh, chết là điều chắc chắn” Đó là câu châm
ngôn nổi tiếng trong Phật Giáo. Biết rõ Chết mong manh và
là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương
đầu, chúng ta không nên sợ cái chết. Nhưng tất cả chúng
ta đều sợ chết vì không nghĩ về điều không tránh được.
Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào xác thân và phát
triển quá nhiều tham dục và luyến ái.
Một
đứa trẻ ra đời đem niềm vui và hạnh phúc cho những người
gần gũi và thân thiết. Dù người mẹ đau đớn cùng cực
lúc sanh nhưng vẫn vui mừng và thích thú. Người mẹ cảm
thấy được đền bù xứng đáng sau nhiều khó khăn và đau
đớn. Tuy nhiên, đứa trẻ lọt lòng ra đã khóc hình như nó
muốn nói ra nó cũng phải chịu đau khổ của kiếp làm người.
Đứa trẻ lớn lên thành một thanh niên rồi trưởng thành,
tạo hàng loạt hành vi thiện và bất thiện. Rồi nó trở
nên già nua và cuối cùng từ giã cõi đời này bỏ lại bạn
bè và thân quyến buồn đau: cuộc sống của một con người
là thế đấy. Con người cố gắng tránh thoát nanh vuốt của
tử thần nhưng không một ai có thể thoát khỏi. Đến lúc
chết gần kề, đầu óc liên tưởng đến của cải tích lũy,
và lo sợ quá đáng về những đứa con thân yêu thân cận,
và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, con người
lo lắng quá sức về xác thân của chính mình mặc dù chăm
sóc chu đáo và cẩn trọng nhưng nay đã suy nhược, kiệt quệ
và tan rã. Thật đau đớn khi phải xa lìa xác thân. Không thể
chịu đựng được nhưng không thể tránh nổi. Đó là tâm
trạng của mọi người khi từ giã cõi đời này với than
van và rên rỉ. Sự đau đớn về cái chết thật khủng khiếp,
đó là một thái độ phát xuất bởi vô minh.
Sợ
Chết
Con
người bị lo âu không phải vì ngoại cảnh mà vì niềm tin
và tưởng tượng về đời sống và mọi thứ của mình. Cái
chết, chẳng hạn, tự nó không khủng khiếp: Khiếp sợ và
kinh hãi chỉ do tâm trí chúng ta tưởng tượng mà ra. Với
những kẻ không dám đối đầu với thực tại, khổ đau thật
sự khủng khiếp và không thể chấp nhận được. Nhưng nếu
chúng ta biết đương đầu với sự thật, nó sẽ làm dịu
bớt hay loại trừ cái khủng khiếp của sự sợ hãi. Đời
sống ví như viên đạn lao thẳng tới mục tiêu tức cái chết.
Nhận thức được như vậy, chúng ta phải can đảm trực diện
với hiện tượng tự nhiên này. Muốn được tự do trong đời
sống, chúng ta phải không sợ chết. Hãy nhớ lại khoa học
dạy ta thế nào về tiến trình của cái chết? Nó chỉ là
sự xói mòn sinh lý của cơ thể con người. Chúng ta đừng
sợ hãi và tưởng tượng hay tiên đoán về những sự khủng
khiếp không bao giờ đến cả. Một thầy thuốc nổi tiếng
Sir William Oslet nói như sau: “Trong kinh nghiệm hành nghề lâu
năm của tôi, tôi thấy hầu hết những người chết thực
sự không đau đớn và sợ hãi”
Một
trợ y lão thành cho biết: “Hình như thảm kịch lớn nhất
đối với tôi là mọi người suốt đời bị nỗi sợ chết
ám ảnh. Khi chết đến, ta thấy nó cũng tự nhiên như bản
chất cuộc sống. Chỉ có rất ít người sợ chết khi đã
sống trọn cuộc đời. Trong tất cả kinh nghiệm tôi đã trải
qua, tôi chỉ thấy có một người có vẻ sợ hãi – một phụ
nữ đã làm điều dữ cho người chị nay đã quá trễ để
hối cải”.
“Một
điều lạ lùng và đẹp đẽ sẽ đến dù là nam hay nữ khi
họ đã sống trọn đời. Tất cả mọi sợ hãi, hãi hùng
đều biến mất. Tôi thường ngắm tia sáng bình minh hạnh
phúc trong ánh mắt họ khi họ nhận thức điều đó là sự
thật. Đó là tất cả ân huệ của Tạo Hóa.”
Vì
tham sống nên sự sợ chết được hình thành một cách thiếu
tự nhiên. Nó tạo lo âu mạnh mẽ trong đời sống đến nỗi
làm con người không bao giờ dám mạo hiểm làm điều gì dù
đó là lẽ phải. Người đó sống trong sợ hãi lo lắng về
bệnh tật và các tai nạn có thể xẩy ra cướp mất mạng
sống quý giá của mình. Nhận thức được cái chết là điều
không tránh nổi, kẻ yêu đời trần thế sẽ đắm trong nhiệt
thành cầu nguyện với niềm hy vọng linh hồn sẽ được lên
thiên đàng. Không một ai có thể hạnh phúc giữa cơn lốc
của sợ hãi thấp hèn lo lắng như vậy. Nhưng thật khó có
thể coi thường hay không lưu ý đến những bộc phát tự
nhiên của bản năng để tự bảo vệ. Tuy nhiên có một phương
pháp để vượt qua sự sợ hãi này. Hãy quên đi quan niệm
về cái ‘tôi’; hãy đem tình thương phục vụ nhân loại và
tỏ tình thương với người khác. Say mê phục vụ tha nhân,
chẳng bao lâu bạn sẽ tự mình thoát khỏi cái tự kỷ luyến
ái nặng nề, mơ ước, kiêu căng, và tự tôn.
Bệnh
và Chết
Bệnh
và chết cả hai đều là việc xẩy ra tự nhiên trong đời
sống của chúng ta, và chúng ta phải chấp nhận điều đó
với sự hiểu biết. Theo thuyết tâm lý hiện đại, nguyên
nhân tinh thần căng thẳng quá mức là do không dám đương
đầu và chấp nhận thực tại cuộc đời. Nếu không vượt
qua hay khuất phục được sự căng thẳng đó sẽ gây nên
bệnh trầm trọng. Trong khi bênh hoạn mà quá lo lắng hay thất
vọng chỉ làm cho bệnh tăng lên. Về cái chết, đối với
những người có tâm hồn và hành động trong sạch, chết
chẳng có gì đáng sợ cả. Chúng ta chẳng là gì cả mà chỉ
là sự kết hợp của tâm trí và thể xác, do vậy tâm trí
và thể xác không chết riêng. Nghiệp báo do những hành động
xấu của chúng ta đã gây nên trong đời trước theo chúng
ta vào lúc tái sanh khiến chúng ta phải chịu những khổ đau
trong đời này. Sự kiện như vậy có thể tránh được nếu
chúng ta hết sức nỗ lực tạo công đức bằng cách sống
một cuộc đời đạo hạnh và làm những hành vi đạo đức
bất kỳ ở đâu và vào bất cứ lúc nào. Làm như thế chúng
ta có thể đương đầu với cái chết một cách can đảm và
thực tế phù hợp với Phật pháp. Không có vị ‘cứu tinh’
nào có thể lãnh gánh nặng và cứu vớt chúng ta khỏi hậu
quả các hành vi sai trái của chúng ta. Chúng ta luôn luôn tự
mình nhớ tới lời Đức Phật khuyên: “Hãy tin và nương tựa
vào chính mình, hãy gắng sức và chuyên cần”. Người Phật
Tử không sầu thảm bi thương trước cái chết của một người
thân hay bạn hữu. Không có gì có thể ngăn cản được bánh
xe nhân quả. Khi một người chết, nghiệp do họ tạo nên
sẽ theo họ đến cuộc đời mới. Người còn lại phải chịu
đựng sự mất mát với bình tĩnh và hiểu biết. Chết là
một tiến trình không tránh được trên thế gian này. Đó
là một điều chắc chắn trong vũ trụ này. Khu rừng có thể
trở thành đô thị và đô thị có thể tr? thành bãi cát.
Núi có thể biến thành hồ. Điều không chắc chắn có thể
xẩy ra ở khắp mọi nơi nhưng cái chết là điều không thay
đổi. Tất cả mọi thứ chỉ là tạm bợ. Chúng ta có cha
ông, cha ông của chúng ta cũng có cha ông nhưng bây giờ họ
ở đâu! Họ đều đã qua đời.
Đừng
nghe kẻ ngụy biện cho rằng chúng tôi đang trình bày một
quan niệm yếm thế bi quan. Đó là quan điểm thực tế nhất
trong tất cả chủ nghĩa. Tại sao chúng ta lại không thực
tế mà mù quáng trước sư kiện thực tế đó? Có phải cái
chết không thiêu đốt m?i thức? Nó thiêu mọi thứ. Nhưng
đừng quên điều này: Vai trò của cái chết là làm cho mọi
người ý thức được số phận của mình; dù cho cao sang đến
đâu, dù cho kỹ thuật và y khoa tiến bộ đến mức nào đi
nữa, cái chết vẫn như nhau: hoặc ở trong quan tài hay trở
thành một nắm tro tàn. Vậy ta có nên mặc áo tang để than
khóc đời sống trở thành tro tàn không? Không, đó không phải
là mục đích cuộc đời mà cũng chẳng phải là mục đích
cái chết. Tiến trình của sinh là một tiến trình liên tục
cho đến khi chúng ta trở nên toàn hảo.
Ảnh
Hưởng Vẫn Còn
Đức
Phật nói: “Thân xác con người tuy thành tro bụi, nhưng tên
tuổi và ảnh hưởng vẫn còn”. Ảnh hưởng của tiền kiếp
đôi khi sâu rộng, mạnh hơn ảnh hưởng của xác thân đang
sống với một số khả năng hạn hẹp. Đôi khi chúng ta hành
động theo tư tưởng của những nhân vật mà xác thân đã
thành tro bụi. Những tư tưởng như vậy đóng một vai trò
quan trọng trong những hành động của chúng ta. Mỗi người
sống được cho là hỗn hợp của một phần thân xác tổ
tiên đã khuất. Trong ý nghĩa ấy, chúng ta có thể nói rằng
những anh hùng trong qúa khứ, những đại triết gia, những
hiền nhân, thi nhân và nhạc sĩ của mỗi dân tộc vẫn đang
sống với chúng ta. Vì chúng ta kết nốiä với những liệt
sĩ và những nhà tư tưởng trong quá khứ, chúng ta có thể
chia sẻ những tư tưởng khôn ngoan, những lý tưởng cao thượng
và cả đến âm nhạc bất hủ của nhiều thời đại. Dù
rằng thân xác của họ đã chết, nhưng ảnh hưởng của họ
vẫn còn. Xác thân chẳng là gì cả mà chỉ là sự tổng hợp
trừu tượng sản sinh ra một hỗn hợp thay đổi không ngừng
các thành phần hóa chất. Con người hiểu rằng đời sống
của mình chỉ là một giọt nước trên con sông đang chảy
và nên vui vẻ đóng góp một phần của mình cho dòng sông
cuộc sống.
Người
không biết bản chất của đời sống, sẽ bị chìm đắm
trong bùn lầy của thế gian này. Người đó khóc than, rên
rỉ, và đôi khi cũng mỉm cười để rồi lại khóc than. Nhưng
khi biết được thực chất của mình, người đó sẽ từ
bỏ tất cả những cái tạm bợ và tìm cầu Vĩnh Cửu. Trước
khi đạt được Vĩnh Cửu, người đó phải đương đầu với
hết cái chết này đến cái chết khác. Vì cái chết không
thể chịu đựng nổi, con người có nên cố gắng khắc phục
sự tiếp diễn không ngừng cái vòng sanh tử hay không?
Theo
Phật Giáo, đây không phải là kiếp sống đầu và kiếp sống
cuối cùng của chúng ta trên thế gian này. Nếu bạn làm điều
thiện với lòng tin tưởng, bạn sẽ có đời sống tốt đẹp
hơn ở kiếp sau. Mặt khác nếu bạn cảm thấy bạn không
muốn tái sanh mãi mãi, bạn phải cố gắng phát triển tâm
trí và loại bỏ tất cả tinh thần ô trược.
Triết
Lý Phật Giáo
Các
bậc thánh cao thượng đã đạt được bậc cao nhất của
toàn thiện không khóc than trước sự ra đi của những người
thân gần gũi vì các ngài đã loại bỏ hoàn toàn được cảm
xúc thường tình. Đức Anurudha, đạt quả vị A La Hán, không
khóc khi Đức Phật nhập diệt. Tuy nhiên Đức A Nan lúc đó
chỉ là Tu Đà Hoàn mới đạt quả vị thứ nhất trong các
bậc thánh, đã không kìm giữ được khóc than. Các tỳ kheo
khóc than phải nhớ tới quan niệm của Đức Phật về những
hoàn cảnh có bản chất như vầy:
“Ông
A Nan, có phải Đức Phật đã từng dạy chúng ta rằng những
gì sanh ra, những gì hiện hữu, và những gì duyên hợp đều
đi đến tan rã? Đó là tính chất của duyên hợp. Khi duyên
hợp xuất hiện chúng phải mất đi – Và khi những duyên hợp
đó hết, Tịch Tịnh hiện tiền”. Những lời dạy trên đây
mô tả nền móng mà dựa vào đó cấu trúc của Triết Lý
Phật Giáo được xây dựng.
Nguyên
Nhân Của Khổ Đau
Nguyên
nhân của các buồn phiền và khổ đau là do Luyến Ái (Tanha)
dưới mọi dạng thức. Nếu chúng ta muốn vượt khổ đau,
chúng ta phải bỏ luyến ái – không phải chỉ luyến ái người
mà luyến ái của cải nữa. Đó là sự thật – chân lý là
bài học mà cái Chết cho biết. Luyến ái cung cấp cho chúng
ta nhiều thứ để thỏa mãn cảm xúc, và dẫn ta vào con đường
trần tục. Nhưng cuối cùng luyến ái ấy trở thành nguyên
nhân tất cả đau khổ của chúng ta. Nếu không học bài học
này, cái chết có thể tấn công và khủng bố chúng ta. Sự
việc này đã được Đức Phật soi sáng rõ ràng. Ngài dạy:
“Cái chết sẽ mang con người đi khỏi dù người đó cố bám
lấy con cái và của cải, giống như một trận lụt lớn cuốn
sạch cả ngôi làng đang ngủ”.
Lời
dạy này ngụ ý là nếu ngôi làng đó tỉnh thức và cảnh
giác thì có thể tránh khỏi sự tàn phá của lũ lụt.
Ai
Cũng Phải Chết
Chúng
ta hãy nghiên cứu việc Đức Phật giải quyết vấn đề cho
hai người vì luyến ái mà cái chết làm cho đau khổ. Một
người là Bà Kisagatomi. Đứa con duy nhất của bà ta bị rắn
cắn chết. Bà ta bồng đứa con trai chết đến cầu cứu Đức
Phật. Đức Phật bảo bà hãy đem đến cho Đức Phật một
vài hạt giống cải của một gia đình không có ai chết, Đức
Phật sẽ chữa cho. Nhưng Bà ta không thể tìm thấy một gia
đình nào như thế . Tất cả các gia đình mà Bà đã đến
thì không nhà nào là không khóc than hay đã khóc than về cái
chết của một người thân vào lúc nào đó. Bà đã hiểu
sự thực đắng cay: ai cũng phải chết. Cái chết giáng xuống
tất cả mọi người và không chừa ai cả. Buồn đau là di
sản đối với mọi người.
Một
người khác được Đức Phật dạy là Patacara. Trường hợp
của Bà này bi thảm hơn. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bà
mất hai đứa con, chồng, anh em, cha mẹ và tất cả của cải.
Buồn đau đến mất trí, Bà đã lõa lồ chạy như điên như
dại trên đường phố cho đến khi gặp Đức Phật. Đức
Phật đã giúp Bà trở lại bình thường bằng cách giảng
giải cho Bà nghe cái chết là một hiện tượng tự nhiên của
tất cả mọi người.
“Con
đã đau khổ nhiều lần như thế này, chứ không phải lần
này thôi, Patacara; con đã đau khổ nhiều lần trong những tiền
kiếp của con. Đã lâu, con đau khổ vì cái chết của cha,
mẹ, con cái và những người thân của con. Trong khi đau khổ
như vậy, nước mắt của con thật nhiều hơn nước ở biển
cả”.
Cuối
cùng, Patacara nhận thức được cái bất trắc của đời sống.
Patacara và Kisagotami cả hai hiểu rõ cái khổ và đều cảm
nhận được sự đau khổ về cái chết do kinh nghiệm bi thảm.
Bằng cách hiểu sâu sắc Chân Lý Cao Quý Thứ Nhất của Tứ
Diệu Đế về khổ thì ba Chân Lý Cao Quý còn lại cũng hiểu
được. Ngài nói: “Này các Tỳ Kheo, hiểu được khổ, đây
là khổ, cũng hiểu được nguyên nhân của khổ, đây là diệt
khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt khổ”.
Năm
Uẩn
Trong
Kinh Phật, chết được định nghìa là sự tan rã của Uẩn.
Những uẩn này là năm uẩn: thọ, tưởng hành, thức, và sắc
hay vật chất. Bốn uẩn đầu thuộc về tinh thần hay nama,
họp thành đơn vị của thức. Uẩn thứ năm, rupa là vật
chất hay vật lý uẩn. Sự phối hợp của tâm vật lý đó
theo quy ước được gọi là cá nhân, con người hay cái Tôi.
Cho nên những cá thể hiện hữu như thế không phải là cá
nhân nào mà là hai thành phần cấu tạo cơ bản của tinh thần
và vật chất, thành phần này là những hiện tượng hiếm.
Chúng ta không coi năm uẩn này là những hiện tượng mà là
một thực thể vì lẽ do cái tâm tự lừa dối chúng ta, do
ham muốn bẩm sinh của chúng ta cho những thứ nói trên là
của ta để thỏa mãn cái Ngã quan trọng của chúng ta.
Chúng
ta sẽ thấy được bộ mặt thật của sự vật nếu chúng
ta chịu nhẫn nại và có ý chí. Nếu chúng ta quay vào nội
tâm và quán chiếu bề sâu của tâm khảm, chú tâm và nhận
xét một cách khách quan, không hề liên tưởng đến bản ngã
và rồi thì trau dồi việc thực hành này trong một thời gian
như Đức Phật dạy trong Kinh Sati Patthana, chúng ta sẽ thấy
năm uẩn không phải là một thực thể mà là một loạt các
tiến trình vật chất và tinh thần. Rồi chúng ta sẽ không
nhầm cái bề ngoài với cái thực. Chúng ta sẽ nhìn thấy
năm uẩn này phát sinh và biến đi liên tục nhanh chóng. Chúng
luôn luôn biến đổi từng phút từng giây, không bao giờ tĩnh
mà động, không bao giờ là thực thể mà luôn luôn Biến Hiện.
Tái
Sanh
Bốn
uẩn tinh thần, hay thức và ba nhóm của yếu tố tinh thần
khác tạo thành Nama hay đơn vị của thức, biến chuyển không
ngừng, nổi lên rồi lại biến đi nhưng không cùng một khung
cảnh vì khung cảnh đó cũng biến hóa luôn. Chúng phải lập
lại ngay một nền tảng tự nhiên mới (Sắc), một lớp vật
chất tươi mới như trước để hoạt động điều hòa. Nghiệp
luật về mối quan hệ làm công việc này và ngay lập tức
sự tái sắp xếp các uẩn xẩy ra và chúng ta gọi đó là
tái sanh.
Nhưng
phải hiểu rằng, theo niềm tin Phật Giáo, không có sự đầu
thai của một linh hồn hay một chất nào từ một thân xác
này đến một xác thân kia. Theo triết lý Phật Giáo cái thực
sự xẩy ra là Javana hay tiến trình tư tưởng chủ động của
người sắp chết phóng ra một số lực thay đổi tùy theo
sự thanh tịnh của năm chập tư tưởng trong loạt này (Năm
thay vì bảy chập tư tưởng như thường lệ).
Những
lực này được gọi là Karma Vega hay năng lượng nghiệp tự
nó lôi cuốn vào lớp vật chất tạo ra bởi cha mẹ trong dạ
con người mẹ. Uẩn vật chất trong hợp chất phôi thai phải
có những đặc tính khả dĩ có thể tiếp nhận loại năng
lượng nghiệp đặc biệt này. Sự lôi cuốn theo cách thức
này của những loại uẩn vật chất khác nhau tạo ra bởi
cha mẹ xuất hiện do hoạt động của cái chết và đem lại
sự tái sinh thuận lợi cho người sắp chết . Một tư tưởng
bất thiện sẽ đưa đến một tái sanh không thuận lợi.
Một
Cụm Yếu Tố và Năng Lượng
Tóm
lại, sự phối hợp của năm uẩn gọi là sanh. Sự hiện hữu
của những uẩn đó thành một cụm được gọi là đời sống.
Sự tan rã cũa chúng gọi là chết (tử), và sự tái phối
hợp của những uẩn ấy gọi là tái sanh. Tuy nhiên, một người
bình thường không dễ dàng gì hiểu được tại sao những
cái gọi là uẩn đó lại có thể tái phối hợp. Hiểu rõ
bản chất của các yếu tố, nặng lượng tinh thần và nghiệp
cùng với sự song hành của năng lượng vũ trụ rất quan trọng
trên phương diện này. Một số người cho rằng biến cố
đơn giản và tự nhiên – cái chết là sự tan rã của năm
uẩn, và sau đó chẳng còn gì tồn tại nữa. Có người lại
cho rằng chết có nghĩa là sự chuyển tiếp linh hồn từ một
thân xác này đến một thân xác khác; và với một số khác
nữa, chết là sự kìm giữ vĩnh viễn một linh hồn chờ đợi
ngày xét xử. Với người Phật Tử, chết chẳng là gì cả
mà chỉ là tạm chấm dứt một hiện tượng tạm thời. Chết
chưa phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của cái được
gọi là chúng sanh.
Nguyên
Nhân Cái Chết
Theo
Phật Giáo, chết xẩy ra trong bốn nguyên nhân sau đây:
1.
Mạng căn (hay thọ mạng) ấn định của chúng sanh mỗi loài
đã hết. Cái chết này gọi là mạng triệt (Ayukkhaya)
2.
Năng lượng Nghiệp gây nên sự sanh của người chết đã
kiệt. Cái chết này gọi là Kamma-kkhya (Nghiệp dĩ)
3.
Sự chấm dứt cùng một lúc của hai nguyên nhân trên. (Ubbayakkhaya)
4.
Cuối cùng có thể do những hoàn cảnh bên ngoài như tai nạn,
biến cố bất ngờ, hiện tượng thiên nhiên hay Nghiệp quả
từ kiếp trước không đề cập tại điều 2. Cái chết này
gọi là Upachedake.
Có
một sự tương đồng rất đúng để giải nghĩa bốn trường
hợp chết trên đây . Nó tương tự chiếc đèn dầu. Ánh sáng
đèn dầu có thể tắt vì một trong những nguyên nhân:
1.
Bấc trong ngọn đèn đã cháy hết. Điều này giống như cái
chết vì thời gian cho một kiếp đã hết.
2.
Dầu đã cạn giống như nghiệp lực đã hết
3.
Dầu và bấc đã cháy hết cùng một lúc giống như cái chết
do cả hai nguyên nhân phối hợp đề cập tại 1 và 2.
4.
Hậu quả của những yếu tố bên ngoài như gió thổi làm
đèn tắt – giống như chết do nguyên nhân ngoại cảnh.
Cho
nên, Nghiệp không phải là nguyên nhân duy nhất của cái chết.
Cũng có những nguyên nhân bên ngoài gây ra cái chết. Giáo
lý của Đức Phật minh định rõ ràng Nghiệp không thể giải
thích tất cả những việc xẩy ra.
Đương
Đầu Với Thực Tế
Làm
sao ta có thể đương đầu với các sự việc không thể tránh
được này một cách tốt nhất? Nên tiên liệu và suy nghĩ
là cái chết trước sau cũng phải đến. Điều này không có
nghĩa là người Phật Tử quan niệm cuộc đời là ảm đạm.
Chết là một sự thực và ta phải đương đầu – và Phật
Giáo là một tôn giáo của lý trí huấn luyện các tín đồ
trực diện với các sự kiện, dù các sự kiện này làm ta
không hài lòng. Trưởng Giáo Nanak (vị khai sáng ra Đạo Sikh)
nói: “Thế gian sợ chết, với tôi, chết đem niềm vui”. Thật
rõ ràng những vĩ nhân và những người cao thượng không sợ
chết và sẵn sàng chấp nhận nó. Nhiều vĩ nhân đã hy sinh
mạng sống của mình cho phúc lợi và hạnh phúc của nhân
loại. Tên tuổi của các vị này đã được lưu truyền trên
bảng vàng lịch sử cho hậu thế.
Saul
Alynksy, một người Mỹ đã quá vãng nói: “Điều đơn giản
quan trọng nhất mà tôi đã học được là tôi sắp được
chết. Vì một khi chấp nhận cái chết, đột nhiên bạn sẽ
thấy tự do trong cuộc sống. Bạn không còn phải lo lắng
ngoại trừ cuộc sống của bạn có thể sử dụng một cách
khôn khéo – để thúc đẩy một sự nghiệp mà bạn tin vào”.
Đó là đường lối ra sao mà các nhà tư tưởng lớn nghĩ
như thế nào về quan niệm chết.
Cái
Chết Không Tránh Được
Thật
là một nghịch lý khi chúng ta thấy cái chết đã cướp đi
biết bao sinh mạng của nhân loại nhưng chúng ta ít khi nghĩ
đến cái ý tưởng đó là chúng ta cũng thế, trước sau cũng
trở thành nạn nhân của tử thần. Vì quá luyến ái cuộc
đời, chúng ta không muốn mang trong lòng tư tưởng yếu đuối,
nhưng thực tế cái chết là một sự thực hiển nhiên. Chúng
ta muốn đặt ý nghĩ khiếp sợ đó càng xa càng tốt và tự
lừa dối mình rằng chết là một điều xa vời, một điều
không cần phải lo lắng. Chúng ta phải có đủ can đảm để
đương đầu với sự thật ấy. Chúng ta phải sẵn sàng trực
diện với sự thực này. Chết là điều có thật. Chết là
một sự thực. Nếu chúng ta nhận thức được như vậy, và
biết rằng cái chết không tránh khỏi, chúng ta hãy coi nó
như một sự bình thường chứ không phải là một biến cố
khiếp đảm, để khi nó đến, chúng ta sẽ có thể đương
đấu với nó một cách bình tĩnh, can đảm và tự tin.
Bổn
Phận và Trách Nhiệm
Biết
rằng một ngày nào đó, cái chết sẽ cướp mạng sống của
chúng ta, chúng ta phải bình tĩnh, can đảm và tự tin để
làm tròn nhiệm vụ và trách nhiệm với gia đình. Chúng ta
không nên chần chừ. Những việc gì có thể làm được hôm
nay, đừng để đến ngày mai. Chúng ta không nên phí phạm
thì giờ và nên sống một cách hữu ích. Những bổn phận
đối với vợ, chồng, và con cái phải được thi hành đúng
lúc. Để tránh gây khó khăn và phức tạp cho gia đình do sự
cẩu thả, chúng ta đừng chờ đợi đến lúc cuối cùng mới
viết di chúc. Cái chết có thể đến với chúng ta bất cứ
lúc nào – nó không chờ đợi ai cả. Chúng ta nên trực diện
với cái cùng tột này với can đảm và trầm tĩnh.
Ái
Dục và Vô Minh
Có
thể chế ngự được cái chết không? Câu trả lời là: Có
cái chết tồn tại vì có cái sanh. Có hai khâu liên hệ trong
chu trình cuộc sống, được gọi là – Paticca Samuppada (Lý Nhân
Duyên). Tổng cộng có tất cả là mười hai khâu trong chu trình
này, một số trong đó là Klesas hay bất tịnh.
Một
số nghiệp (kammas) hay hành động đưa đến vipakas hay kết
quả (trong chu trình tái sanh), và cứ tiếp diễn. Sự tiếp
diễn không kể siết của sanh tử được gọi là luân hồi.
Nếu chu trình cuộc sống có thể bị ngưng lại được, nó
chỉ có thể kết liễu ở giai đoạn bất tịnh tức Avijja
(Vô Minh) và Tanha (Ái) – Chúng là gốc rễ của vòng sanh cần
phải được tiêu diệt. Cho nên nếu chúng ta cắt Tham ái và
Vô minh – sẽ chế ngự được sanh, vượt qua được luân hồi,
và sẽ đạt Niết Bàn.
Chúng
ta phải cố gắng hiểu rằng mọi việc trong vũ trụ này đều
mong manh. Cuộc sống chỉ là ảo giác hay ảo tưởng. Khi ta
phân tách mọi thứ bằng khoa học hay triết lý, không ham muốn
vị kỷ, cuối cùng chúng ta không thấy gì cả mà chỉ là
hư không.
Discussion about this post