HỘ
NIỆM: HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
Tác Giả:
Cư Sĩ Diệu Âm
Thông báo (Thay cho lời nói đầu):
XIN ĐỪNG HIỂU LẦM!
Vừa rồi, được tin có người cho
rằng Diệu Âm đã niệm Phật được “NHẤT TÂM
BẤT LOẠN”. Tin này có từ trên báo chí, và cả trên mạng điện toán nào đó. Có
người cho rằng chính Diệu Âm đã viết ra và tự xưng như vậy!…
Hôm nay, thêm một lần nữa, Diệu
Âm xin xác định cụ thể và rõ ràng mấy điều sau đây:
1/ Những bài báo và thông tin nói
về “NHẤT TÂM BẤT LOẠN” và tự xưng
mình đã chứng đắc tới cảnh giới “NHẤT
TÂM BẤT LOẠN” này hoàn toàn không phải của Diệu Âm viết. Một vị nào đó có
trùng bút hiệu, hoặc trùng Pháp Danh, có thể họ đã chứng đắc rồi nên tự khoe ra
đó thôi!…
2/ Để tránh bớt sự lầm lẫn đáng
tiếc trong tương lai, bắt đầu từ hôm nay Diệu Âm này sẽ kèm theo Pháp Danh của
mình một dấu ngoặc (Úc Châu) hoặc (Minh Trị).
3/ Đã nhiều lần trong các cuộc: “Tọa Đàm”, “Khuyên Người Niệm Phật”, “Trả
lời thắc mắc về Hộ Niệm”, v.v… Diệu Âm (Úc châu) này đã thường xuyên xác
định rằng mình vẫn còn là phàm phu tục tử, tội chướng sâu nặng, hoàn toàn chưa
chứng đắc một cảnh giới nào cả.
4/ Diệu Âm (Úc Châu) chỉ biết “Khuyên Người Niệm Phật”, khuyên nhau
một lòng chí thành, chí thiết, khiêm hạ niệm Phật để cầu xin được đới nghiệp
vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Lấy lòng chân thành mà được cảm thông, được Phật
gia trì tiếp độ, chứ không phải tự lực chứng đắc để vãng sanh.
5/ Ngoài pháp niệm Phật, Diệu Âm
còn tích cực khuyến khích đồng tu chú trọng nghiên cứu “Phương Pháp Niệm Phật – Hộ Niệm – Vãng Sanh” để kịp thời trợ duyên tích cực cho nhau,
tránh những cạm bẫy hiểm nghèo trong lúc tu hành, nhắc nhở những điều cần thiết
khi bệnh khổ hiện hành, tránh những lỗi lầm đáng tiếc khi lâm chung, để đường
vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc được thêm vững vàng, an toàn hơn. (Xin xem lại
những băng đĩa tọa đàm hoặc vấn đáp của Diệu Âm (Úc Châu) thì sẽ rõ ràng vậy).
6/ Diệu Âm (Úc Châu) chưa từng
hướng dẫn một phương cách nào khiến người Niệm Phật nghe được ÂM THANH, ngửi
được MÙI HƯƠNG, được TỰ PHÁT ÁNH SÁNG, thường thấy HÀO QUANG, thường thấy PHẬT
HIỆN THÂN, v.v…
7/ Chúng ta là hàng phàm phu hạ
căn, xin cố gắng giúp nhau trong phạm vi nhỏ hẹp, khiêm nhường, thuận theo căn
tánh hạ liệt mà hành trì phương pháp vừa “Hợp
Lý vừa Hợp Cơ” để cầu sanh Tịnh-Độ. Diệu Âm (Úc Châu) này quyết không dám
cho mình là cao thượng mà nói lời sơ suất. Xin chư vị thiện hữu có duyên với
nhau, hãy phổ biến rộng rãi thông báo này để giảm bớt sự hiểu lầm đáng tiếc!…
Diệu Âm (Úc Châu) cung kính đa
tạ.
Viết tại
Brisbane, ngày 5 tháng 11 năm 2010.
(Có bổ túc thêm ngày 5 tháng 2
năm 2012)
LỜI
CỦA BAN ẤN TỐNG
Nam Mô A Di Đà
Phật.
Thật là một nhân
duyên thù thắng. Một lần nữa Ban Ấn Tống chúng tôi lại có cơ hội chung sức cùng
chư vị đồng tu khắp nơi trên thế giới hoằng dương, phổ biến phương pháp “Hộ Niệm”.
Ban Ấn Tống
chúng con:
Thành tâm tri ân
đến thầy Thích Chí Giác Châu, thầy Thích Hạnh Phú đã không quản mọi khó nhọc để
hoàn thành bộ sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ – KHẾ CƠ”. Nay lại tiếp tục hỗ trợ cho
chúng con trong việc in ấn bộ “HỘ NIỆM:
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ”.
Thành tâm tri ân
chư vị đồng tu tham gia viết bài, kiểm bài: Kim Bình, Diệu Thục, Tỷ Bích, Chính
Nguyễn, Hồng Lý, Liên Phương, Thiện Trí, Liên Hương, Minh Thịnh, Đồng Liễu,
Diệu Tịnh, Ngọc Chương… Cùng tất cả chư vị âm thầm phát tâm đóng góp tịnh
tài.
Ban Ấn Tống cũng
xin thành tâm cảm niệm tấm lòng từ bi của Cư sĩ Diệu Âm (Úc Châu) đã đem hết
tâm huyết để hướng dẫn pháp môn Tịnh-Độ một con đường thẳng tắp về tới Tây
Phương Cực Lạc. Đối với chúng tôi, những tọa đàm này chẳng khác gì một cẩm nang
giúp người vãng sanh Cực Lạc…
Cư sĩ Diệu Âm
(Úc Châu) nương theo lời dạy của Tổ Ấn-Quang: “Khi đã biết con đường vãng sanh
rồi không nỡ để cho đồng tu, người thân, ông bà cha mẹ anh em… lần lượt…
lần lượt đi vào tam ác đạo…” Chính vì vậy các tọa đàm về “Hộ Niệm” liên tục ra đời… không tính
toán, không sắp đặt, nhưng hình như ăn khớp với nhau thật tuyệt vời. Gần đây
Phương Pháp Hộ Niệm được phổ cập khắp nơi trong và ngoài nước, đã giúp không
biết bao nhiêu người được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc… Phải chăng đây là
một ân huệ dành cho chúng sanh tội chướng sâu nặng trong thời mạt pháp này như
chúng ta có được cơ hội thoát vòng sanh tử luân hồi…
Chúng tôi là
những thành viên trong Ban Ấn Tống xin thành tâm chia sẻ với tất cả đồng tu hữu
duyên với những bộ sách này lời nói chân thành nhất… Xin hãy lắng nghe, lắng
nghe, lắng nghe… Xin hãy “Y GIÁO PHỤNG HÀNH”. Để chúng ta không bị lạc đường
một cách oan uổng, không thể luống qua cơ hội “Trăm Ngàn Vạn Kiếp Khó Gặp Này”. Quyết định khi hết một báo thân
này sẽ hội ngộ ở Tây Phương Cực Lạc.
Nguyện đem tất
cả công đức hồi hướng về Tây Phương Cực Lạc, hồi hướng cho tất cả chúng sanh
trong pháp giới. Cầu cho thế giới được hòa bình, mọi người được cơm no áo ấm,
có đủ duyên hướng về Phật pháp, nhất hướng chuyên niệm A Di-Đà Phật cầu sanh
Tịnh Độ.
Nam Mô A-Di-Đà
Phật.
BAN ẤN TỐNG
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 1)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Kính
bạch nhị vị Sư Phụ,
Chương
trình nói về hộ niệm hôm nay, chúng con đã dự bị trước, hôm nay là ngày khởi
đầu. Kính xin nhị vị Sư Cô hoan hỷ cho con được thưa chuyện về Pháp Hộ Niệm…
A-Di-Đà Phật!
Trong
chương trình vận động hộ niệm, thì đến ngày hôm nay các ban hộ niệm ở Việt Nam
cũng như ở khắp nơi đã phát triển rất là mạnh và cái nhu cầu phổ biến về phương
pháp hộ niệm cũng rất là cần thiết. Diệu Âm con vì đã lỡ phát động chương trình
hộ niệm, thành ra cũng phải ráng cố gắng để tiếp tục làm cho xong nhiệm vụ. Xin
thưa với Sư Cô cùng chư vị, những lời nói này chẳng qua là đúc kết những kinh
nghiệm đã biết qua rồi thưa lại thôi, chứ không phải là Diệu Âm ngộ ra điều gì
cả.
Trong
phương pháp hộ niệm, vấn đề khai thị rất là quan trọng. Người bệnh được vãng
sanh hay không thành thật mà nói hầu hết là nhờ sự khai thị đúng mức. Nhiều
người hộ niệm mà sơ ý: không cân nhắc những lời nói, những cử chỉ, những
hành động, những ánh mắt nhìn… trong lúc hộ niệm đều có thể gây ra tai hại
rất lớn đối với người bệnh trong những giờ phút ra đi.
Nói
như vậy có nghĩa là hộ niệm không phải chỉ có nói, mà còn cử chỉ, còn hành
động, còn cái tâm nguyện của người hộ niệm nữa. Ví dụ như người biết đường vãng
sanh, có lòng tin vững vàng, đi hộ niệm cho người ta thì cái xác suất người
bệnh được thành công cao hơn những người không có niềm tin vào pháp hộ niệm.
Những
người có lòng chân thành, có lòng từ bi đi hộ niệm thì có xác suất cao hơn
những người đi hộ niệm thử, cao hơn những người còn ái ngại chuyện này, ái ngại
chuyện nọ…
Những
người tha thiết muốn vãng sanh, tức là nói về cái tâm tình, cái tâm hồn của họ
thôi, chứ chưa nói tới những gì ở ngoài, đi hộ niệm họ tạo ảnh hưởng rất tốt
với người bệnh. Những người biết đạo, người ta coi cái mạng sống èo uột tại thế
gian này không đến nỗi phải chết sống với nó, tức là họ mong cầu tới ngày được
vãng sanh để thoát vòng sanh tử, để được an vui cực lạc, thì họ đem cái tâm
trạng đó đi hộ niệm cho người khác, xin thưa với chư vị, nhiều khi những người
đó không nói một lời nào trước bệnh nhân, ấy thế mà người bệnh cũng dễ có phước
phần vãng sanh.
Cho
nên, khi nói về khai thị trong những ca hộ niệm không phải là chúng ta đem
những pháp Phật cao siêu ra nói cho người bệnh. Hoàn toàn không phải. Có nhiều
người sơ ý, khi đi hộ niệm thường đem hết lý đạo này đến lý đạo khác ra giảng
giải!… Làm như vậy không tốt!
Mà
thật sự, khai thị trong phương pháp hộ niệm, nói cho đúng nghĩa ra, là mở những
cái gút mắt, giải được những điều khó khăn còn kẹt trong tâm của người bệnh ra,
rồi chỉ cho con đường… con đường vãng sanh để họ đi… Đi thoát nạn!
Như
vậy, thì một người đang sợ chết, mình biết tâm trạng của người này là người sợ chết,
thì điều quan trọng là giảng giải làm sao để người bệnh này không còn sợ chết
nữa mới được. Ngài Thiện-Đạo Đại Sư rất chú trọng về điểm này. Một người mà tham
sống sợ chết, thì dẫu cho một ngàn người tới hộ niệm cho họ, họ cũng phải chết.
Nghĩa là sao?… Nghĩa là khi xả bỏ báo thân, họ để lại một cái thân tướng rất
là xấu, một sắc tướng rất là kinh hoàng! Đây là một tiên triệu cho biết rằng tương
lai những đời kiếp sau họ bị nạn nặng lắm! Họ bị khổ đau nặng lắm!
Còn những
người không sợ chết, họ nhẹ nhàng coi cái chết như một cơ hội để giải thoát, họ
biết đường giải thoát, nên đối với chuyện sống chết họ coi như pha. Những người
mà đối với chuyện sống chết họ coi thường, thì khi mình tới nói:
– Bác
ơi! Đi về Tây Phương sướng lắm. Bác niệm Phật với con nhé.
– Vậy
hả chú? Được không chú?…
–
Được!
Họ
liền vỗ tay rôm rốp, họ liền niệm Phật leo lẻo, họ ra đi an nhiên tự tại. Lạ
lắm chư vị ơi!…
Có người
tu suốt cả cuộc đời mà không rõ đạo lý này, không rành pháp trợ duyên khi lâm
chung, đến lúc nằm xuống thường bị những người thân đến ôm nắm!… Níu kéo!… Than
thở!… Khóc lóc!… Thì họ ra đi để lại một thân tướng vô cùng xấu! Còn những
người dù không được tu nhiều, họ chỉ ăn ở hiền lành thôi, nhưng nhờ có cơ
duyên, trong những giờ phút cuối cùng lại gặp được ban hộ niệm tới khai giải, chỉ
điểm:
– Bác
ơi! Chuyện sống chết là lẽ thường. Chết là cái thân này mình liệng đi, nhưng chính
Bác không chết đâu nhé. Bác vẫn còn sống mãi nhé. Bác hãy nên niệm Phật đi về
Tây Phương. Đức A-Di-Đà Phật đã phát đại thệ rõ ràng, Bác niệm câu A-Di-Đà
Phật, niệm mười niệm cũng được đi về Tây Phương. Nếu bác tin tưởng, hãy phát
nguyện liền đi… “Nam Mô A-Di-Đà Phật, xin Phật cho con được vãng sanh về Tây
Phương”… Phát nguyện liền đi Bác…
– Được
không chú?…
– Được!
Bảo đảm Bác sẽ được…
Bà
cụ đó trước những giờ phút sắp sửa xả bỏ báo thân, người đời gọi là chết đó, mà
làm được chuyện này. Nghĩa là, mạnh mẽ niệm câu A-Di-Đà Phật cầu vãng sanh. Quý
vị có thể thấy được một hiện tướng lành xảy ra bất khả tư nghì! Vi diệu không
tưởng tượng được! Có nghĩa là sao?… Bà cụ đó không chết. Bà chỉ liệng cái
thân lại rồi đi về Tây Phương, thoại tướng vô cùng tốt đẹp, tốt đẹp không tưởng
tượng được!…
Hôm
trước Diệu Âm đi về Việt Nam, hộ niệm cho người Cô. Khi mà người Cô ra đi với
một thoại tướng tốt, đẹp vô cùng. Mười hai tiếng đồng hồ sau mới cho đụng tới,
thân thể Cô mềm mại tươi hồng làm cho một vị bác sĩ hồi giờ không tin, bây giờ
đành phải ngỡ ngàng luôn!… Những ngày sau đó, khi Diệu Âm trở lại Bình Dương,
vị bác sĩ đó ngồi nghe từng chút, từng chút, nghe từ đầu tới cuối. Ở đó cũng có
một vị Thầy, vị Thầy đó kể lại rằng, khi sư phụ của Thầy ra đi, rất đáng tiếc là
không được hộ niệm!… Hộ niệm quan trọng vô cùng.
Điều
quan trọng của người hộ niệm là làm sao khai giải cho được cái tâm ý của người
ra đi đừng để họ sợ chết. Nói cho họ biết rằng ta không chết. Chỉ vì dại khờ ta
mới theo cái thân đó mà hứng chịu nạn tai trong nhiều đời nhiều kiếp. Chứ nếu
ta khôn khéo một chút, đối với sự sống chết của nhục thân ta coi thường thì tự
nhiên ta được quyền giải thoát rõ rệt…
Liên
quan tới chuyện hộ niệm, Diệu Âm xin kể một câu chuyện vui vui cho chư vị nghe,
câu chuyện có thật. Chị Nhung ở tại niệm Phật đường này, chị mới vừa đi
Melbourne rồi… Chắc chị cũng trở lại đây. Chị nói rằng, ông già của chị bị
bệnh ung thư mà ông cụ đã sáng suốt minh mẫn cho đến giờ phút cuối cùng. Ông
dặn dò với con cái rằng:
– Ngày
nay chắc cha đi rồi con ơi! Thôi, hãy lo chuẩn bị tất cả đi.
Dặn từng
chút từng chút. Rồi trước khi ông ra đi, ông nói:
– Bây
giờ chắc là Cha phải đi rồi con ạ. Cảm thấy đau vậy là Cha biết, chắc cha phải
đi rồi đó.
Ông
tỉnh táo như vậy đó, rồi ông buông tay ra đi… Ông là người bị ung thư.
Chị
Nhung cảm thấy tiếc quá! Tiếc vì trong lúc ông cụ ra đi quá tỉnh táo như vậy mà
không ai biết hộ niệm. Không biết hộ niệm hướng dẫn đường vãng sanh, thì ra đi
dù được an lành như thế nào đi nữa, ông cụ cũng không được phước phần vãng sanh
Tịnh-Độ! Nói vậy nghĩa là tương lai ông cụ có thể hưởng một cái phước báo
Nhân-Thiên nào đó là cùng…
Chị
nói: “Bây giờ tôi cầu mong sao cho tôi được ung thư. Chỉ cầu mong sao tôi
được ung thư. Tôi sợ nhất là đột quỵ! Tôi sợ nhất là già, yếu lần, yếu lần rồi
chết! Chết trong lúc mê man bất tỉnh, tôi không được tỉnh táo để vãng sanh. Còn
những người ung thư thường thường ra đi trong tỉnh táo, biết được ngày giờ ra
đi đã tới rồi. Ung thư chắc chắn là chờ chết”… Chị nói: “Bây giờ tôi
thèm sao tôi được ung thư”…
Tôi
đem câu chuyện này đến Melbourne kể lại. Tôi nói xong thì có một bà, bà đó chắc
cỡ sáu mươi mấy tuổi, khi nghe tọa đàm xong, bà ta đến cầm tay tôi nói…
–
Anh Diệu Âm ơi! Tôi mừng quá rồi…
–
Chuyện gì vậy Bác?
–
Tôi bị ung thư!… Tôi bị ung thư rồi!…
Bà
bị ung thư mà mấy năm nay bà không dám nói với ai hết. Khi tôi nói chuyện ung
thư ra làm cho bà mừng quá!… Bà mừng quá mà nói: “Tôi được ung thư rồi!”.
Bà không nói ở giữa lúc đang tọa đàm. Bà nói sau khi tọa đàm xong…
– Anh
Diệu Âm ơi, tôi bị ung thư…
Nghe
vậy tôi nói…
– Xin
chúc mừng cho Bác. Bác ung thư thì chắc chắn phải chết. Nhưng bây giờ Bác đã
ngộ đạo rồi, Bác không còn chết nữa đâu!…
Rồi
tôi nói với mọi người:
–
Chư vị hãy cố gắng hộ niệm cho bà Cụ này nghe…
Bà
nói…
– Tôi
sẽ kết hợp với đạo tràng, với nhóm hộ niệm để hộ niệm cho tôi. Nhất định tôi sẽ
vãng sanh.
Tôi
vỗ tay khen bà Cụ…
– Chết cũng do tại mình. Đọa lạc cũng do tại mình. Vãng sanh về
Tây Phương cũng do tại mình.
Nếu
mình hiểu đạo ra một chút thì đây là cái cơ hội giải phóng toàn bộ những ách
nạn từ trong vô lượng kiếp đến bây giờ, nhờ bệnh ung thư này nó giải quyết cho
bà Cụ. Nếu bà Cụ không biết đạo, cứ bám lấy từng giây từng phút vô thường, cứ
tranh đấu với cảnh hão huyền để sống thêm được ngày nào hay ngày đó, thì chắc
chắn đến lúc nằm xuống bà Cụ khó tránh khỏi bị đọa lạc!
Cho
nên, khi mà ngộ ra lý đạo, mình liền được phần giải thoát. Khi còn mê muội
đường đạo, thì mình phải chịu đọa đày! Mê muội mà không gặp người khai thị hóa giải
thì làm sao có cơ duyên giác ngộ?… Khai thị chính là như vậy.
Nguyện
mong cho tất cả chư vị hiểu được điều này, chúng ta nhất định vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc. Cơ duyên tại đây chứ không đâu hết.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 2)
A-Di-Đà
Phật.
Kính
bạch Sư Cô cùng đại chúng. Pháp hộ niệm mà được phổ biến rộng rãi thì sẽ có
nhiều người được vãng sanh. Phương pháp hộ niệm mà ít người biết thì cơ hội
nhìn thấy người vãng sanh rất là hiếm!
Cho
nên, khi đi hộ niệm cho một người, nếu gia đình của người đó biết hộ niệm, nếu
người đó biết cách hộ niệm thì khi ban hộ niệm đến chỉ cần nói sơ qua là đủ,
mình sẽ thấy người bệnh đó có rất nhiều hy vọng được vãng sanh. Sở dĩ như vậy
là vì người đó đã biết hộ niệm chứ không có gì khác. Chính vì vậy mong muốn chư
vị cố gắng phổ biến phương pháp hộ niệm ra. Cứ phổ biến ra đi, khoảng chừng vài
năm sau chư vị sẽ thấy kết quả.
Trong
phương pháp hộ niệm, “Khai Thị” là điểm hết sức
quan trọng. Người bệnh đó được vãng sanh hay không hầu hết đều do cách hướng
dẫn của ban hộ niệm. Như hôm qua mình nói, khai thị không phải là nói pháp,
khai thị không phải là vòng vo trong những lý đạo cao siêu, mà khai thị hay nói
dễ dàng hơn là chỉ dẫn con đường đi cho thẳng, gọn và gỡ cho được những cái gút
mắt, những cái khó khăn của người bệnh. Người bệnh có khó khăn nào mình gỡ cái
đó thì gọi là khai thị. Trong những khó khăn đó nó đều xoay quanh ba điểm “Tín-Nguyện-Hạnh”. Nói gọn lại là như vậy, còn khi
nói rộng ra thì xin thưa rằng, nhiều khi mình nói đến một năm cũng không hết…
Trong
vấn đề khai thị cho người bệnh rất cần những điểm tâm lý. Tâm lý đâu có phải là
Phật pháp, nhưng mà có được chút ít tâm lý để khai thị thì lại hợp trong việc
hướng dẫn giúp một người bệnh được vui vẻ, thoải mái, dễ dàng chấp nhận những
sự hướng dẫn của mình. Khi họ chấp nhận sự hướng dẫn của mình thì họ đi thẳng
boong một đường tới Tây Phương Cực Lạc.
Diệu
Âm xin kể ra đây một câu chuyện có thật để thấy yếu tố này. Cách đây một vài
năm có một vị đồng tu kêu Diệu Âm tới khai thị giúp cho ba của cô, để cho ông
phát lòng niệm Phật cầu vãng sanh. Người con này là một người biết tu, biết
niệm Phật rất là tinh tấn, biết luôn phương pháp hộ niệm nữa. Ấy thế mà cô ta
nói chuyện với người cha của mình thì ông không thèm nghe. Bữa đó cô sắp xếp
cho Diệu Âm đến gặp ông cụ, thời gian cỡ một tiếng đồng hồ. Khi tới đó, Diệu Âm
nói toàn những chuyện hết sức là quen thuộc. Vì người con gái đó đã từng đi hộ
niệm, nên khi Diệu Âm nói câu nào thì hình như Cô ta cũng đoán biết trước
hết!… Chuyện lạ lắm!…
Tôi
nói:
– Cụ
ơi! Ráng cố gắng niệm Phật nghe…
Thì
người con gái đó muốn rằng tôi phải nói những lời nào cho thật là sắc bén để
ông cụ niệm Phật. Nhưng mà thật tình ra suốt cả một tiếng đồng hồ tôi không nói
điều gì khác lạ hết, mà tôi chỉ nói như…
– Cụ
cố gắng niệm Phật nghe.
Tôi
vừa nói vậy thì người con gái nói tiếp theo liền…
– Cha
ơi! Cha thấy không? Cái tiếng nói niệm Phật này con thường nói với Cha, ngày
nào con cũng nói. Cha thấy đó, cư sĩ Diệu Âm cũng nói như vậy… Cha nghĩ coi...
Tôi
nói:
– Bây
giờ mình già rồi, hãy quyết lòng đi về Tây Phương nghe Cụ…
Thì
người con gái nói:
–
Thưa anh cư sĩ Diệu Âm, ngày nào tôi cũng nói với cha tôi là phải đi về Tây
Phương Cực Lạc. Tôi nói tận tường, nói không biết bao nhiêu lần. Tôi nói còn
nhiều hơn nữa cơ…
Tôi
nói:
– Đúng
đó! Ráng cố gắng… Bác ơi, ở xứ Ta-Bà này
khổ lắm! Mang cái thân này khổ lắm!..
Thì
người con gái tiếp liền:
– Cha
thấy không? Rõ ràng là ngày nào con cũng nói với cha như vậy. Ở đây chi cho
khổ? Đi về Tây Phương sướng hơn. Anh cư sĩ Diệu Âm rõ ràng cũng nói như con chứ
có khác gì đâu?…
Tức
là suốt một tiếng đồng hồ tôi muốn nói một vài lời với ông cụ, nhưng hễ mở ra
nói lời nào thì người con cũng đoán biết và cướp lời nói tiếp hết trơn, thành
ra tôi đành phải ngồi một tiếng đồng hồ rồi lặng lẽ ra về!… Tôi than thầm
rằng… Ông cụ này có thể bị trở ngại rồi!…
Trong
suốt một tiếng đồng hồ nói chuyện thì ông Cụ cứ lắng nghe, không nói lại một
tiếng nào hết!… Kết quả thì ngày ông Cụ đó ra đi đã mất phần vãng sanh một
cách hết sức là đau đớn!
Tại
sao lại có những hiện tượng như vậy? Xin thưa với tất cả chư vị, không phải khi
mình nói… “Cụ ơi! Cụ niệm Phật đi” là người đó sẽ niệm đâu. Phải có yếu
tố tâm lý thì người ta mới nghe theo. Lạ lắm!…
Ngày
hôm nay chúng ta đi hộ niệm, thật sự tôi thấy người nào cũng nở trên môi nụ
cười và tâm hồn người nào cũng thấy thoải mái. Chính tôi cũng thấy thoải mái và
người được hộ niệm cũng thấy thoải mái. Tại sao vậy? Quý vị nghĩ thử coi, gia
đình của người này có một vị xuất gia. Quý vị có thấy ở trên tường Thượng Tọa
đã viết lời gì không? Có để ý không? Vị Thượng Tọa đó đã viết cáo thị dán trên
tường, dặn dò tất cả những người trong gia đình phải tuyệt đối vâng theo lời
hướng dẫn của ban hộ niệm. Điều này thật là hay. Rồi trong suốt buổi hộ niệm,
gia đình thân nhân của bà Cụ không nói một lời nào hết, họ bán cái trọn vẹn cho
ban hộ niệm. Quý vị chú ý chỗ này nghe… Hay lắm!
Tại
sao vậy? Tại vì người lạ nói nhiều khi đậm đà hơn, tâm lý hơn và đỡ làm căng
thẳng cho người bệnh hơn. Lạ lắm! Chư vị để ý coi.
Tại
sao vị Thượng Tọa đó không đến cùng với ban hộ niệm khai thị, mà Ngài nói tất
cả mọi người trong gia đình phải tuân lời ban hộ niệm? Chắc chắn vị Thượng Tọa
đó là một vị niệm Phật, Ngài dư sức khai thị cho bà Mẹ. Những người con trong
gia đình, đã từng theo tôi đi hộ niệm tuy không nhiều, nhưng cũng biết qua rồi,
đã được hướng dẫn rồi. Một người tu chắc chắn có khả năng hướng dẫn cho người
Mẹ của mình, nhưng họ không hướng dẫn…
Đây
thật ra chỉ là một vấn đề tâm lý. Quý vị để ý coi, chính mình về nói với Cha
của mình, Cha của mình không nghe. Phật nhà không linh! Ấy thế mà nhờ một người
khác tới khuyên bảo lại được. Kỳ lạ lắm chư vị!…
Ví
dụ như bà Cụ đó có tính ưa giận, người con nói với tôi: “Anh Diệu Âm ơi! Xin anh nói giùm
cho bà Cụ đừng có giận”. Nếu là người con tới nói: “Mẹ
ơi! Mẹ đừng có giận”, thì nhiều khi bà Cụ không nghe đâu à. “Mày
dạy đời ta hả?”. Nhưng mà nhờ ban hộ niệm tới nói, thì tự nhiên bà
Cụ cảm thấy thoải mái. Đây là một yếu tố hoàn toàn về tâm lý.
Khi ông
Cụ Thân của tôi ra đi, xin thưa thật, hầu hết không phải là chính tôi khai thị
hướng dẫn ông Cụ đâu. Chắc chắn cũng có, nhưng mỗi một lần có ban hộ niệm tới
là tôi mời ban hộ niệm đó: “Chị lên chị nói chuyện với ông Cụ đi”.
Rồi một ban hộ niệm khác tới: “Anh tới anh nói chuyện với ông Cụ đi”.
Tôi bán cái hoàn toàn cho họ. Ấy thế, những người đó nói thì ông Cụ lại thoải
mái nghe…
Hôm
trước đây đi về Việt Nam, chị Diệu Thường theo tôi suốt trong chuyến đi đó.
Trong thời gian ở tại quê, tôi giao hẳn cho chị Diệu Thường nói chuyện với Mẹ
tôi. Tôi nói, trong suốt những ngày này chị cứ khai thị cho bà Cụ. Ăn cơm xong thì
chị Diệu Thường phải ngồi bên bà Cụ để nói chuyện. Tôi không nói. Đây thật ra, không
phải là tôi không đủ khả năng nói, nhưng mà tôi biết một người lạ tới nói với
bà Cụ, thì bà Cụ không thể nào giận người ta được. Người lạ đó cũng không thể
nào nói lớn tiếng với bà Cụ được. Người lạ không thể nào dám chọc cho bà Cụ
giận, vì dù thế nào người ta cũng phải vị nể nhau chứ.
Chính
vì thế, một người đã biết niệm Phật, kêu tôi tới hộ niệm. Tôi nói “Cụ
niệm Phật đi nhé”. Câu nói này ai mà nói không được? Nhưng một người
lạ tới nói thì người Cha của mình lại nghe, không nổi giận, mà mình nói thì
người Cha mình lại nổi giận. Tại sao vậy? Tại vì ngày nào mình cũng nói, ngày
nào mình cũng nhắc. Ông không chịu niệm Phật thì mình kình, mình cãi, nên khi
vừa gặp mình là ông Cụ đã muốn tức lên rồi!…
Khai
thị là như vậy đó. Là mở cái gút mắt ra. Ông cụ giận, đừng có làm ông cụ giận
nữa. Ông cụ không tin, không phải mình cứ nhắc mãi câu: “Ông Cụ tin đi, ông Cụ tin đi”
là được, mà hãy nhờ một người khác tới nói giùm cho. Đây là một thái độ hết sức khôn ngoan!
Cho
nên, cuộc hộ niệm hôm nay là một tiêu biểu rất hay. Trong nhà có vị xuất gia,
con cái thì biết hộ niệm hết, nhưng mà hoàn toàn bán cái cho ban hộ niệm. Đây
là một yếu tố mình cần phải nhớ, để sau này khi trong gia đình mình có người
bệnh, nhất định là con cái trong nhà khó nói chuyện với nhau lắm. Hãy nhờ ban
hộ niệm tới nói. Tận dụng vấn đề tâm lý này mà người bệnh rất dễ tiếp nhận để
sau cùng niệm câu A-Di-Đà Phật, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 3)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Kính
bạch Sư Cô cùng chư vị đại chúng. Xin thưa, đạo tràng hôm nay có một điều đặc
biệt là có một vị đạo hữu từ bên Mỹ qua, tháng sau cũng có một vị nữa nghe nói rằng
cũng đem tới đây nhiều câu hỏi lắm, cho nên đặc biệt những cuộc tọa đàm này nếu
có câu hỏi nào thì Diệu Âm sẽ trả lời câu hỏi đó, vì dồn lại cuối cùng thì sợ
trả lời không kịp. Câu hỏi hôm nay là:
“Thưa
anh Diệu Âm, có một đồng tu nói, Anh có đi hộ niệm và đã dùng bàn tay đẩy hơi
nóng lên đỉnh đầu người chết và người đó đã được vãng sanh. Xin anh cho biết có
đúng hay không? A-Di-Đà Phật”.
Diệu
Âm học được pháp hộ niệm này từ trong Tịnh-Tông Học-Hội, đã chung sức kề vai
với họ đi hộ niệm tám năm. Thường thường cứ vài ba tháng thì có một phiên họp,
các vị Pháp Sư ở đó đều giảng giải cách hộ niệm, trong suốt thời gian đó thì
Diệu Âm chưa nghe một vị Pháp Sư nào dạy cho Diệu Âm phương cách đẩy hơi nóng
như thế này. Diệu Âm cũng đã đi phổ biến pháp hộ niệm khắp nơi cũng chưa có lần
nào hướng dẫn cho người ta dùng bàn tay hay chưởng lực của mình đẩy hơi nóng
lên.
Diệu
Âm học Thầy nào thì một Thầy, nếu Thầy của mình không dạy thì chắc chắn Diệu Âm
không có làm đâu.
Cho
nên nếu có người nào nói Diệu Âm dùng chưởng lực hay bàn tay đẩy hơi nóng thì
có lẽ đã lầm!… Hiện tại bây giờ ở Việt Nam mấy trăm ban hộ niệm đã hình thành
khắp tất cả các tỉnh thành, đếm không hết, có thể là ba-bốn trăm gì đó, đếm
không hết. Mỗi lần về Việt Nam Diệu Âm thường có nói chuyện về hộ niệm và cũng
có những người đã đưa ra câu hỏi này, thì Diệu Âm luôn luôn nghiêm khắc, cảnh
cáo rằng không được làm. Diệu Âm tu pháp môn Tịnh-Độ, chư Tổ trong Tịnh-Độ Tông
có để lại những lời khai thị, những sự hướng dẫn về hộ niệm hết sức là rõ ràng,
cụ thể. Trong tất cả tài liệu của chư Tổ để lại, Diệu Âm chưa thấy qua một vị
Tổ nào dạy về phương pháp đẩy hơi nóng như vậy.
Chính
vì vậy mà Diệu Âm luôn luôn cảnh cáo những vị trong ban hộ niệm không nên hiếu
kỳ. Chúng ta phải cẩn thận, đừng nên thấy một quyển sách nào bên ngoài nêu lên
vấn đề này thì chúng ta bắt chước theo. Không hay! Theo Tịnh-Tông Học-Hội, theo
chư Tổ trong Tịnh-Tông thì nhất định là không có chuyện này.
Chúng
ta phải nhớ rằng hộ niệm có rất nhiều phương pháp, chứ không phải chỉ có một. Diệu
Âm luôn luôn nhắc nhở những vị trong ban hộ niệm là tu pháp nào mình phải hộ
niệm theo pháp đó thì mới chính xác, mới đưa đến kết quả tốt.
Nghĩa
là mình tu Tịnh-Độ là con đường niệm Phật vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, thì
chư Tổ dạy mình Tín-Hạnh-Nguyện là con đường để mình đi, phải
hướng dẫn đúng con đường đó thì người ta mới vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc
được. Còn như mình sơ ý đọc những tài liệu từ bên ngoài, ví dụ như bên
Thiền-Tông chẳng hạn, thì Thiền-Tông người ta không có Tín-Hạnh-Nguyện để vãng
sanh về Tây Phương, nếu mình dùng phương pháp của Thiền Môn áp dụng vào đây thì
chắc chắn làm cho người niệm Phật bị lạc đường. Tại vì trong mỗi một pháp môn có
một cách hành trì riêng. Mình đi đường nào phải đi một đường.
Tu
pháp môn Tịnh-Độ là Tín-Hạnh-Nguyện:
– Tín là tin tưởng đại nguyện của Đức A-Di-Đà.
– Nguyện là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
– Hạnh là niệm câu A-Di-Đà Phật.
Nếu
mình không ứng dụng Tín-Hạnh-Nguyện để hộ niệm, mà mình ứng dụng phương pháp hộ
niệm của Mật-Tông chẳng hạn, thì nhất định bị lạc đường, vì bên Mật-Tông không
có niệm Phật, mà người ta niệm Chú. Nếu mình đem phương pháp của họ chỉ bày cho
người bệnh niệm Chú thì chắc chắn sẽ lạc đường vãng sanh về Tây Phương, vì đã mất
đi điều kiện cụ thể là Tín-Hạnh-Nguyện. Chúng ta tu là để vãng sanh, chúng ta hộ
niệm cho người vãng sanh thì nhất định Tín-Hạnh-Nguyện không thể nào rời ra.
Đây là điều căn bản cần phải chú ý. Nhất định chúng ta phải theo cái phương pháp
của Tịnh-Độ Tông để hộ niệm.
Còn
nếu mà chúng ta sơ ý, ví dụ như bên Cao-Đài Giáo người ta cũng có phương pháp
hộ niệm, người ta cũng tới chỉ vẽ cho người sắp chết, nhưng thật ra là để hướng
dẫn đi về một cảnh giới lành, đi về một cảnh giới hoàn toàn khác. Nếu sơ ý đem
phương pháp của tôn giáo đó áp dụng vào đây thì sai liền. Chắc chắn sai liền!
Tại vì mỗi pháp môn tu đều có một đường đi riêng, có một cách hộ niệm riêng.
Quý vị nên nhớ.
Thường
thường có nhiều người thích nghiên cứu trong Mật-Tông, mà đã là “Mật” thì chưa
chắc gì chúng ta đã thâm nhập vào cái “Mật” đó đâu! Pháp hộ niệm của họ thường
thường là khi có một người chết, một vị Pháp Sư sẽ đến đối diện với người chết
đó trong suốt bảy ngày, người ta âm thầm làm theo pháp của họ, hoàn toàn chỉ có
người đó biết mà thôi. Nếu chúng ta không biết rõ, mà sơ ý áp dụng vô thì sai
liền, vì đường đi của họ có nhiều điều huyền hão lắm! Xin chư vị nhớ cho chuyện
này.
Cho
nên, xin xác định lại rằng, Diệu Âm không bao giờ lại dùng phương pháp đẩy thần
thức lên đầu. Ở Việt Nam cũng có nhiều người làm chuyện này, khi làm xong rồi vị
đó nói rằng, người chết đã vãng sanh rồi. Nghe kể vậy, tôi hỏi về thoại tướng
người chết đó như thế nào? Người ta nói: “Cứng ngắc!”. Như vậy là không
phải đâu!
Cách
đây không lâu lắm, khoảng mấy tháng, cũng một người ở Việt Nam, trong khi ban
hộ niệm đang hộ niệm thì vị đó tới không cho hộ niệm nữa, rồi cũng dùng chưởng
lực đẩy lên như vậy. Người đó vừa chết mới hai tiếng đồng hồ thôi, vị đó tới
cũng đẩy lên và làm phép gì đó không biết trong khoảng thời gian chừng ba mươi phút. Làm
phép xong rồi, vị đó nói rằng, người này đã vãng sanh rồi. Tôi hỏi, sau đó thân
tướng của người chết ra sao? Người ta nói: “Cứng ngắc!”. Như vậy, theo sự ấn
chứng của Tịnh-Độ Tông, thì người chết đó không có phần vượt qua tam ác đạo nữa
là khác, đừng nói chi là vãng sanh Tây Phương Cực Lạc!
Rõ
ràng, có nhiều người nghiên cứu không kỹ, chỉ xem qua trong sách vở nào đó, thích
nghiên cứu những “Mật Lực”, những “Mật Nghĩa” gì đó trong các pháp tu lạ, rồi đem
ra áp dụng. Đây thật là nguy hiểm, vì có thể bị sai!…
Nếu
chư vị đã nghe những cách hướng dẫn hộ niệm của Diệu Âm từ trong bộ “Khuyên
Người Niệm Phật”, đến tập “Niệm Phật – Hộ Niệm – Vãng Sanh – Vấn Đáp”,
Diệu Âm cũng đã khẳng định điều này. Vừa mới đây thì có những băng tọa đàm “Hộ
Niệm Là Một Pháp Tu”, “Khế Cơ-Khế Lý”, “Hộ Niệm Quan Trọng”, “Vận Động Hộ
Niệm”, v.v… Trong mỗi
đợt, Diệu Âm nói về hộ niệm luôn luôn đều có nhắc nhở chuyện này, luôn luôn
nhắc nhở chư đồng tu một lòng một dạ dùng Tín–Hạnh–Nguyện đi về
Tây Phương. Hãy áp dụng thật đúng phương pháp hộ niệm của Tịnh-Tông. Còn nếu sơ
ý áp dụng những phương thức của những tông phái khác thì nhiều khi sai lệch con
đường vãng sanh Tịnh-Độ. Điều này xin quý vị nên chú ý thật cẩn thận.
Xin
đưa ra đây một ví dụ, như bên Thiền-Tông người ta tu tự lực. Tự lực tu chứng
thì không có niệm Phật cầu vãng sanh. Mình ứng dụng phương pháp của Thiền-Tông để
hộ niệm cho người muốn vãng sanh, chẳng lẽ chúng ta khai thị nói như vầy:
– Cụ
ơi! Đừng niệm Phật nghe?
Nói
vậy được sao? Sai liền Phải không? Còn nói:
– Niệm
Phật đừng cầu vãng sanh về Tây Phương nhé…
Thì
lại sai nữa! Tại vì pháp tu của họ là pháp tự lực chứng đắc, không cầu vãng
sanh. Còn phương pháp chúng ta là nhị lực cầu A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ.
Hai cách hành trì khác nhau.
Diệu
Âm học qua phương pháp hộ niệm này là giảng giải, khai thị cho người bệnh để củng
cố niềm tin vững vàng, buông xả vạn duyên, quyết lòng niệm: “Nam
Mô A-Di-Đà Phật, Nam Mô A-Di-Đà Phật…”, hoặc “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật…”. Phải tranh thủ từng hơi mà niệm. Còn gì nữa? Phải quyết lòng
quyết dạ đi về Tây Phương, cầu A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ về Tây Phương,
tuyệt đối không cầu cái gì khác hết.
– Nếu
người đó cầu hết bệnh, mau mau bỏ lời cầu xin hết bệnh đi.
–
Nếu mà Bác cầu hết bệnh chắc chắn Bác không được vãng sanh.
–
Nếu mà Bác nhớ đến con nhất định phải quên đứa con đi.
–
Thương đứa con là phải về Tây Phương được thì mới cứu đứa con được.
Phải
buông!… Buông!… Buông!… Buông hết. Cứ Tín-Hạnh-Nguyện, Tín-Hạnh-Nguyện
đi cho đúng, không được rời ra, thì nhất định người này được phước phần vãng
sanh. Chứ nếu mà đem những phương pháp khác ứng dụng vô, thì coi chừng bị phạm
lỗi lầm đối với pháp hộ niệm của Tịnh-Tông.
Trong
vấn đề cầu Phật tiếp dẫn. Chư Tổ luôn luôn nhắc nhở là lòng Chí Thành – Chí Kính tha thiết cầu
nguyện A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ. Người hộ niệm không được dùng bất cứ
một thứ năng lực nào của mình để tiếp dẫn thần thức đó. Vì thế, cần khuyến
khích gia đình cùng quỳ xuống lạy Phật. Chư vị hãy thành tâm quỳ xuống:
– Nguyện
A-Di-Đà Phật, Quán-Âm Thế-Chí đại từ đại bi phóng quang tiếp độ bác Nguyễn Văn
X, pháp danh là Y vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Khi chết
rồi thì nguyện:
– Đệ
tử chúng con cùng gia đình thành tâm khẩn nguyện A-Di-Đà Phật đại từ đại bi
phóng quang tiếp độ hương linh Nguyễn Văn X, pháp danh là Y, vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc.
Và
điều giải oan gia trái chủ, là:
–
Chúng tôi thành tâm khấn nguyện chư vị trong pháp giới, nương theo cơ hội này
cùng với chúng tôi niệm Phật để hộ niệm cho người này, buông bỏ oán thù ra để
chúng ta cùng nhau kết duyên lành với A-Di-Đà Phật.
Đây
là cái đề tài để chúng ta lần lượt sẽ mổ xẻ trong suốt cuộc tọa đàm này. Luôn
luôn chúng ta phải thành khẩn mà làm, không bao giờ được quyền dùng bất cứ một
cái lực nào của mình để trấn áp oan gia trái chủ, hoặc giống như để tiếp độ bệnh
nhân. Hoàn toàn không được làm
như vậy. Nếu chư vị làm như vậy, chư vị phạm cái lỗi thượng mạn, coi chừng oán
nạn sẽ đến với mình.
Nên
nhớ mỗi pháp tu nó có một cách để hóa giải. Cách hóa giải của chúng ta là khiêm
nhường, thật tâm, chí thành, chí kính cầu A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ.
Đối
với tất cả những pháp giới chúng sanh, ta không được quyền đụng chạm đến quyền
lợi của họ. Ngay cả những vị oan gia trái chủ của bệnh nhân…
–
Chúng ta cũng không được khởi cái tâm đàn áp họ.
–
Không được có cái tâm cưỡng ép họ.
–
Không được bắt buộc những vị oan gia trái chủ phải lìa ra, phải bỏ đi… KHÔNG!
–
Chúng ta phải cúi đầu xuống, thành tâm, khấn nguyện, điều giải với oan gia trái
chủ.
Đây
là những chuyện mà chúng ta sẽ nói tới trong cái đề tài gọi là “Khai Thị”. Tại
vì khai thị gồm có:
– Khai
thị với người bệnh khi còn sống,
–
Khai thị trong lúc lâm chung,
–
Khai thị sau khi chết,
– Và
khai thị luôn với oan gia trái chủ nữa.
Điều
giải với họ, nhất định chúng ta phải làm như vậy.
Giả
sử như một vị oan gia quyết lòng trả thù, thì đó là vấn đề “Nhân Quả” của họ,
chứ ta không được xen vào, tại vì thật sự là người bệnh đã làm sai trước. Bây
giờ bắt buộc người bệnh phải thành tâm sám hối. Người bệnh thành tâm sám hối
rồi thì ta mới có thể điều giải được. Chứ không thể nào vì một chúng sanh này
mà hại một chúng sanh khác. Nên nhớ đạo Phật chúng ta không có quyền hãm hại
một chúng sanh nào dù là oan gia trái chủ, dù là hữu hình hay vô hình. Đó mới
là chánh pháp.
Cho
nên, xin chư vị nhớ cho, Diệu Âm không bao giờ dùng chưởng lực nào để mà đẩy
thần thức hay làm theo phương pháp đó. Mong chư vị đính chính những chỗ này cho
rõ ràng!..
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 4)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
“Hộ Niệm”, cái vai trò “Khai
Thị – Hướng Dẫn” rất là quan trọng. Một người để cho đến lúc mê man,
bất tỉnh trong bệnh viện rồi mới kêu ban hộ niệm thì quá trễ! Vì lúc đó ban hộ
niệm đến không biết cách nào để mà hướng dẫn cho người bệnh được vãng sanh?…
Ví
dụ như ngày hôm nay có một người điện thoại tới nói:
– Anh
Diệu Âm ơi! Cha của tôi bây giờ đang mê man bất tỉnh sắp chết trong bệnh viện,
mời anh tới hộ niệm.
Tôi
hỏi:
– Hồi
giờ ông cụ có niệm Phật không?
– Dạ
tôi được người bạn giới thiệu để mời anh tới hộ niệm, chứ hồi giờ chưa có niệm
Phật.
Tôi
nói:
– Thật
ra hộ niệm không phải là như vậy đâu… Đã đến giờ phút này thì không còn cách
nào cứu được!
Có
hướng dẫn khai giải để cho người bệnh phát khởi niềm tin, phát lòng niệm Phật,
rồi phát nguyện vãng sanh thì may ra mới nương theo ba món “Tư Lương” này mà
giúp cho người bệnh vãng sanh, chứ còn nói rằng, đến hộ niệm, niệm Phật hồi
hướng công đức để được vãng sanh… Thật sự không phải dễ dàng như vậy đâu!…
Ngày
hôm kia mình có đưa ra một trường hợp về tâm lý khai thị, tức là khai thị không
phải tới đó nói ào ào rằng, “Bác tin đi, Bác niệm Phật đi, Bác nguyện đi…” là người ta có thể thực hiện
được đâu!
Một
người con biết hộ niệm, đã từng hộ niệm, khi giữ phần hướng dẫn hộ niệm cho
người Cha, nhưng sau cùng thì người Cha mất phần vãng sanh. Trong đó lỗi lầm
một phần vì thiếu yếu tố “Tâm lý”. Nghĩa là người trong
nhà nói với nhau đã quen rồi, nhiều khi người Mẹ của mình, người Cha của mình đã
nhàm chán với lời nói của con cái. Chính vì vậy, đôi khi người con vừa mới mở
lời nói thì ông già liền phiền não! Cho nên cần đến những người lạ, người trong
ban hộ niệm, phải nhờ người ta tới nói… Đây là vấn đề tâm lý hết sức quan
trọng.
Cụ
thể, trong những ngày đi hộ niệm cho bác Cam Muội, mình thấy con của Bác là một
vị Thượng Tọa mà ngài dặn tất cả người trong gia đình đều phải nhất mực tuân
theo ban hộ niệm, gia đình không có nói gì hết. Đây là vấn đề tâm lý rất hay.
Nhờ biết tâm lý như vậy nên mới giải tỏa được những phiền não của người bệnh.
Khai
thị là gỡ những cái “Gút mắt”, gỡ những cái “Phiền não”
của người bệnh để cho người bệnh:
– Phát
khởi niềm tin.
–
Phát lòng niệm Phật.
–
Phát nguyện vãng sanh.
Chứ
không phải:
– Khai
thị là nói Pháp.
–
Khai thị không phải là nói lý đạo.
Mà
khai thị là làm cho người đó:
–
Bớt đi phiền não.
–
Bớt đi những gút mắt.
–
Bớt đi những cái khó khăn mà chính người đó đang bị.
Có
nghĩa là sao?…
– Một
người bệnh có một cái gút mắt riêng.
–
Một người bệnh có một cái phiền não riêng, và một cái kẹt riêng.
Diệu
Âm xin kể ra một câu chuyện có thật để mình thấy. Đầu tiên là mình biết được phương
pháp để dụ dỗ cho được người bệnh.
Có
một vị đồng tu biết niệm Phật. Khi đó cũng nhờ Diệu Âm đến nói chuyện với người
Mẹ của mình. Khi Diệu Âm đến nói chuyện, thì nghe bà Cụ cũng hứa niệm Phật, bà
Cụ cũng muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nhưng có một điều như thế này…
Khi phát hiện ra, Diệu Âm có nói với người con là hãy làm như vậy… như vậy…
Dù đã biết hộ niệm, muốn Mẹ mình vãng sanh, nhưng hình như người con không chịu
làm theo…
Chuyện
là người Mẹ không muốn ở cái nhà đó, mà người con lại bắt buộc Mẹ mình phải tới
cái nhà đó để ở. Lý do vì cái nhà này có thờ Phật, có trang trí hình Phật, còn
căn nhà người Mẹ đang ở thì nơi đó không ai biết tu. Vì thế người con muốn
người Mẹ phải về căn nhà thích hợp này. Diệu Âm cũng thấy sự thích hợp đó, nên
khuyên bà Cụ hãy về cái nhà này để được thuận lợi hơn. Nhưng có một lần bà Cụ
nói như thế này:
–
Tôi nói thiệt với chú, thà tôi xuống địa ngục chứ tôi không chịu về cái nhà này
đâu…
Khi nghe
bà Cụ nói như vầy, thì tôi mới nói với người con hãy mau mau đem bà Cụ trở về
căn nhà bà Cụ thích, có như vậy may ra bà Cụ mới có thể được vãng sanh.
Thì
người con nói:
–
Không được đâu!… Về bên đó thì nhất định Mẹ tôi không được vãng sanh, tại vì
ở bên đó người ta không biết tu.
Tôi
nói với người con:
– Muốn
cho người Mẹ mình an tâm niệm Phật, thì phải chiều người Mẹ của mình hết mức.
Người Mẹ của mình tới đó mà bà thấy an tâm, bà thấy vui vẻ… thì chính chỗ đó
là chỗ bà Cụ mới có thể được vãng sanh. Trở về đây, dù không khí này rất thuận
lợi để tu hành, nhưng khi trở về đây bà Cụ lại thấy nóng nảy, khó chịu, phiền
não… thì nhất định không thể nào mình có thể hộ niệm hay giúp gì cho bà Cụ
vãng sanh được! Rõ ràng, bà Cụ đã quyết thề: “Thà tôi xuống địa ngục chứ không chịu ở cái nhà này”, như
vậy mà chị còn bắt bà Cụ về nhà này thì chắc chắn không cách nào bà Cụ có thể
an tâm niệm Phật được hết.
Ấy
thế mà người con cũng quyết lòng tìm mọi cách bắt buộc bà Cụ phải về ở tại căn nhà
bà không thích đó. Thấy như vậy tôi đành lặng lẽ ra về, và trong tâm của tôi
nghĩ rằng bà Cụ này không có cách nào có thể được vãng sanh, dù rằng bà Cụ cũng
có niệm Phật, bà Cụ cũng có nguyện vãng sanh…
Xin
thưa với chư vị: Khai thị là gỡ những điều gút mắt của người bệnh. Khai
thị là xóa đi những cái phiền não của người bệnh, chứ không phải khai thị là
xóa đi những phiền não của người hộ niệm.
Người
con muốn người mẹ được vãng sanh, thì người con phải làm sao giúp cho người mẹ
không phiền não, chứ đừng bắt người mẹ phải làm sao cho người con không phiền
não. Nếu sơ ý, vô tình chúng ta không cách nào có thể giúp một người vãng sanh
về Tây Phương Cực Lạc được.
Đây
chính là sự khai thị, chứ không phải cứ ngồi trước bà mẹ của mình rồi nói oang
oang, hết lý này đến lý nọ, ngày nào cũng nói, cũng bắt bà mẹ mình… “Phải
niệm Phật nghe, phải lánh xa những người đó nghe, phải làm này, phải làm nọ, đủ
thứ hết!…”, mà bên cạnh thì không chịu để tâm đến ý muốn, sở thích của
người mẹ mình là gì.
Đây
là một việc làm phản ngược, hay gọi là: “Phản khai thị! Phản hướng dẫn!”. Vì thế, thường thường khi hộ niệm, mình cần nên hỏi người nhà để
biết người bệnh đó ghét cái gì, hầu tìm cách giúp cho bà Cụ đừng gặp phải
nguyên nhân sinh ra phiền não. Ví dụ như có nhiều bà Cụ tính tình lạ lắm! Bà
không muốn treo tượng Phật trong phòng của bà, mà trong pháp hộ niệm thì nói
rằng có thể treo được. Nhưng khi để hình Phật trong phòng, thì bà Cụ cho rằng
như vậy là bất kính quá! Hiểu được điều này, trước đó mình có thể khai giải: “Không
sao đâu Mẹ… Không sao đâu Bác, có thể để được”. Nhưng bà Cụ nhất
định cũng không chịu. Khi bà Cụ nhất mực không chịu, thì mình phải chiều bà Cụ.
Nghĩa là mình phải để hình Phật ở phòng ngoài, đặt chỗ nào trang trọng, khi hộ
niệm thì mời bà Cụ ra. Như vậy là đúng.
Không
thể nào áp dụng nguyên tắc một cách cứng ngắc. Đừng nghĩ rằng, hộ niệm có thể
để được hình Phật trong phòng, thì mình cứ việc để, (Vì phòng của bà Cụ mà),
trong khi bà Cụ không chịu. Nếu mình vẫn nhất mực làm vậy, áp dụng nguyên tắc cứng
rắn như vậy thì người đó sẽ mất phần vãng sanh. Thật là oan uổng!…
Cho
nên, thường khi khai thị chúng ta nên nhớ: Khai thị có “Lời Khai Thị”,
có “Tư Cách Khai Thị”, có “Tâm Lý để Khai Thị”
nữa. Luôn luôn phải nhớ rằng, mục đích của chúng ta là làm sao giúp người đó
buông xả, buông xả. Buông xả cho nhiều ra mới tốt…
Nói vậy,
thì bắt đầu chúng ta nên buông xả trước đi để ngày ra đi của chúng ta khỏi bị
nạn. Ví dụ như mình nói, trong lúc đi hộ niệm phải cần một mẫu hình Phật, mẫu
hình Phật nào một mẫu thôi, đừng nên treo nhiều thứ quá. Nghĩa là, đừng treo
bên đây hình đỏ, bên kia hình xanh, bên nọ hình vàng… Đây là yếu tố giúp cho
người bệnh khỏi phân tâm. Vì căn cơ yếu quá có thể người bệnh dễ dàng sinh ra hồ
nghi, không biết phải đi theo Phật nào…
Khi mình
nói với người ta như vậy, thì đối với cá nhân của chính mình khi gặp một tượng
Phật nào mình cũng hoan hỷ hết. Ví dụ như ở đây mình áp dụng phương thức chuyên
nhất, thấy hình Phật chuyên nhất, nhưng giả sử đi đến một tự viện hay đến một nhà
nào đó, người ta treo ở đây đỏ, ở kia xanh, ở nọ vàng thì mình cũng chấp nhận
luôn, để khi mình nằm xuống gặp trường hợp người ta treo ba-bốn mẫu hình Phật, cũng
không trở ngại gì cho mình cả. Luôn luôn phải tập buông xả, tự mình phải tập
trước, tự mình phải buông xả trước, thì khi mình nằm xuống, người ta hộ niệm
cho mình rất dễ dàng.
Mỗi
ngày nói một chút, tiến sâu hơn. Rồi lần lần ta sẽ nói đến chỗ điều giải oan
gia trái chủ nữa. Cầu xin cho chúng ta có được cái hướng khai thị vững vàng hầu cứu người vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà-Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 5)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Trong cái bảng cầu siêu cầu an của Niệm Phật Đường chúng ta, hôm
nay có hai vị cầu siêu mới. Người ta báo tin cho Niệm Phật Đường để tên cầu
siêu và kèm theo lời báo tin vui, tại vì cả hai người này đều đã được hộ niệm
vãng sanh, thoại tướng tốt bất khả tư nghì.
Một người là mẹ vợ của một anh đã phát tâm ấn tống hai bộ sách “Hộ Niệm Là Một Pháp Tu” và “Khế Cơ – Khế Lý”. Một vị nữa là thân
hữu từ bên Tiệp Khắc có thân nhân ở Việt Nam, họ đã chuẩn bị hộ niệm rất là kỹ
từ lúc mới bệnh cho đến lúc lâm chung. Khi ra đi thoại tướng rất tốt đẹp. Điều
này làm cho tôi thật là mừng vui.
Cũng ngày hôm nay ở bên tây Úc có một vị ung thư, chắc có lẽ cũng
đang chờ từng ngày để ra đi, có nhắn tin ngỏ ý mời Diệu Âm qua bên đó hộ niệm.
Diệu Âm chưa dám nhận lời, nhưng nếu cần, thì cũng có thể bay qua một vài hôm
để giúp ích cho chư vị đó tiếp tục hộ niệm.
Vị này bản thân là Phật Giáo, mà gia đình chồng con thì Thiên Chúa
Giáo. Hôm trước đi qua bên đó, Diệu Âm cũng có cơ duyên gặp được vị này và
khuyên vị này niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, thì vị này đã hạ quyết tâm nhất định
sẽ vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, không sợ chết nữa. Trong lúc nói chuyện đó
thì có một người con đang ngồi bên cạnh, người con theo Thiên Chúa Giáo, Diệu Âm
cũng khuyên người con hãy cố gắng hỗ trợ cho mẹ vãng sanh. Người con đã đồng ý.
Trong những ngày Diệu Âm nói chuyện ở Perth, thì hai vợ chồng của
người này, tức là người bệnh và người chồng có đến nghe. Như vậy là do cái
duyên mình khuyên trước. Nếu mà người ta tha thiết quá, nhất là gia đình tha
thiết thì Diệu Âm có thể bay qua, hiện tại thì đang sắp xếp thời giờ để điện
thoại khai thị. Chúng ta đang nói khai thị, thì chúng ta bây giờ cũng khai thị
luôn, tức là hướng dẫn qua điện thoại.
Ấy thế, mà tại Brisbane này, ở sát bên cạnh đây, cũng có một người
bị bệnh ung thư đang mê man bất tỉnh trong bệnh viện, nhưng mà không dám đi, là
tại vì cái duyên không có. Gia đình hồi giờ không tu, người này không biết niệm
Phật. Lúc đang bệnh thì có người tới khuyên là nên liên lạc sớm để nhờ Niệm
Phật Đường đến giúp cho, nhưng người ta không chịu. Bây giờ đã đến lúc mê man
bất tỉnh trong bệnh viện rồi, thì xin thưa thật rằng dù cả cái Niệm Phật Đường
của chúng ta đến đó niệm Phật, thì một trăm phần tìm không ra một phần để cứu
được người này! Cho nên ở gần lại vô duyên, còn ở xa mà lại hữu duyên. Không
biết đâu mà nói…
Chúng ta đang nói về “Khai Thị”, thì xin thưa là khai thị
cho một người, không phải là đợi đến lúc đã nằm trong bệnh viện, hấp hối hay
chuẩn bị ra đi rồi mới khai thị, lúc đó không còn cách nào khai thị được nữa
đâu.
Mà “Khai Thị” được
là…
– Ngay trong lúc còn đang tỉnh táo,
– Ngay trong lúc còn đi ngờ ngờ,
– Ngay trong lúc còn đang nói chuyện,
– Ngay trong lúc biết rằng mình có nạn khổ,
– Ngay trong lúc biết rằng mình có bệnh nan y
không thể nào vượt qua nổi…
Cho nên khi cái duyên đến, thì những người này sẽ được chúng ta
đến khai thị, hướng dẫn. Khai thị hướng dẫn rồi thì chắc chắn, nếu mà người đó
có thiện căn, có phước đức, thì họ sẽ thấy rõ đâu là phước? Đâu là họa?… Khi chưa
ngộ đạo, người ta thấy cái bệnh trầm kha tưởng rằng là họa, nhưng khi hiểu được
đạo rồi thì rõ ràng cái bệnh trầm kha đến, nó trở thành là một cái bài pháp tuyệt
vời để giúp cho họ ngộ ra tất cả con đường giải thoát. Nếu biết niệm Phật, họ
biết nguyện vãng sanh, họ biết tin tưởng vào pháp môn niệm Phật, thì bắt đầu từ
đó chắc chắn họ không còn chết nữa…
Chứng tỏ rằng trong bảng cầu siêu của chúng ta hôm nay có thêm hai
người, hai người này tôi nghĩ rằng không phải họ chết đâu, họ vãng sanh đó. Tại
vì trước những ngày tháng mà họ sắp sửa buông xả báo thân, đã có người tới
hướng dẫn đàng hoàng. Họ đã bắt tay nói rằng, “Tôi quyết lòng đi về Tây
Phương”…
Hỏi:
– Bác có sợ chết
không?…
– Không! Không sợ chết.
– Bác muốn làm cái
gì?…
– Tôi muốn đi về Tây
Phương.
Tín–Hạnh–Nguyện đầy
đủ. Bên cạnh có một số người túc trực niệm Phật, nhắc nhở, nhất định ta thấy
rằng, cách thức để thoát vòng sanh tử đã có sẵn trong bàn tay, trước bàn chân,
chứ không ở đâu hết. Ấy thế, có những người vì quá tham chấp, không chịu gỡ ra,
không chịu ngộ đạo, để sau cùng đành đoạn bỏ con đường giải thoát, an lạc, để
đi theo con đường đọa lạc, chịu khổ đau hàng vạn kiếp!…
Ngày hôm qua mình có đưa ra những cái dạng mất phần vãng sanh, thì
bây giờ đây mình tiếp tục câu chuyện đó. Tại sao lại mất vãng sanh? Là tại vì “Chấp”.
Khai thị là gỡ những cái chấp ra. Thường thường cái chấp mà không gỡ được thì rất
dễ bị phiền não. Một khi bị phiền não rồi, bây giờ có niệm Phật… thì cái
miệng niệm, nhưng cái tâm thì phiền não! Thôi chịu thua! Không thể nào có thể
vãng sanh được!
Ví dụ, người mẹ quyết ở tại đây, không chịu ở chỗ kia, đều là do cái
“Chấp”! Chính vì cái chấp của mình mà đưa đến ách nạn cho chính mình.
Chứ nếu người mẹ không chấp, ở chỗ nào cũng được thoải mái, thì rõ ràng người
mẹ đâu bị nạn?
Còn người con thì cũng “Chấp”, vì nghĩ rằng ở chỗ này mới
thuận lợi, nhất định không được ở chỗ kia. Vì người con chấp như vậy làm cho
người mẹ bị phiền não. Nếu người con không chấp, mẹ ở đâu thì con chiều ý mẹ ở
đó, thì rõ ràng có thể giải cứu được cho người mẹ rồi…
Tất cả những sự cố này chính là những lời khai thị cho chúng ta.
Cho nên khai thị không phải là khai thị cho những người mê man bất tỉnh, mà
khai thị cho những người tỉnh táo, trong lúc còn khỏe. Tất cả những điều này là
kiến thức cho chính chúng ta để sau này chúng ta khỏi bị ách nạn.
Hòa Thượng Tịnh-Không thường nói: “Nhân quả bất không”.
Câu này hợp với căn cơ. Đừng có chấp, vì chấp là cái Nhân trong lục đạo, Nhân
trong lục đạo thì cái Quả trong lục
đạo. Chính vì vậy Ngài nói, một người muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc mà
còn đố kỵ với một người nào thì không được vãng sanh. Đây chính là “Nhân quả bất không”…
Một câu nói rất đơn giản, Ngài nói cho chúng sanh phàm phu, chúng ta
phải áp dụng ngay lập tức thì ta vãng sanh Tây Phương. Còn những chuyện cao
quá, chúng ta cần chi mà biết tới?
Ví dụ, thường thường Diệu Âm hay nói, một người muốn vãng sanh về
Tây Phương mà:
– Sợ ánh sáng cũng mất vãng sanh.
– Sợ bóng tối cũng mất vãng sanh.
– Sợ ma cũng mất vãng sanh.
– Sợ chết chắc chắn mất vãng sanh liền…
Sợ cái gì thì mất vãng sanh vì cái đó. Kỳ lạ lắm!…
Không sợ cái gì cả. Vì không sợ thì tự nhiên tâm mình mới an định
được. Có nhiều người nói tôi sợ bóng tối quá, nhiều lúc ở đó người ta mở đèn
sáng trưng nhưng mà không biết tại sao chính người đó lại thấy tối hù!… Vì
sao vậy? Vì nên nhớ, ngoài cái đèn ra còn có những vị oan gia trái chủ, người
ta che mất ánh sáng đó đi, làm cho mình thấy tối hù. Hễ ghét một người nào thì
thường thường khi bệnh xuống, lúc lâm chung, trong pháp hộ niệm khuyên rằng không
được để người mà bị người bệnh ghét tới hộ niệm cho họ. Nhưng nhiều khi chính người
bị mình ghét đó lại tới hộ niệm cho mình, khi mình vừa thấy thì tự nhiên phiền
não nổi lên. Phải chăng, vì cái ghét này mà mình mất vãng sanh? Có nhiều lúc
chính người đó không đến, hoàn toàn không ai cho người đó đến hết, nhưng thật
sự oan gia trái chủ đã biết rõ trong tâm của mình, họ đã ứng hiện ra người đó
tới, tới mà chọc mình, phá mình nữa, nhất định mình sẽ nổi cơn phiền não lên mà
mất vãng sanh…
Cho nên ngài Tịnh-Không nói những câu hết sức là cụ thể để cho ta
vãng sanh. Tuyệt đối, không được chấp. Ở cái nhà nào cũng được, người ta niệm
lớn tiếng cũng được, người ta niệm nhỏ tiếng cũng được, đừng có chấp cái gì
hết. Nếu mình không chấp rồi, thì cần chi phải khai thị nữa?…
Như bà Bác ở Inala đó… Bác nói, bây giờ cái chân đau?… Bỏ
luôn! Rõ ràng không chấp. Không chấp thì tự nhiên chân thì đau, nhưng bà Bác đó
vẫn tỉnh bơ. Bà nói: “Bỏ luôn”! Đúng không?
Chứ nếu mà bà Bác này chấp…
–Trời ơi tôi tu thế này, tu
nhiều như vậy đó, tôi niệm Phật nhiều như vậy đó, con tôi xuất gia như vậy, tại
sao tôi bị bệnh như thế này?… Tại sao tôi bị như thế này?… Tôi buồn không
tưởng tượng được!…
Nếu chấp vào đó, nhất định cái chân này nó hành Cụ đến mê man bất
tỉnh luôn, không được vãng sanh. Nhưng vì không chấp nên bà Cụ cứ vững tâm.
– Cái chân này hư hả?… Bỏ
luôn!
– Chân này thúi hả?…
Bỏ luôn!
– Thân này tôi cũng
bỏ luôn!…
Bà Cụ nói vậy là bà Cụ không còn chấp nữa.
Chính vì vậy, xin thưa với tất cả chư vị, khai thị không phải là
chỉ khai thị với người bệnh, mà còn khai thị cho chính chúng ta, để chuẩn bị
cho ngày lâm chung chúng ta vượt qua những ách nạn đó.
Khi hộ niệm, ngồi trước người bệnh chúng ta cũng nói những lời
này: “Bác đừng có chấp nghe bác”. Nhưng thật sự, nếu không giảng giải
trước, không được học đạo trước, không có niệm Phật trước… mình nói dù đến
một trăm lần nhưng người đó cũng chấp, thì thôi cũng đành chịu thua!…
Vì vậy, cái gì cũng phải lo trước, đừng nên lo sau thì tự nhiên
con đường vãng sanh của chúng ta an nhiên tự tại. Rõ ràng là người ta đã được
vãng sanh thật sự.
Mình ở đây…
– Ngày ngày đều hướng dẫn hộ niệm vãng sanh.
– Ngày ngày đều hướng dẫn khai thị như thế nào.
– Ngày ngày đều hướng dẫn hộ niệm như thế nào.
Thì làm sao chúng ta mất được con đường đi về Tây Phương Cực
Lạc?…
Nam Mô A-Di-Đà-Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 6)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Kính
bạch Sư Cô cùng chư vị đồng tu. Trong pháp hộ niệm có phần hướng dẫn cho bệnh
nhân, phần điều giải oan gia trái chủ. Hôm nay chúng ta đang nói đến phần hướng
dẫn bệnh nhân.
Hướng
dẫn bệnh nhân nói nôm na ra là “Khai Thị”, chứ thật ra là nhắc
nhở, khuyên nhủ để cho người bệnh phát khởi tín tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ.
Phương pháp hướng dẫn bệnh nhân không phải là mình đem pháp Phật ra giảng giải
cho họ, mà như mấy ngày hôm nay chúng ta nói, là gỡ rối cho bệnh nhân. Chúng ta
hướng dẫn vui vẻ, hòa nhã, tin tưởng giống như là mình đang nói chuyện. Người
hộ niệm đừng nên có những trạng thái quá căng thẳng khi hướng dẫn bệnh nhân.
Mấy
ngày hôm nay mình đi hộ niệm cho bà Cụ, chắc chư vị cũng đã trải qua một số lần
hộ niệm. Khi mình hướng dẫn cho bà Cụ, hay là một người bệnh nào, mình có thể cầm
tay, xoa vai bà Cụ, rồi mình mỉm cười, nói những lời hết sức tự nhiên. Vì
thường thường những người bệnh đang đối diện với cái chết, thấy vậy chứ có
nhiều sự căng thẳng, nhiều sự khủng hoảng trong đầu của họ. Khi gặp mình họ
cười, nhưng chưa chắc trong lòng của họ đã cười đâu!…
Để
giải tỏa chuyện này, chính người hộ niệm chúng ta phải thoải mái. Muốn cho
người bệnh tin tưởng, thì chính người hộ niệm của chúng ta tin tưởng. Khi tin
tưởng thì chúng ta có những lời nói tin tưởng, có những lời hướng dẫn tin
tưởng. Nhờ trạng thái thoải mái mà có ảnh hưởng tốt…
– Tâm
chúng ta an nhàn, nó truyền cảm đến người bệnh làm họ an nhàn.
– Tâm
chúng ta tin tưởng thì làm cho người bệnh tin tưởng.
–
Tâm chúng ta muốn vãng sanh, không sợ chết, thì những từ trường này nó cảm ứng tốt
lắm.
Có
nhiều người hộ niệm, nhất là những cuộc hộ niệm đầu tiên, họ rất căng thẳng! Vì
căng thẳng quá, nên người ta cười nhưng thật ra thì không phải cười, họ nói vui
nhưng thật ra thì âm điệu của họ không vui, làm cho người bệnh tự nhiên bị căng
thẳng. Thường thường những lần hộ niệm đầu tiên dễ bị thất bại là như vậy.
Nói
về niềm tin, hôm nay Diệu Âm cũng xin đem lời pháp của ngài Tịnh-Không ra thưa
thêm với chư vị để chúng ta tự mình củng cố thêm niềm tin vào pháp “Niệm
Phật vãng sanh”. Xin thưa thật, Diệu Âm đi đây đi đó, nhiều người thường
hay có câu hỏi như thế này:
–
Tôi thấy có người kia tu năm-sáu chục năm mà không được vãng sanh, thì làm gì
có chuyện hộ niệm được vãng sanh dễ dàng như vậy?…
Mới
ngày hôm nay cũng có một vị Thầy không phải là nói với Diệu Âm, mà nói với một
người ở bên Mỹ. Thầy nói là chính sư phụ của Thầy tu năm-sáu chục năm mà sau
cùng chưa chắc gì được vãng sanh, thì làm gì mà bây giờ lại có người cứ nói hộ
niệm được vãng sanh! Đây là tà pháp chứ không phải chánh pháp. Vị đồng tu đó
mới email hỏi Diệu Âm.
Khi nhận
được email đó, Diệu Âm mới trực nhớ tới chuyện này, đem ra thưa với chư vị, để
chúng ta củng cố niềm tin vững vàng. Mình được vững vàng thì mình nói vững
vàng, gặp những người bệnh tâm hồn bị chao đảo họ thấy tâm mình vững vàng, thì
tự nhiên họ vững vàng theo.
Hòa
Thượng nói: Mình vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc là do ba cái lực hợp lại,
gọi là “Tam Chủng Hữu Lực”.
Ba
cái lực này nó hợp lại.
–Thứ
nhất gọi là: “Niệm Hữu Lực” của mình. Cái ý
niệm của mình, sức niệm của mình là một cái lực chính yếu.
–Thứ
hai là: “Bổn Hữu Phật Tánh Lực”. (Hôm nay mình nói hơi cao cao
một chút cho vui, để củng cố niềm tin thôi, chứ đừng đem cái này ra mà nói với
người bệnh thì hỏng rồi, thì thua rồi!)…
– Thứ
ba là: “Phật Nhiếp Hữu Lực”.
Ba
cái lực này nó hợp lại, đưa một người phàm phu như mình vãng sanh về Tây phương
Cực Lạc. Bây giờ mình coi ba cái lực này nó yểm trợ tinh thần mình như thế
nào?…
Xin
thưa, mình thường nói, niệm Phật có ba điểm quan trọng là Tín-Nguyện-Hạnh. Thường thường từ
đầu tới cuối chúng ta chỉ nói tới ba điểm này thôi, chúng ta không nói gì đến
“Tam Chủng Hữu Lực” hết. Nhưng thật ra, Tín-Nguyện-Hạnh đó chỉ nằm trong
cái “Niệm Hữu Lực” của mình thôi chứ không phải là gì khác. Nói
đến Niệm Lực này thật ra là dành cho hàng phàm phu tục tử của chúng mình
đó.
“Niệm” là chính mình khởi cái tâm tin tưởng. Tin
tưởng nằm trong Niệm Lực. Tin tưởng rồi phải phát cái ý nguyện vãng sanh
tha thiết ra. Nguyện vãng sanh cũng nằm trong cái Niệm này, và từ đó mới
mở lời niệm A-Di-Đà Phật. Như vậy chữ “Niệm” có ba điểm là: Tín-Nguyện-Hạnh.
Sở
dĩ hồi giờ mình chỉ nói ba điểm này thôi là vì mình thuộc hàng phàm phu, nói ba
điểm này là đủ rồi. Khi ba điểm này đầy đủ rồi, thì tự nhiên “Bản
Hữu Phật Tánh Lực”
sẽ hiển hiện ra, đây chính là cái chân tâm tự tánh của mình. Nhờ Niệm Lực
của mình mà khơi dậy, làm cho cái chân tâm tự tánh của mình hiển hiện ra.
Như ngài
Đại-Thế-Chí Bồ-Tát nói rằng, thanh tịnh niệm câu A-Di-Đà Phật liên tục, không
cần nhờ cái gì khác, không vay, không mượn cái gì khác hết, thì tự đắc tâm
khai. Trong đó, tịnh niệm tương tục, thanh tịnh niệm câu A-Di-Đà Phật thuộc về
“Niệm Lực”. Tự đắc tâm khai thuộc về “Bản Hữu Phật
Tánh Lực”, tức là Phật Tánh của mình, trong căn bản của mình có tánh
Phật, tức là cái chân tâm của mình.
Ngài
Đại-Thế-Chí không nói gì về phần nhiếp thọ của A-Di-Đà Phật hết. Tại vì khi đi
về Tây Phương là gì? Là khi mình ráng niệm Phật, mình thành tâm, nhiếp tâm,
quyết lòng tin tưởng thì tự nhiên trong lúc đó chủng tử A-Di-Đà Phật trong tâm
của mình ứng hiện ra. Khi chủng tử A-Di-Đà Phật của mình ứng hiện ra, thì đó
chính là “Bản Hữu Phật Tánh Lực”. Bổn gốc của chúng ta có cái
lực, cái lực này sẽ tiếp xúc với quang minh nhiếp thọ của A-Di-Đà Phật. Phật
quang phóng tới nhiếp thọ tức là “Phật Nhiếp Thọ Lực”. Nhờ ba cái
lực này mà ta được vãng sanh về Tây Phương.
Như
vậy gặp người hỏi câu: Tại sao một người tu sáu-bảy chục năm mà không được
vãng sanh?…
Thì ta có thể trả lời:
– Là
tại vì họ không tin chuyện vãng sanh. Không tin chuyện vãng sanh thì chắc chắn
không nguyện vãng sanh, không niệm câu A-Di-Đà Phật. Tín-Hạnh-Nguyện không có.
–Tín-Hạnh-Nguyện
không có tức là Niệm Lực không có. Niệm Lực không có thì nhất định chủng
tử A-Di-Đà Phật không xuất hiện!…
–
Chủng tử A-Di-Đà Phật không xuất hiện thì làm sao được A-Di-Đà Phật phóng quang
tiếp độ về Tây Phương?
Nên
nhớ, A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ là tiếp độ cái chủng tử A-Di-Đà Phật. Đây
là cái chân tâm tự tánh của chúng ta đi về Tây Phương, chứ đâu phải là Ngài
tiếp độ cái cục thịt này! Trong lúc sống chúng ta dùng cái cục thịt này để chê bai
câu A-Di-Đà Phật, để bài bác câu A-Di-Đà Phật, để tuyên truyền rằng con người
không thể nào được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, thì làm sao cái “Bản Hữu Phật Tánh Lực” ứng hiện
được(?!)…
Chính
vì thế, dù cho tu hành suốt cả cuộc đời, không những suốt một cuộc đời, mà đời
đời kiếp kiếp đi nữa cũng không cách nào có thể vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc
được!…
Xin
thưa với chư vị, Diệu Âm trả lời câu hỏi này: Tại sao nhiều người tu rất nhiều mà không được vãng sanh, thì làm gì có
một người niệm Phật từ sáng đến chiều mà lại vãng sanh?… Cứ một
lần trả lời thì một lần nói khác đi, dù cũng là một câu hỏi giống nhau thôi.
Tại sao vậy? Vì:
– Nói
về Tín-Nguyện-Hạnh thì cũng được.
–
Nói về bài bác về pháp Phật thì cũng được.
–
Nói về không chịu đi thì cũng được…
“Nhất
thiết duy tâm tạo”. Họ không chịu đi thì làm sao họ vãng sanh về Tây Phương
Cực Lạc được?…
Ngài
Đại-Thế-Chí nói: Thanh tịnh niệm câu A-Di-Đà Phật liên tục. Ngài
Ấn-Quang là Đại-Thế-Chí tái lai, trong thời này, Ngài nói: Từ sáng đến
chiều, từ chiều đến sáng giữ mình trong câu A-Di-Đà Phật, giữ tâm trong câu
A-Di-Đà Phật đừng có để rời ra. Ngài nói đến nỗi, khi mình vào trong nhà
vệ sinh cũng phải thầm niệm Phật luôn, đừng có sợ.
Ngài
nói vậy đó. Để chi?… Để cố gắng trong tâm mình lúc nào cũng có câu A-Di-Đà
Phật, thì đây là một người có “Niệm Lực” mạnh.
Bây
giờ tự mình soát lại thử coi. Mình hỏi mình có niềm tin vững vàng chưa? Để xác
định là khi mãn báo thân mình có được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc hay
không? Tự mình phải trả lời câu
hỏi này…
Tất
cả đều khởi lên từ chỗ gọi là “Tín Lực”. Tín lực mạnh thì nhất
định “Niệm Lực” sẽ mạnh, “Tín
Lực” không mạnh thì nhất định “Niệm
Lực” sẽ yếu, mà “Niệm Lực” yếu thì nhất định “Bản
Hữu Phật Tánh Lực” không xuất hiện được.
Ví
dụ như Niệm Phật Đường này rõ rệt là từ sáng đến chiều chúng ta cứ một câu
A-Di-Đà Phật mà niệm, tụng kinh thì tụng kinh A-Di-Đà, niệm thì niệm A-Di-Đà,
tất cả đều một câu đó mà đi tới.
Niệm
Phật tại đây, về tới nhà tự mình phải kiểm lại mình có tiếp tục niệm Phật hay
không? Nếu về tới nhà mình nghĩ rằng một bài kinh kia hay quá, cũng là kinh
Phật tại sao chúng ta không niệm? Thôi, hãy chia thời giờ ra để niệm bài kinh.
Lúc niệm bài kinh đó tức là tu xen tạp. Tại sao mình niệm đủ thứ vậy? Tại
vì mình không tin câu A-Di-Đà Phật.
Ngài
Quán-Đảnh Đại Sư nói: “Đến
thời mạt pháp Kinh, Sám không còn hiệu lực để cứu một người phàm phu vượt qua
sinh tử luân hồi, chỉ còn câu A-Di-Đà Phật mà thôi”.
Ngài
Triệt-Ngộ nói: “Một câu A-Di-Đà Phật bao gồm
tam tạng kinh điển trong đó”.
Còn
đức Thế-Tôn thì nói sao? “Một câu
A-Di-Đà Phật là Pháp giới tạng thân trong đó”.
Mình
có tin nổi không?… Nếu mình tin nổi thì gọi là “Tín Lực” mình mạnh. “Tín Lực” mình mạnh thì nó sẽ dẫn tới chỗ
là “Niệm Lực” mạnh.
Ví
dụ như có nhiều người nói Chú lực của Phật phá nghiệp hay quá, tại sao mình
không dành thêm thời giờ để niệm chú? Đúng không? Đúng! Đúng để phá nghiệp. Tuy
nhiên, mình chủ tâm phá nghiệp thì lời Chú đó sẽ nhập vô trong tâm của mình, nó
chia làm hai cái xác suất ra. Khi nằm xuống, coi chừng lúc đó cái tâm của mình
cứ lo niệm Chú, niệm Chú… Niệm Chú tức là chủ tâm phá nghiệp. Chủ tâm phá
nghiệp, nhưng thật ra lúc đó chưa chắc gì cái tâm mình chí thành! Lúc đau, lúc
bệnh, lúc than… lộn xộn đủ thứ, thành ra nghiệp chướng của mình vẫn không
cách nào phá hết! Mà chủ tâm phá nghiệp thì khi còn nghiệp chắc chắn sẽ theo
nghiệp thọ báo.
Trong
khi một câu A-Di-Đà Phật phá tan 80 ức kiếp nghiệp chướng sanh tử trọng tội. Như
vậy niệm Phật vẫn phá nghiệp. Nhưng ngoài việc phá nghiệp, thì cái chủng tử
A-Di-Đà Phật trong tâm mình đã xuất hiện ra. “Bản Hữu Phật Tánh Lực” xuất hiện cộng với cái “Ý
niệm vãng sanh” của mình mạnh vô cùng sẽ tương ứng với “Phật
Nhiếp Hữu Lực”. A-Di-Đà Phật sẽ phóng quang tới đưa chúng ta về
Tây Phương.
Tương
ứng với ba chủng tử này chúng ta đi về Tây Phương.
Vấn
đề này vẫn còn dài quá và bây giờ thì hết giờ rồi. Ngày mai chúng ta sẽ tiếp
tục để củng cố thêm niềm tin. Nhất định chúng ta phải thẳng một đường đi về Tây
Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 7)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Niệm
Phật để quyết một đời này vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đây là sự thật,
trong kinh có nói.
Nhiều
người tu suốt cuộc đời, nhưng sau cùng không được vãng sanh. Khi thấy có người
được hộ niệm, được hướng dẫn, được khai thị rõ rệt đường đi… Họ đi về Tây
phương. Thấy vậy đúng ra nên giật mình tỉnh ngộ, kiểm lại phương pháp tu tập
của mình xem có gì sơ suất hay không, đó mới là điều hay. Một niệm giác ngộ có
thể giúp cho ta một cơ hội vượt thoát sinh tử luân hồi, vãng sanh Tịnh-Độ.
Có
người khi thấy có hiện tượng niệm Phật vãng sanh lại đâm ra nghi ngờ và nêu ra
câu hỏi: “Tại sao có người tu suốt đời mà sau cùng không thấy hiện tượng vãng
sanh, thì tại sao lại có những hiện tượng vãng sanh dễ dàng như vậy? Rồi đánh
giá rằng đây là điều không đúng!”.
Thành
thật mà nói, thật là tội nghiệp cho chúng sanh trong thời này!
Tu nhiều
năm mà không được vãng sanh! Thưa thật ra, có rất nhiều lý do để cho mình bị
vướng lại trong cảnh sanh tử luân hồi. Nhiều lắm! Câu hỏi này trước giờ Diệu Âm
trả lời cũng rất nhiều, nhưng mỗi lần trả lời mỗi khác. Vì sao vậy?…
Vì
niệm Phật mà:
–
Còn tham chấp thế gian cũng mất phần vãng sanh.
–
Còn cạnh tranh ganh tỵ cũng mất phần vãng sanh.
–
Rồi thấy người đó cạnh tranh ganh tỵ, ta lại ghét người cạnh tranh ganh tỵ đó, cũng
mất phần vãng sanh luôn.
–
Tới đây niệm Phật, về nhà ta không còn niệm Phật nữa, mà niệm cái khác. Sự xen
tạp này làm cho ta mất phần vãng sanh.
– Tu
suốt cả cuộc đời mà không chịu niệm Phật, không muốn về Tây Phương, thì dù cho
tu thêm một trăm đời nữa đi cũng không vãng sanh về Tây phương Cực Lạc.
– v.v…
Chính
vì thế, khi nói về vãng sanh Tây phương Cực Lạc, Phật đã nói rõ rệt, “mười
niệm tất sanh”. Nhưng
khi ta bị mất phần vãng sanh thì tự ta phải trả lời câu hỏi này: “Cách tu tập của chúng ta như thế nào?”. Tự mình phải trả lời lấy, chứ không thể khi thấy ta tu năm-sáu chục năm
mà mất phần vãng sanh, lại đổ thừa rằng niệm Phật không có vãng sanh… Có ý
niệm này thật quá oan uổng! Oan uổng hơn nữa, nhiều lúc chính ta không còn dịp
để nói lên lời đổ thừa này nữa đâu! Tại vì lúc đó ta đã bị kẹt rồi! Đã bị ách
nạn ở chỗ nào đó rồi! Chỉ còn có hàng thân thuộc, vợ con hay là hàng hậu bối
của chúng ta nói lời này mà thôi!… Cũng tội nghiệp cho họ, một khi đổ thừa
như vậy thì niềm nghi nổi lên, niềm tin mất đi… họ lại tiếp tục âm thầm chìm
đắm trong sanh tử luân hồi, đọa lạc! Đây thật sự là một điều bất phước cho
chúng sanh!
Hôm qua chúng ta đưa ra ba cái “Chủng Lực”
để giải thích phần nào tại sao niệm Phật có người được vãng sanh, có người mất
phần vãng sanh.
Xin chư vị nhớ cho “Phật Nhiếp Thọ Lực”,
tức là sức nhiếp thọ của A-Di-Đà Phật bất khả tư nghì, mạnh đến nỗi mà chư Phật
nói rằng, tất cả chúng sanh trên mười phương pháp giới đều ở trong sự nhiếp thọ
của A-Di-Đà Phật.
Mình cứ tưởng tượng lực nhiếp thọ của đức từ phụ
A-Di-Đà giống như một khối nam châm rất mạnh, bất cứ chúng sanh trong mười
phương pháp giới (chứ không phải chỉ có trên quả địa cầu này) niệm danh hiệu
Ngài với Tín-Hạnh-Nguyện đầy đủ, thì được sức nhiếp thọ này thâu nhiếp
liền. Nhưng mà xin nhớ một điều như thế này… Dù sức nhiếp thọ của đức A-Di-Đà
mạnh như thế nào đi nữa, thì “Cục Nam Châm” này cũng chỉ hút
được “Thép Sắt” mà thôi, còn những thứ khác thì không hút được.
Chính vì vậy, nếu chúng ta ngày ngày trui luyện cái “Khối
Sắt Thép” của chính ta, trui luyện được cái cục thép “Tự Tánh Di Đà”
của chúng ta càng ngày càng lớn mạnh. Nghĩa là sao? Ở đây ta cũng niệm Phật, về
nhà ta cũng niệm Phật. Sáng sáng, trưa trưa, chiều chiều một câu A-Di-Đà Phật
mà niệm. Nghĩa là cục sắt “Bổn Hữu Phật Tánh” của chúng ta càng ngày càng lớn lên, càng ngày càng tinh luyện,
thì xin thưa rằng cái “Tự Tánh Di Đà” của chúng ta nhất định không cách
nào mà thoát được sự nhiếp thọ của “Khối Nam Châm” vĩ đại của đức
A-Di-Đà.
Nếu ở đây chúng ta niệm Phật, về nhà chúng ta niệm cái
khác, chúng ta làm cái khác, tu xen tạp… Tu xen tạp thì ta không tinh luyện cục
sắt “Bổn Hữu Phật Tánh” của ta. Chúng ta muốn thêm một chút bột
mì vào, thêm một chút đất sét vào, thêm một chút sỏi đá vào, làm cho nó nặng
chình chịch! Những thứ thêm này sẽ bao cái cục sắt “Bổn Hữu Phật Tánh”
của chúng ta lại.
Xin thưa với chư vị, sức nhiếp thọ của A-Di-Đà Phật có
mạnh gì đi nữa thì cũng không cách nào hút được cục bánh mì đó đâu à! Không thể
nào hút được cục chì đâu à! Không thể nào hút được đất sét đâu à!… Nếu sơ ý để
cho “Tự Tánh Di Đà” của chúng ta đã bị chìm trong những cái khối xen tạp
đó rồi… Chịu thua!…
Chính vì vậy, trong pháp niệm Phật chư Tổ thường nhắc
đi nhắc lại rằng, tối kỵ trong điều tối kỵ là xen tạp!
Tại sao lại xen tạp?… Đối với ngài Mộng-Đông Tổ Sư,
có người hỏi:
– Xen tạp là sao? Ngài nói:
– Niềm tin yếu quá đi con! Rồi Ngài
bỏ đi mất. Lại hỏi:
– Tại sao lại xen tạp?
– Niềm tin yếu quá đi con!
– Tại sao lại gián đoạn?
– Niềm tin yếu quá đi con! Rồi
Ngài bỏ đi…
Hỏi cái gì Ngài cũng nói: “Niềm tin yếu”
hết trơn. Người tu xen tạp tại vì niềm tin vào câu Phật hiệu yếu! Hôm qua mình
nói, “Tín-Lực” mà
không vững đưa đến “Niệm-Lực” không vững. “Niệm-Lực”
không vững chính là sự tự niệm không vững, thì tự nhiên “Bản-Tánh” của chúng ta khơi ra không được.
Tại sao khơi ra không được? Vì nó bị bao trong cục đất sét rồi, bị bao trong cục
xi măng rồi, bị bao trong những cái khác rồi… Một cái khối nam châm dù vĩ
đại, nhưng không cách nào có thể hút được cục đất sét… mà chỉ có thể hút sắt
mà thôi.
Biết vậy, khi ngồi trước bệnh nhân, mình cần khuyến
tấn như thế nào để cho bệnh nhân nhiếp tâm lại niệm một câu A-Di-Đà Phật. Nếu mình nghĩ:
– À! Bà này nghiệp nặng
quá! Ta phải bày bài kinh sám này để bà tụng cho hết nghiệp.
Tức là thêm một cái gì đó cho bà, chứ không phải ta rèn
cho bà cái cục sắt “Bổn Hữu Phật Tánh”. Nên nhớ, trước giờ phút chuẩn
bị chết rồi, mà còn đọc bài sám đó để gỡ nghiệp! Gỡ được bao nhiêu nghiệp đây?
Gỡ không được đâu!…
– À! Bà này bị nạn quá! Ta phải bày cho một phương
pháp nào khác để gỡ cái nghiệp này ra.
Vô tình ta cứ gỡ từng nghiệp, từng nghiệp một. Trong
khi đó, cận tử nghiệp dồn lại từ hàng vô lượng kiếp đang công phá người đó, mà
ta cứ muốn gỡ từng nghiệp, từng nghiệp, gỡ đến vô lượng kiếp nữa cũng chưa chắc
gì xong!…
Có nhiều người rất sơ ý, khi đi hộ niệm không nhắc cho
người bệnh niệm câu A-Di-Đà Phật, mà cứ nhắc đến những chuyện khác. Thật đáng
tiếc!…
Chính vì thế, khi đi hộ niệm nếu không làm cho người bệnh
nhiếp tâm vào một câu A-Di-Đà Phật mà niệm, lại cứ thêm cái này một chút, thêm
cái kia một chút… Nhất định người này khó có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc
được.
Hôm qua có một câu hỏi: “Tu suốt đời khi ra đi không
có hiện tượng vãng sanh, thì với bà cụ này, làm sao hộ niệm một ngày, hai ngày
mà được vãng sanh?”. Câu
trả lời có thể là vì lý do này đây: Tu suốt cả cuộc đời nhưng người ta không
chịu trui luyện, tinh luyện cái cục sắt, cái cục thép, cái cục nam châm Tự Tánh
Di Đà của họ, mà họ cứ bắt Tự Tánh Di Đà của họ phải đèo theo nhiều
thứ quá… Cái gì cũng muốn đèo vào: Tiền bạc, tình cảm, buồn phiền, thị phi,
lý luận, v.v… Cái gì cũng đèo vô hết…
Họ bắt cái Tự Tánh Di Đà phải đèo nhiều thứ
quá! Những thứ đó chúng bao Tự Tánh Di Đà
lại, trùng trùng, điệp điệp. Ấy thế, đến lúc chết họ cũng không chịu bươi những
thứ đó ra, để cố gắng niệm câu A-Di-Đà Phật, hầu giúp cho Bản Hữu Phật Tánh
này, giúp cho Tự Tánh Di-Đà này phóng ra hầu được cục nam châm hay lực nhiếp
thọ của A-Di-Đà Phật hút đi về Tây Phương, mà
còn tiếp tục bao thêm nữa. Bao thêm nào là: tình cảm, tiền bạc, ngạo mạn, lý
luận, v.v… Bao thêm đủ thứ hết!…
Hôm trước về Việt nam, có một vị Thầy đến nói chuyện,
Diệu Âm ngồi nghe mà muốn rơi nước mắt! Thầy nói rằng sư phụ của Thầy lúc sắp
xả báo thân… Trời ơi! Các người đệ tử đến ôm, nắm, níu, kéo… Trời ơi! Người
này khóc!… Người kia khóc!… Đến nỗi không để sư phụ nói một câu nào! Không
cho sư phụ giảng một câu nào! Vì quá thương mà hàng đệ tử vô tình đã làm hại
Ngài!…
Khi còn sống Ngài không dặn dò kỹ, để đến lúc cuối
cuộc đời bị tình cảm chen vào, quyến luyến chen vào… đến nỗi lúc tắt hơi rồi,
thì hàng năm-sáu người đệ tử cứ nhào đến, người thì kéo tay, người thì kéo
chân:
– Sư phụ ơi!… Sư phụ ơi!… Sư phụ không được đi. Sư
phụ phải ở lại với chúng con. Sư phụ đi rồi con nương dựa vào ai đây?…
Kết cuộc sau cùng rồi… Không thể tưởng tượng
được!…
Chính vì vậy, xin thưa với chư vị, tu hành phải chuyên
nhất mới được. Khai thị chính là làm cho người bệnh tín tâm vững vàng, nhất định
một câu A-Di-Đà Phật niệm tới, thì “Bổn Hữu Phật Tánh” ngay lúc đó ứng hiện. Ứng hiện
ra thì sự “Nhiếp Thọ” của Phật sẽ gia trì, tiếp độ người đó được vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà-Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 8)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
“Hướng Dẫn – Khai Thị”
trong pháp hộ niệm. Khai thị cho người bệnh là để giúp cho người bệnh có một
cái vốn căn bản vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Để
cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng
hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước. Người hộ niệm mà
vững vàng thì sẽ truyền sự vững vàng đó cho người bệnh. Nhiều người đi hộ niệm,
nhưng phương pháp hộ niệm chính mình không vững lắm, thì khi đối trước người
bệnh sẽ lúng túng hoặc là sơ ý để sự chao đảo của mình hiện ra làm cho người
bệnh mất niềm tin. Từ đó người bệnh không biết đâu để nương tựa.
Xin
thưa với chư vị, tu pháp môn nào khi đến cái điểm cuối cùng được chứng đắc viên
mãn thì đều đi về một chỗ hết. Nghĩa là giống nhau, không khác. Nhưng về cách
tu hành thì có khác. Cũng giống như lên một đỉnh núi, đỉnh núi thì có một,
nhưng đường đi lên đỉnh thì có nhiều. Người ở hướng đông đi đường hướng đông,
người ở hướng tây đi đường hướng tây, gọi là “Đồng quy nhi thù đồ”.
“Đồng
Quy” là cùng về một chỗ, nhưng “Thù Đồ” là đường đi khác nhau.
Nếu
chúng ta đang ở hướng đông thì phải nghiên cứu cho thật kỹ đường hướng đông.
Nếu chúng ta đang ở hướng bắc cứ một đường hướng bắc mà đi. Một đường mà đi thì
nhất định sẽ mau lên tới đỉnh. “Thù Đồ” là khác đường đi, cho nên
những chướng ngại, những khó khăn, những thủ thuật ở mỗi đường mỗi khác nhau, không
giống nhau.
Trở
về vấn đề tu hành cũng tương tự như vậy. Trong Phật giáo chúng ta, nói nôm na
ra, có thể chia làm hai loại tu, một loại là Tự Lực, một loại là Nhị
Lực. Nói về sự chứng đắc rốt ráo thì loại tự lực gọi là tự chứng đắc để
thành đạo. Còn bên nhị lực, nói chung là pháp môn Tịnh-Độ thì được A-Di-Đà Phật
nhiếp thọ, như hôm qua chúng ta có nói đến “Phật Nhiếp Thọ Lực”.
Nói
về công phu tu hành thì cũng khác. Người tu tự lực thì họ chú trọng về
Thiền-Định, còn người tu nhị lực thì họ nhiếp tâm vào câu A-Di-Đà Phật gọi là
Niệm Phật. Hay nói khác nữa, một bên là Thiền-Định, một bên là Niệm
Phật.
Nói
về nhu cầu hay sự thử thách, thì cái thử thách chính của người tu tự lực là
phải “Phá Nghiệp, Đoạn Nghiệp”. Còn người niệm Phật để vãng sanh
về Tây Phương thì sự đòi hỏi chính yếu của họ là “Niềm Tin”. Quý
vị thấy có khác nhau không?
“Thù
Đồ” nghĩa là đường đi khác nhau. Người tu tự lực, đi theo con đường tự lấy
lực của mình tu chứng, thì vấn đề phá nghiệp đối với họ rất quan trọng. Họ nhất
định phải tìm cách đoạn cho hết “Nghiệp Hoặc” mới có thể chứng được “Chân Thường”. Đối với họ vấn đề phá nghiệp là điều
quan trọng hàng đầu.
Đối
với người niệm Phật, thì điểm quan trọng nhất, sự thử thách tối quan trọng của
họ chính là “Tín Tâm”. Rõ ràng có sự khác nhau.
Nếu mình
không vững đường tu, thì tâm hồn rất dễ bị phân vân, chao đảo. Ví dụ đang niệm
Phật, khi ra đường gặp một người… họ nói rằng, nếu không đoạn Nghiệp Hoặc,
thì làm sao có thể vượt qua tam giới? Làm sao có thể chứng được Chân Thường? Nghe
lý luận như vậy, mình thấy hay quá. Đúng quá! Như vậy, bây giờ ta về cũng quyết
lo đoạn nghiệp mới được… Nhưng làm như vậy, thì có khác gì ta đang đi con
đường hướng đông, nghe người ta nói những chướng ngại của đường hướng tây, lại
quay ra nghiên cứu phá chướng ngại của đường hướng tây, trong khi chân ta thì
đang bước trên đường hướng đông!… Phải chăng, ta sẽ gặp không biết bao nhiêu
trở ngại! Sau cùng đưa đến thất bại?!…
Một
người tự tu, quyết lòng đoạn Hoặc để chứng Chân, khi nghe người Niệm
Phật nói rằng, nhu cầu căn bản để xác định con đường thành đạo là “Niềm
Tin”, thì người ta ngỡ
ngàng, không cách nào có thể chấp nhận được?! Đây là điều dễ hiểu. Lý do vì
người ta không đi con đường niệm Phật. Không đi theo con đường niệm Phật thì
chắc rằng người ta không biết rõ nhu cầu của đường niệm Phật là gì? Người ta
không biết nên mới nghĩ rằng điều này sai rồi! Anh nói sai rồi! Họ không thể
nào tin được rằng, một người không phá nghiệp mà có thể chứng đắc được!? Lý do chính
là vì họ chỉ biết con đường phá nghiệp, đoạn nghiệp, gọi là “Đoạn Hoặc Chứng
Chân”, chứ họ chưa từng đi qua con đường “Tín-Nguyện-Hạnh” vãng sanh
Tây Phương Cực Lạc. Thế thì làm sao họ có thể hiểu được chân lý của con đường
niệm Phật?
Chính
vì vậy, ví dụ như một người đang ngày đêm niệm Phật, khi nghe một người khác
nói rằng, nếu anh không đọc bài sám hối này, anh không phá cái nghiệp kia, thì
anh không cách nào có thể thành đạo được. Anh phải lo ngày đêm, lo sám hối mới
đúng. Mình nghe người ta nói đúng quá mới chạy về nhà lo sám hối, bỏ mất con đường
Tín-Hạnh-Nguyện của mình. Về sự suy nghĩ thì hình như đúng. Về đường đi
thì sai!…
Một
ví dụ đơn giản, như Hòa Thượng Tịnh-Không thường hay nói. Có một cái nhà lầu
mười tầng… Có người nói:
– Anh
cứ bước theo nấc thang thứ nhất, rồi bước lên nấc thứ hai, bước nấc thứ ba,
bước nấc thứ tư… Bước hết tầng thứ nhất, rồi bước lên tầng thứ hai, tầng thứ
ba, thứ tư, thứ năm… đến thứ mười. Lúc đó anh mới lên tới tầng thứ mười.
Có
người lại nói:
– Tôi
không bước một nấc thang nào hết, tôi cũng có thể lên tới tầng thứ mười.
Người
ta nói:
– Làm
gì có chuyện đó?
Nhưng
thưa với chư vị:
– Có!
– Có chỗ nào?…
– Người
này không bước theo nấc thang, mà bước vào thang máy. Họ không bước theo từng
nấc thang nào hết. Trong thang máy họ chỉ bấm nút thì lên tới nơi liền.
Rõ
ràng, người mà bước từng nấc, từng nấc thang họ không tin cái chuyện không bước
mà tới, là tại vì người ta không biết đường bước vào thang máy.
Chính
vì thế, khi tu hành ta phải nắm cho vững nguyên tắc tu tập, chứ không thể nào
chao đảo được. Trong đồng tu chúng ta, có những người đêm đêm thì tới đây niệm
Phật, về nhà thì đọc hết chú này đến chú nọ, tụng hết pháp sám này đến pháp sám
nọ, hết tìm cách diệt nghiệp này đến nghiệp nọ… Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói:
– Thấy
người ta tụng Chú, mình cũng bắt chước tụng Chú. Thấy người ta ngồi Thiền, mình
cũng bắt chước ngồi Thiền. Thấy người ta bưng bình bát khất thực, mình
cũng bắt chước bưng bình bát… (Ngài
nói) Sự-sự không xong, việc-việc không thành, đến sau cùng lỡ cỡ làng càng
không biết đường nào mà thành tựu cả. Đây là cảnh đáng thương nhất của người tu
hành.
Thật
ra đây là hạng người đi không vững!…
Chính
vì vậy, đối trước một người bệnh, ta khai thị là để cho người ta chuyên nhất
con đường niệm Phật vãng sanh. Ta không được đem cái tâm chao đảo, đem cái tâm
hồ nghi mà gởi gắm cho người bệnh. Ví dụ như hôm trước có một cuộc hộ niệm mà
tôi đã vắng mặt, nhiều người đã gắn cho người bệnh không biết bao nhiêu thứ
hết. Nào là kinh sám hối cũng bắt người ta tụng, Chú cũng bắt người ta đọc, Bát
Nhã Tâm Kinh cũng tụng cho người ta luôn…
Tại
sao chúng ta không nắm cho vững nguyên tắc là muốn cho người bệnh được vãng
sanh về Tây phương Cực Lạc thì phải:
– Làm
sao cho tâm của họ chuyên nhất một câu “Nam Mô A-Di-Đà Phật”.
–
Làm sao cho ý niệm của họ chuyên nhất một thứ là: “Nguyện vãng sanh về Tây
phương Cực Lạc”.
–
Làm sao cho “Niềm Tin” của họ phải vững như tường đồng vách sắt.
– Tín Lực mà vững thì Niệm Lực sẽ vững.
– Niệm Lực vững thì nhất định Bản Hữu Phật Tánh ứng hiện, Tự Tánh
Di Đà ứng hiện.
– Tự Tánh Di Đà ứng hiện thì nhất định được A-Di-Đà Phật sẽ tiếp
độ về Tây phương Cực Lạc.
Vậy
thì, muốn khai thị cho người bệnh nhất định ta phải khai thị cho chính ta
trước. Ta phải tự kiểm lại chính ta trước. Ta có đi tạp loạn hay không? Nếu ta
đi tạp loạn thì sau cùng chính ta sẽ bị trở ngại! Ta sẽ bị kẹt! Xin thưa với
chư vị, lúc đó nếu có Diệu Âm này đứng trước chư vị, thì Diệu Âm sẽ nói như thế
này:
– Hương
linh Trần văn X ơi! Tại sao suốt đời anh niệm Phật mà bây giờ anh còn mê mờ,
tham chấp, không chịu giác ngộ niệm câu A-Di-Đà Phật để về Tây Phương? Tương
lai vạn kiếp anh phải tự chịu lấy. Tôi đã nói hết tất cả rồi… Anh không đi
thì ráng mà chịu!…
Tôi
sẽ nói như vậy đó. Nghĩa là, tự mình phải chịu trách nhiệm lấy tương lai của
chính mình.
Mong
chư vị hiểu được chỗ này. Nhất định càng ngày Tín Lực càng mạnh, phải
thật mạnh, chuyên nhất mà đi. Đường vãng sanh nhất định ở ngay trước mũi bàn
chân của chúng ta chứ không đâu hết.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 9)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
“Hướng Dẫn – Khai Thị” cho
người vãng sanh về Tây Phương Cực lạc, trong những ngày qua chúng ta có nhắc
đến chuyện phát nguyện. Hôm nay chúng ta nói về khai thị hướng dẫn để gỡ những gút
mắt của người sợ chết. Nếu còn sợ chết thì dù cho có người đến hộ niệm, niệm
Phật bên cạnh mình, mình cũng phải chết!
Ngày
hôm qua chúng ta nói người sợ nghiệp thì bị nghiệp quần thảo cho đến mê mê mờ
mờ không biết đường nào đi. Hôm nay chúng ta nói người sợ chết thì bị cái chết
nó bao vây cho đến chết luôn, không thể nào vãng sanh được!
Người
niệm Phật là người “Cầu sanh” chứ không phải là
người “Cầu chết”.
– Cầu Sanh là sanh về Tây Phương Cực Lạc.
–
Cầu Chết là tiếp tục lăn lộn trong cảnh sanh tử luân hồi, sáu đường khổ nạn! Mà
có thể khi xả bỏ báo thân này, chúng ta lại lượm một báo thân khác tồi tệ hơn!
Xấu xa hơn! Đau khổ hơn!… Đó là tại vì chúng ta không chịu nghe lời Phật.
Phật
dạy chúng ta không chết mà chúng ta cứ ứng hiện “Chữ Chết”
trong tâm, nên cảnh giới chết cứ hiện ra và bắt buộc chúng ta phải đi theo sự
chết. Theo sự chết nghĩa là “Tử”! Tử rồi chìm đắm trong
những cảnh đọa lạc để chịu “Khổ”! Chịu khổ rồi sinh lại,
sinh lại trong cảnh “Vô Thường” rồi lại chết! Cứ
tiếp tục chết đi rồi sanh lại trong những cảnh khổ đau bất tận mà không hay!…
Trong
khi chỉ cần ngộ đạo ra một chút thì chúng ta không còn chết nữa. Không còn chết
thì không còn sanh, gọi là “Vô Sanh”. Vô Sanh chính là đi
về Tây phương Cực Lạc hưởng đời an vui, sung sướng, thanh tịnh, trang nghiêm,
thọ mạng vô lượng vô biên kiếp để thành đạo Vô Thượng chứ không còn chết nữa.
Đây là sự thật.
Nhưng
xin thưa với chư vị, muốn khai thị được những lời này ta chỉ có quyền nói với
những người còn đang tỉnh thức, nói với những người còn nghe được, còn hiểu
được, còn đem lý trí ra để phán xét được… Chứ chúng ta không thể nào nói với
những người mê man bất tỉnh, mê mê muội muội trong cảnh khổ đau mịt mờ!
Chính
vì vậy, muốn cho người được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, không phải đợi cho
người đó khi đã mê man bất tỉnh trong bệnh viện rồi chúng ta mới đến hướng dẫn,
khai thị. Không phải vậy! Mà:
– Chúng ta phải khai thị trước.
– Chúng ta phải hướng dẫn trước.
– Chúng ta phải làm cho người ta hiểu trước.
Ví
dụ như trong những ngày qua chúng ta đã nói, những người không tin niệm Phật
vãng sanh thì xin nói thẳng với người đó rằng hãy mau mau tin đi. Nếu để đến
ngày mai mới tin, thì không chừng tối nay đã bị mê man bất tỉnh rồi! Không kịp
nữa đâu!… Đừng nên để đến tháng sau mới tin, thì coi chừng một tuần nữa chúng
ta đã bị hấp hối rồi! Không kịp nữa đâu! Đời vô thường sáng còn tối mất! Nhất
định phải xác định niềm tin. Vì đây là lời Phật dạy, vì đây là kinh Phật nói.
Có
rất nhiều người sợ chết, nếu hiểu đạo ra, muốn cho khỏi chết thì phải lo niệm
Phật để được “Sanh” về Tây Phương Cực Lạc. Đã sợ chết mà không chịu niệm
Phật tức là chấp nhận phải chết.
Tại
sao lại sợ chết? Tại vì cứ nghĩ rằng mình là cái cục thịt này. Muốn ngộ, hãy vô
nghĩa địa mà coi. Giả sử như lúc người ta bốc mộ, người ta đào lên, mình nhìn
thử xem dưới cái nấm mộ đó còn lại những gì?… Nhiều khi một khúc xương
cũng không còn nữa! Ấy thế mà cứ tham cái cục thịt này để đến khi chết, mình
phải theo cái cục thịt đó mà chui xuống dưới nấm mồ… Ba ngày sau bắt đầu nó
sình lên!… Bảy ngày sau bắt đầu nó thối ra!… Ấy thế mà mình cũng ráng bám
theo cái thân thối đó để mà ngửi mùi thối của cục thịt thối…
Nếu ngộ
được ra, thì rõ rệt mình đâu phải là cái thân thịt đó. Nếu mình là cái thân
thịt đó thì khi cái thân thịt đó chết, mình cũng tiêu luôn rồi. Nhưng không.
Mình đâu có chết!…
– Mình
thấy cái thân mình đàng hoàng mà.
–
Mình chui theo cái thân của mình đàng hoàng mà.
–
Khi cái thân của mình nó tan đi chỉ còn lại nắm xương, thì mình vẫn bám theo
cái nắm xương đó mà.
–
Khi cái nắm xương nó tan đi, thì mình lại bám vào cái cây, mình bám vào cái
bụi, mình lang thang khắp nơi. Nhiều khi khổ quá, đành phải chạy về khóc than
với con cháu!…
Rõ
ràng mình đâu có chết. Mình chỉ sống khổ mà thôi! Mình sống trong những cảnh
giới khác…
Bây
giờ đây mình có Niệm Phật Đường, có chiếc áo tràng để mặc. Khi lỡ bị “Chết”
rồi, mình không còn chiếc áo tràng mặc nữa, đêm đêm lạnh buốt xương cũng phải
chịu lấy bằng cái thân trần trụi! Thế mà cứ sợ chết. Đó là vì người quá mê mờ
mà chịu nạn!…
Còn
người không mê mờ thì sao? Ta không
phải là cục thịt này. Ta chỉ mượn cái cục thịt này trong tứ đại về dùng. Chúng
ta chỉ sử dụng nó mà thôi.
Vạn
vật vô thường! Khi cái thân còn khỏe thì ta sử dụng được, khi nó già yếu rồi
thì bắt buộc nó phải bỏ ta ra đi. Ta giữ nó không được. Ta giữ nó không được
thì dại gì mà bám theo nó để chịu nạn! Tại sao mình không liệng cái cục thịt
này đi, để thỉnh một cái thân xác khác?…
Giả
sử như mê mờ, mình thỉnh một cái thân có bốn cái chân, có hai cái sừng, có một
cái đuôi… Mình cày bừa cho người ta, rồi khi người ta thèm thịt, họ đè cổ
mình xuống, họ thọc huyết mình, họ lóc thịt mình ra… Nhậu!…
Lúc đó mình có chết không?
– Không! Mình cũng không chết. Mình đang bám
theo cái đường nước cống người ta đổ ra mà giận, mà hờn, mà thù hằn những người
mổ thịt mình, giết mình. Thật sự mình đâu có chết. Mình chỉ chịu khổ nhiều hơn
nữa mà thôi!…
Cho
nên, nói thẳng thắn ra:
–
Chính mình không chết.
–
Chính mình không tử.
–
Chính mình không sanh…
Mình
vẫn sống từ trong quá khứ vô thỉ cho đến tương lai vô chung.
– Chỉ
vì dại khờ mình tiếp tục chịu khổ!
–
Chỉ vì dại khờ mình tiếp tục chịu đọa lạc!
Nếu
giác ngộ ra mình niệm câu A-Di-Đà Phật đi về Tây Phương thì đời đời hưởng hạnh
phúc, đâu có gì là khổ nữa? Đâu có gì là đau nữa?…
Chính
vì vậy, cái phương pháp hộ niệm hay vô cùng, nó là cả một sự thâu tóm của pháp
môn niệm Phật cứu người vãng sanh.
Vừa
rồi tôi về Việt nam, ở tại làng của tôi có mấy người được vãng sanh. Tôi ở đó
chỉ một tuần lễ thôi, đêm đến thì có mấy chục người tới cộng tu với nhau, cộng
tu xong thì tôi đi ngủ, những người đó thì đi hộ niệm, người ta không cần tôi
theo nữa, họ giỏi quá rồi. Hộ niệm tới 11 giờ trưa hôm sau thì trở về báo
cáo… Hiện tượng vãng sanh, người bệnh ra đi để lại thoại tướng tốt bất khả tư
nghì! Một tuần lễ có hai người.
Tôi
ra ngoài Bắc, có một vị đó nói rằng, hồi hôm này tôi mới tiễn đưa một người
vãng sanh, rồi hôm kia tôi cũng tiễn đưa một người vãng sanh. Có hai-ba người
tới báo cáo như vậy. Nhìn thấy những hiện tượng vãng sanh mà họ vui mừng không
tưởng tượng được. Tôi đâu có phải là người hộ niệm, tôi chỉ được họ tới khoe mà
thôi. Hiện tượng vãng sanh. Niệm Phật vãng sanh có thể đạt lên tới hàng ngàn rồi,
quý vị biết không? Đếm không được nữa!… Đó là sự thật, tôi không dám nói láo
đâu à! Người nào phát tâm đi… mua một trăm cái máy quay phim, đem về phát cho
những ban hộ niệm đó để họ quay lại những cuộc vãng sanh cho quý vị coi. Nhiều
vô cùng nhiều…
Trong
những thời gian gần đây, tôi đi đâu cũng nói về hộ niệm. Tôi tích cực vận động
những người đã thấy được người vãng sanh, những người đã hộ niệm cho người ta
vãng sanh:
– Hãy tiếp tục vận động,
– Hãy tiếp tục giao lưu,
– Hãy tiếp tục phổ biến phương pháp hộ niệm ra.
Hễ chỗ
nào phổ biến rộng rãi phương pháp hộ niệm này, thì chỗ đó người ta vãng sanh
bất khả tư nghì. Chỗ nào không nhắc nhở tới pháp hộ niệm, thì năm này, năm sau,
năm nữa… tìm hoài, tìm hoài mà tìm không bao giờ gặp một người vãng sanh!…
Tại
vì sao?
– Tại
vì khả năng hộ niệm yếu quá! Đứng trước một người bệnh không biết làm sao khai
thị.
Tại
vì sao?
– Tại
vì người bệnh không biết gì về hộ niệm cả, nên cứ sợ chết. Sợ chết rồi thì
trong lúc mê man cái tâm sợ chết đó cứ tiếp tục bám theo những cái xương cái
tủy ung thư đó. Chịu thua rồi! Không gỡ ra được! Thế nên, người ta không được
vãng sanh!
Xin
thưa với chư vị, tại sao ở Việt nam lại có hiện tượng vãng sanh nhiều như
vậy?… Là tại vì ở đó đã có người:
– Họ
vận động phương pháp hộ niệm.
– Họ chỉ vẽ phương pháp hộ niệm.
– Họ lưu truyền phương pháp hộ niệm.
– Họ giải thích từng chút, từng chút phương pháp hộ niệm trong
đó…
Một
lần về như vậy, tôi hô hào pháp hộ niệm. Mà thật ra, bây giờ khỏi cần hô hào
nữa, người ta đi phát những tài liệu về hộ niệm, những tọa đàm về hộ niệm,
những băng đĩa vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, những bài vở về hộ niệm… Người
ta phát tâm mạnh lắm chư vị ơi!…
Một
lần tôi đi, phía sau xe có hàng mấy ngàn đĩa VCD. Nên nhớ một ngàn đĩa VCD là
cả một hộp lớn hơn cái bồ đoàn này. Đầy nghẹt hết. Người ta phát tâm như vậy
đó. Người ta chỉ xem và học hỏi từ đó thôi, ấy thế mà niệm Phật đâu vãng sanh
đó, niệm Phật đâu vãng sanh đó.
Vậy
mà có nhiều người còn:
– Ham
chi lý luận nhiều quá!
– Ham chi triết lý cao quá!
– Ham chi những đạo lý trên mây, mà đem cái
chủng tử A-Di-Đà Phật của mình trồng lên đám mây đó!… Làm sao mà nó có thể nở
ra cảnh Phật được?
– Hãy
đem chủng tử A-Di-Đà Phật cấy vào cái ruộng “Tịnh” đi. Cấy vào cái ruộng
Tịnh-Độ đi.
Cái
ruộng Tịnh-Độ cụ thể là gì? Là phương pháp hộ niệm. Cụ thể! Chắc chắn! Chính
xác! Để chi vậy? Để cho “Mười niệm tất sanh”.
Bây
giờ đây mình biết được phương pháp hộ niệm, mình chuẩn bị hết tất cả rồi. Xin
thưa, ngồi trước một người bệnh mà họ đã biết hộ niệm rồi, thì ta khỏi cần khai
thị nữa. Ta chỉ cần vỗ tay hoan hô họ, rồi chúng ta cùng niệm Phật trợ thêm
duyên cho họ đi vãng sanh. Chứ tới đó mà còn giảng lên, giảng xuống, bày lên,
bày xuống… đó thật sự là bạc phước lắm rồi! Bạc phước lắm rồi! Người không
biết gì hết, chúng ta mới phải khai thị. Người không biết gì hết, chúng ta phải
dẫn giải. Dẫn giải mà trong tình trạng mê man bất tỉnh, thì làm sao còn nghe
được nữa?!…
Biết
được chuyện này, xin chư vị, muốn cứu người vãng sanh không có gì khác hơn là
vận động tối đa phương pháp hộ niệm. Bao nhiêu năm qua ở một vùng nào đó không
có một người vãng sanh, là tại vì vùng đó người ta không biết gì về hộ niệm cả,
hoặc chưa rành về pháp hộ niệm!… Muốn vận động hộ niệm phải kiên trì nhé. Vận
động một năm, hai năm, ba năm, mười năm… mới có cơ sở cứu người, chứ không
phải vận động hôm nay, tháng sau được liền đâu. Không có đâu!…
Như
vậy muốn cứu mẹ ta trong mười năm sau, thì bây giờ ta phải bắt đầu vận động
liền đi. Có nhiều người biết hộ niệm thì sau cùng chính ta được nhiều người tới
hộ niệm. Tất cả chúng ta đều có thể đi về Tây Phương thành đạo Vô Thượng.
Nam
Mô A-Di-Đà-Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 10)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Kính
bái bạch nhị vị pháp sư cùng chư đại chúng. Chương trình của Niệm Phật Đường
tiếp tục trong đề tài “Hướng Dẫn – Khai Thị” cho
người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Xin phép chư vị cho phép con được tiếp
tục… A-Di-Đà Phật.
Trong
mấy ngày hôm nay chúng ta bàn khá nhiều về người tu hành bị mất phần vãng sanh,
trong đó có rất nhiều lý do như:
– Niềm
tin không vững, mất vãng sanh.
– Người có niềm tin đầy đủ nhưng thực hành không
chuyên nhất cũng mất vãng sanh.
Hồi
sáng này chúng ta nói:
– Người
niệm Phật mà sợ chết cũng bị trở ngại, mất vãng sanh.
Trong
đó thì “Sợ Chết” là một ách nạn rất lớn đối với công cuộc vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc. Chư Tổ hầu hết đều nhắc đến điểm này.
Ngài
Thiện-Đạo Đại Sư nhắc đến hai điểm để được vãng sanh:
– Thứ nhất là khuyên người bệnh khi bệnh xuống đừng sợ chết.
– Điểm thứ hai là phải nhiếp tâm lại niệm câu danh hiệu A-Di-Đà
Phật để cầu tiếp dẫn về Tây Phương.
Hai điểm
chính. Một người đã đi theo pháp môn niệm Phật mà còn sợ chết thì thật sự tạo
ra cái chướng nạn vô cùng lớn! Như hồi sáng mình nói, người Sợ Chết
thì nhất định phải Chết! Trong khi người niệm Phật là người cầu
sanh, hay nói là cầu vãng sanh. Cầu Sanh tức là cầu Không Chết.
Chúng ta về Tây Phương không phải là Chết.
Chư
Tổ nói, người quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh, nếu niềm tin vững vàng, nếu cầu
vãng sanh tha thiết. Nghĩa là cầu được vãng sanh thật chứ không phải cầu giả!
Thì người đó sẽ nhiếp tâm được trong câu A-Di-Đà Phật và bắt đầu từ đó người ta
không còn chết nữa. Pháp môn niệm Phật gọi là pháp môn không có chết. Nếu thật sự
mình niệm Phật, nếu thật sự mình tu hành,
tức là tu thật chứ không phải tu thử, thì bắt đầu từ đó không chết, gọi
là pháp môn bất tử.
Có
nhiều người sợ bệnh. Sợ bệnh thì bị bệnh. Bệnh nó sẽ trói mình lại tới “queo
râu” luôn! Cho nên người quyết lòng niệm Phật thì không còn bệnh nữa. Tại vì
sao? Tại vì…
– Cái
bệnh của thế gian mà càng nặng, thì chuyện vãng sanh của mình càng mạnh.
– Cái
bệnh càng ngặt nghèo, thì con đường đi về Tây Phương của mình càng sớm.
Như
vậy thì mình có chết đâu? Bệnh là cái cục thịt này nó bệnh, chứ còn cái tâm
chúng ta đâu có bệnh. Khi đi về Tây Phương là cái tâm chúng ta đi về Tây
Phương, chứ đâu phải cục thịt này đi về Tây Phương?
Như
vậy thì rõ ràng, càng bệnh chừng nào ta thấy càng không bệnh chừng đó. Vì ta đã
chuẩn bị gọn gàng, nhanh chóng để đi về Tây Phương thành đạo…
– Bắt
đầu từ đó ta không còn tử sanh.
– Bắt đầu từ đó ta có thần thông đạo lực.
– Bắt đầu từ đó ta đi mười phương pháp giới cứu
độ chúng sanh. Ta đâu có chết.
Cho
nên những người sợ chết tức là còn mê mờ tham đắm thế gian. Phật dạy “Nhất thiết duy tâm tạo”. Mình
nói gọn gọn một chút, tất cả đều do ý niệm của mình như thế nào. Ý niệm của
mình là muốn sống thêm một chút nữa, tức là muốn bám lấy cái thế gian này. Xin
thưa, mình sinh ra trong đời này là do thọ nghiệp, thọ nghiệp là cái nghiệp nó định
cho mình để mình thọ nạn, mình không cưỡng chế được. Tại vì mình không phải là
chư đại Bồ-Tát. Đại Bồ-Tát không muốn ở thì đi, không muốn đi thì ở thêm vài
ngày nữa. Còn ta không được như vậy. Ta hoàn toàn không định được gì cả.
Tức
là sao? Là thọ mạng của mình đã định cho mình phải thọ nghiệp năm chục năm hai
ngày, thì đúng năm chục tuổi thêm hai ngày nữa mình phải đi. Mình hoàn toàn
không cưỡng được. Chỉ khi nào mình thành Bồ-Tát rồi thì muốn bỏ hai ngày để đi
trước cũng được. Nếu có duyên người ta cầu nhiều quá thì mình thêm bốn ngày
nữa, thành ra thọ mạng là năm chục năm sáu ngày. Sanh tử tự tại. Còn người đã
thọ nghiệp thì định nghiệp này đã định rồi, đã định rồi thì dại gì mà ta lo,
dại gì mà ta sầu với căn bệnh!…
Chính
vì vậy, khi hiểu được đạo giúp ta an nhiên tự tại trước tử sanh. Có nghĩa là họ
coi chuyện thân này ở lại hay đi không có một mảy may nào sợ sệt. Cái tâm này
chính là tâm định, chứ không phải là định ở chỗ nào khác đâu.
Mình
muốn khai thị, dẫn giải cho một người bệnh hiểu được chuyện này, xin thưa rằng
không phải dễ đâu! Khó vô cùng! Tại sao vậy? Tại vì trong lúc mình tới khai thị
cho người đó thì:
– Người
đó đang chìm trong nghiệp khổ rồi!
– Người đó đang chìm trong chướng nạn từ oan gia
trái chủ rồi!
– Nghiệp chướng của họ đã tung hoành ngang dọc
rồi!
– Tất cả đã kềm chế tinh thần của người đó rồi!
Thành
ra ta dẫn giải cho người đó khó lắm! Nếu cứ đợi cho đến lúc mê man bất tỉnh rồi
mới đến khai thị cho người bệnh, thì hồi sáng này mình đã nói:
– Bất
phước quá rồi!
– Tai nạn nặng quá rồi!
– Nghiệp chướng đã lớn quá rồi!
– Sẽ tiêu tùng rồi!
– Khó còn cách nào cứu được nữa rồi.
Như
vậy thì làm sao đây?… Xin thưa, tất cả đều phải lo trước… Tức là chúng ta phải
khai thị cho nhau khi ta còn ngồi được để tụng câu kinh, để niệm câu A-Di-Đà
Phật, chứ không phải đợi lúc nằm xuống rồi mới kêu ban hộ niệm tới hộ niệm.
Hoàn toàn sai lầm!…
Như
vậy, khai thị là ta khai thị ngay từ bây giờ. Hãy tự mình kiểm điểm lại mình
thử coi, tu hành bao nhiêu năm qua bây giờ mình còn sợ chết hay không? Nếu mình
còn sợ chết, thì câu hỏi hôm trước, “Tại sao có nhiều người tu suốt đời mà sau
cùng không được vãng sanh?”,
thì bây giờ đã có thêm một câu
trả lời nữa rồi. Đó là vì anh tu suốt đời mà anh còn sợ chết. Còn sợ chết thì
anh còn bám theo cái thân. Bám theo cái thân thì nhất định khi cái thân bị bỏ
vào trong hòm còn anh thì đứng lảng vảng ở đâu đó thương tiếc cái thân! Con cái
đang khóc, anh cũng khóc theo! Rồi con cái bê cái quan tài đi, thì mình cũng đi
theo. Khi chúng bỏ quan tài xuống lỗ, thì mình lúng túng không biết làm sao nên
nhảy xuống theo. Người ta lấp lại!… Người ta lấp lại thì mình bị đại nạn!…
Nếu
mình không còn sợ chết nữa, thì khi gọi là chết đó rõ ràng là một bài pháp.
Bài
pháp gì? Cái thân mình chết bỏ trong hòm, nhưng mà chính mình còn sống, mình
còn nghe đứa con khóc, mình còn nghe, thấy người ta đến điếu tang… Rõ ràng là
mình còn sống. Mình còn sống tại sao không đi theo con đường vô tử vô sanh, con
đường niệm câu A-Di-Đà Phật cầu vãng sanh. Như vậy, đâu phải đợi đến lúc bệnh
rồi mới kêu người tới khai thị. Hãy biết “Khai Thị” ngay từ bây giờ đi chứ. Mình
sẽ được giải tỏa hết tất cả.
Trở
lại vấn đề: “Hướng Dẫn – Khai Thị”. Có rất nhiều người nói:
– Bây
giờ Mẹ tôi không muốn niệm Phật, mẹ tôi sợ chết, làm sao đây anh?
Tôi
nói:
– Hãy về cố gắng loan truyền pháp hộ niệm ra đi.
Đem những tọa đàm khai thị này cho người ta nghe đi. Đem những lời Tổ nói về
khai thị hộ niệm vãng sanh cho người ta nghe đi.
– Nếu bà già không nghe thì sao?…
– Thì mình nghe. Mình mở cái băng lớn lên để tự
mình nghe. Mình cứ thành tâm nghe đi, nhiều khi bà mẹ mình đi qua đi lại, đi
qua đi lại thoáng nghe một lần một chút, một lần một chút… Biết chừng đâu có
dịp bà ngộ chăng?…
Xin
thưa thật với chư vị, hãy bung cái pháp hộ niệm ra đi. Nhiều khi suốt ngày mình
nói chuyện với cha mình, cha mình nhàm chán câu chuyện của mình quá rồi! Nói
chuyện với mẹ mình, mẹ mình cũng nhàm quá rồi! Nhưng biết chừng đâu, khi đi ra
ngoài chợ, một người nào đó vô tình nói:
– Trời
ơi! Bây giờ tôi thấy pháp hộ niệm hay quá!…
Người
ngoài chợ chỉ vô tình nói, không ngờ lọt được vào tai của mẹ mình. Biết chừng
đâu mẹ mình giật mình tỉnh ngộ chăng?…
Nhiều
khi cha mình thích nhậu nhẹt, mình nói hoài mà không nghe. Nhưng trong lúc đi
chơi với bạn bè nào đó, một người bạn nào đó ngẫu hứng nói:
– Trời
ơi! Tôi thấy pháp hộ niệm hay quá đi! Thật sự là bất khả tư nghì!…
Một
người vô tình nói như vậy biết đâu chừng cha mình lại ngộ chăng?… Duyên mà!
Cho
nên, hồi sáng tôi nói, muốn cho có người vãng sanh, phải cố gắng làm sao cho
đại chúng biết được rất rõ về pháp hộ niệm thì tự nhiên mình cứu được nhiều
người, mình cứu luôn cả gia đình của mình và sau cùng cứu ngay cả chính mình
nữa.
Mỗi
lần đi về Việt nam, xin thưa thật với chư vị, người ta phát tâm, xin ấn tống
một ngàn đĩa vãng sanh, xin ấn tống một ngàn phần đĩa nói chuyện này, xin ấn
tống một ngàn cuộc tọa đàm kia… Người ta phát tâm ấn tống từng ngàn, từng
ngàn. Một ngàn đĩa là một thùng, lớn cỡ chiếc bồ đoàn này, chứ không phải là ít
đâu. Khoảng chừng năm người phát tâm như vậy thì đầy chiếc xe rồi…
Nhờ
phổ biến rộng như vậy đó mà người mẹ của mình, người cha của mình, người anh
của mình đi ra ở ngoài chơi mới có duyên nghe được người ta nói về hộ niệm mà
giật mình tỉnh ngộ. Nhờ sự tỉnh ngộ này mà mình cứu được nhiều người.
Sở
dĩ người Việt nam chúng ta bây giờ hưởng được cái lợi lạc này, không phải là tự
dưng mà có đâu à. Vì những người đầu tiên khi hộ niệm người ta thấy được thành
quả bất khả tư nghì, người ta mới phát cái tâm ra vững vàng. Có người khi mà
nghe một ai đó mở Niệm Phật Đường, thì họ tìm tới yểm trợ. Có một cái băng đĩa
nào nói đến hộ niệm là người ta phát tâm làm liền. Người ta làm như vậy nên bây
giờ tự nhiên số người ở nơi đó mới hưởng được cái phước lợi này.
Sau
gần mười năm mới có được thành quả đó, chứ đâu phải dễ dàng. Chư vị có biết
không, muốn làm một công trình gì đều phải đổ mồ hôi ra, đổ nước mắt ra, đầy ắp
cả những đắng cay đưa đến. Nhiều khi mình cũng đành phải ngậm đắng nuốt cay để
cầu cho cứu được người, chứ không phải dễ dàng gì đâu! Không phải làm việc
thiện mà đơn giản đâu! Mong chư vị dũng mãnh phát tâm từ bi cứu độ chúng sanh.
Ngài
Tịnh-Không nói: “Cứ lo cho chúng sanh đi, thì tự nhiên có Phật, Bồ-Tát lo
cho mình. Đừng cứ chỉ lo cho mình. Chỉ lo cho mình là ác. Lo cho
chúng sanh là đại thiện”.
Đó
là định nghĩa về Thiện-Ác của ngài Tịnh-Không. Mong cho chư vị lấy cái đại
thiện này để chúng ta đi về Tây Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 11)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Pháp
môn niệm Phật vi diệu bất khả tư nghì! Nhiệm mầu bất khả tư nghì! Nói về cao
thì pháp niệm Phật cao chí thượng đến nỗi chư vị Đẳng-Giác Bồ-Tát, như các ngài
Phổ-Hiền, Văn-Thù, Quán-Âm… đều niệm câu A-Di-Đà Phật. Thế thì chúng ta là
phàm phu tại sao lại không quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật?…
Sự nhiệm
mầu của câu A-Di-Đà Phật đến nỗi những hàng phàm phu tục tử, tội chướng sâu
nặng, trước những giờ phút lâm chung mà phát tâm tin tưởng niệm câu danh hiệu
A-Di-Đà Phật cầu vãng sanh cũng được vãng sanh về Tây Phương, cũng một đời
thành tựu. Bất khả tư nghì!
Có
nhiều người ưa thích lý luận này, lý luận nọ… Để làm chi vậy? Xin chư vị hãy
mau mau thành tâm kính cẩn niệm câu A-Di-Đà Phật để về trên Tây Phương thành
đạo trước, rồi sau đó muốn lý luận gì thì lý luận, lúc đó mới chính xác. Còn ở
đây, thân phận là phàm phu mê muội mà không chịu niệm câu A-Di-Đà Phật, thì mê
muội chồng thêm mê muội, làm
sao có ngày thoát ly sanh tử luân hồi? Làm sao mà thành đạo đây?…
Chính
vì thế, pháp môn niệm Phật nên cố gắng loan truyền rộng ra, vận động cho nhiều
lên, truyền bá cho mạnh mẽ để cứu độ chúng sanh.
Thành
thật mà nói, trong thời mạt pháp này, không có câu A-Di-Đà Phật thì nhất định
chúng sanh mê muội không cách nào có thể thành tựu được đạo nghiệp! Cuối cùng
trong một đời này khi luống qua, nhiều khi một ngàn lần không có được một lần
thoát vòng sanh tử, không có một lần thoát nạn!
Ấy
thế mà nhờ câu A-Di-Đà Phật chúng ta đã nghe thấy nhiều người đã biểu diễn ra
đi giống như một trò hát xiệc. Cơ hội này quý giá vô ngần! Mong chư vị một khi
đã biết được con đường niệm Phật vãng sanh, thì đừng nên để bà con, thân nhân,
cha mẹ, anh em phải luống qua. Tội nghiệp họ lắm! Đây là lời dạy của ngài
Ấn-Quang.
Nhưng
xin thưa với chư vị, Diệu Âm lại có cái suy nghĩ hơi lạ một chút xíu nữa, là
truyền bá pháp môn niệm Phật cho chúng sanh tốt vô cùng, nhưng thật sự
khi đã đi sâu vào thời mạt pháp rồi, niệm Phật cũng chưa chắc gì nắm vững được phần
vãng sanh. Chắc chắn chư vị có nghe Hòa Thượng Tịnh-Không nói rằng, Một
vạn người tu, nhiều khi có hai ba người vãng sanh mà thôi! Như
vậy thì sự thành tựu cũng không phải là dễ đâu! Vì thế, Diệu Âm lại có cái ý
nghĩ rằng, thay vì quảng bá pháp môn niệm Phật, ta lại quảng bá phương pháp hộ
niệm. Tại vì pháp hộ niệm của Tịnh-Độ nó ứng dụng từng điểm từng điểm:
– Rất là cụ thể.
– Rất là căn bản.
– Rất là chính xác…
– Rất là cần thiết cho một người xả bỏ báo thân đi về Tây Phương.
Cho
nên khi mà ta quảng bá phương pháp hộ niệm là quảng bá toàn bộ pháp môn niệm
Phật, quảng bá trọn vẹn pháp môn Tịnh-Độ. Nhưng phổ biến pháp hộ niệm có điểm
cụ thể hơn.
Nếu
ta chỉ đơn thuần hướng dẫn người ta niệm Phật, thì những trường hợp:
– Khi
gặp phải chướng ngại về bệnh khổ, tự họ không biết cách nào có thể vượt qua cái
cảnh khổ của nghiệp khổ.
–
Khi gặp phải chướng ngại về oan gia trái chủ, tự họ không biết cách nào thoát
được những cạm bẫy giăng giăng trước mặt họ.
–
Khi họ tham luyến cái gì?… Tự họ không biết cách nào có thể gỡ ra.
Hơn
nữa, nhiều khi song song với con đường công phu tu hành niệm Phật, vọng tưởng
nổi lên, nó đánh lạc hướng người niệm Phật, làm cho họ không được vãng sanh. Nhưng
xin thưa với chư vị, người biết hộ niệm thì họ biết cách gỡ được những chướng
nạn này.
Quý
vị cố gắng xem những cuộc hộ niệm ở Việt Nam. Lạ lắm chư vị ơi!… Xin kể ra
đây một câu chuyện mà Diệu Âm đã dự qua.
Cô
đó, từ nhỏ đến lớn chưa biết ăn chay, chưa có pháp danh, chưa bao giờ đi chùa.
Cô bị ung thư nằm trên giường bệnh hơn một năm rưỡi. Đến lúc cuối cùng sắp sửa
chết thì cô đau đớn quằn quại, gia đình cũng không đủ tiền để chạy chữa nữa và
bệnh viện cũng tuyên bố dù có chạy chữa nữa cũng chết thôi. Ấy thế mà gặp ban hộ
niệm của chị Diệu Thường đến hộ niệm được khoảng hai tuần thì cơ may Diệu Âm về
Việt Nam, chị bắt Diệu Âm tham gia vào cuộc hộ niệm đó luôn…
Thật
sự khi đối diện với người bệnh chúng ta mới thấy rõ rệt nếu không biết hộ niệm,
nếu không có sự trợ giúp của những người biết đạo, biết cách hướng dẫn, biết
cách hóa giải thì chắc chắn những người này một ngàn phần không có một phần
thoát khỏi đọa lạc!… Đó là cô Trần Thị Kim Phượng. Cô đau đớn quằn quại trên
giường, ấy thế mà khi mình thuyết phục, mình củng cố tinh thần, mình khai thị
tự dưng tinh thần của cô vượt lên, càng đau cô càng niệm Phật, hết lòng niệm
Phật.
Trong
đời của cô ta có một tội rất nặng! Phá thai. Thai gần bảy tháng rồi mà còn phá!
Đến những ngày trước khi cô ra đi, thì vong thai đó nhập vào người của cô, nó
quậy tung lên hết. Lúc bệnh thì nằm ngáp không nổi, mà lúc nó nhập vô thì dữ vô
cùng! Xé áo, xé quần… không còn kiêng nể người nào hết…
Gia
đình có mời các vị Sư tới giải nạn. Các ngài cũng làm hết sức mình, lập bài vị,
tụng chú, khuyên giải… Ấy thế mà gần một ngày trời không có giải quyết được. Các
ngài sau cùng cũng đành phải bỏ ra về và nói với người nhà rằng:
– Chư
vị ơi! Chúng tôi đã cố gắng hết sức rồi, nhưng không cách nào có thể hóa giải
được…
Trong
lúc hóa giải đó, thì vô tình Diệu Âm cũng có mặt tại chỗ. Thật là dịp may mắn
để chứng kiến cảnh này! Khi các vị đó buông rồi thì tình thật Diệu Âm cũng ngỡ
ngàng không biết làm sao?… Diệu Âm chạy theo hỏi:
– Thầy
ơi! Chừng nào Thầy trở lại nữa?…
– Xin chư vị cứ hộ niệm đi, khi nào cô đi rồi
thì quý vị đốt bài vị. Chứ bây giờ chúng tôi cũng không biết làm sao hơn nữa!
Xin
thưa với chư vị, khi chứng kiến những cảnh này, mình mới thấy phương pháp hộ
niệm vi diệu bất khả tư nghì! Chính Diệu Âm từ trước tới giờ chưa có một chút
kinh nghiệm vững vàng nào về vấn đề hóa giải chuyện này hết, nhưng biết rằng
trong phương pháp hộ niệm có cách gọi là điều giải oan gia trái chủ. Lúc bấy
giờ trong tư thế chẳng đặng đừng, lùi thì không được, mà tiến tới cũng không
xong! Cho nên Diệu Âm đành liều mạng, chắp tay thành khẩn điều giải… Trong lúc
điều giải đó thì có chị Diệu Thường cùng một vài người trong ban hộ niệm ở phía
sau và khoảng năm sáu người trong gia đình nữa. Tôi nói quý vị cứ chắp tay lại
niệm Phật đi, để tôi điều giải. Tôi đã thành khẩn điều giải. Khi nào chúng ta
tiến tới chỗ điều giải oan gia trái chủ Diệu Âm sẽ khai thác cho chư vị thấy.
Điều
giải được một tiếng đồng hồ, đúng một tiếng đồng hồ, thì cái vong đó chấp nhận
buông ra. Lạ lùng!… Khi họ chấp nhận buông ra, những người ở phía sau có thể
không nghe được đâu, vì họ đứng xa quá, còn Diệu Âm thì đứng cách người bệnh
khoảng chừng nửa thước, hay tám tấc, Diệu Âm thấy hết tất cả những gì xảy ra,
(Vì chính mình điều giải cho họ mà). Khi cái vong chấp nhận buông ra và hình
như có niệm Phật để hộ niệm cho cô đó nữa, thì khoảng chừng đâu mười lăm phút
sau, khoảng mười lăm phút, thì cô nhắm mắt nhẹ nhàng ra đi. Lạ lùng!
Khi cô
ra đi xong, chính Diệu Âm chứng kiến tại chỗ luôn, cái thân thể của cô bắt đầu
chuyển biến. Chuyển… chuyển… từ một người bệnh phù thũng, sưng mặt, sưng
mày, tay chân phù lên, khó coi lắm!… Nhưng đã chuyển, chuyển, chuyển từng
phút, từng phút một. Thật là lạ!… Chuyển biến như vậy, đúng một tiếng mười
lăm phút sau thì khuôn mặt của cô từ nét đau đớn, nhăn nhíu khó coi đã chuyển
thành một cô gái khá đẹp. Lúc đó Diệu Âm giật mình, tự nghĩ thầm: “Ủa!
Cô này thật sự cũng khá đẹp, chứ đâu đến nỗi xấu xí lắm!”. Trong tâm
nói như vậy nhưng vẫn tiếp tục cuộc điều giải, tiếp tục niệm Phật để hộ niệm.
Trong
đĩa video đưa ra không có quay lúc điều giải này, vì chị Diệu Thường lúc
đó không có đem cái máy quay phim theo. Chị ta thấy hiện tượng như vậy, mới vội
ra dùng xe Honda chạy về nhà lấy máy trở lại quay, thì thời gian mất thêm một
tiếng đồng hồ nữa. Hình ảnh ghi lại được trong phim là hai tiếng đồng hồ sau
khi cô đó tắt thở ra đi.
Một
chuyện vãng sanh điều giải giống như một cuộc đóng phim! Y hệt như đóng phim
vậy! Sau đó có chư vị trong ban hộ niệm mới bàn với Diệu Âm rằng, bây giờ làm
sao mình đóng lại cuộc điều giải đó để quay thành phim dành làm tài liệu. Tôi
nói, làm sao mà đóng được? Có ai làm giả được đâu!…
Cho
nên nói về hộ niệm, chứ thật ra nó bao trùm cả một pháp niệm Phật. Đứng trước
bệnh nhân mình nói, “Cô phát lòng tin tưởng đi nhé”,
tức là Tín. “Cô phát nguyện vãng sanh đi nhé”, tức là Nguyện. Nhưng ở đây
chúng ta không phải nói khơi khơi đâu, mà hướng dẫn cho họ cách phát nguyện gọn
gàng, rõ ràng… Mình ứng dụng từng điểm từng điểm trong pháp niệm Phật. “Bây
giờ Cô niệm Phật đi, Cô niệm Phật không được, thì tôi niệm cho Cô nghe mà niệm
theo nhé”… Rõ ràng
ứng dụng từng điểm, từng điểm cụ thể. “Rồi khi gặp những trường hợp chướng ngại, chúng
tôi sẽ cố gắng giúp Cô giải quyết”… Rõ rệt hộ niệm là phương pháp hóa gỡ từng điểm từng
điểm chướng ngại giúp người bệnh vãng sanh Cực Lạc.
Nếu
mình chỉ hướng dẫn khơi khơi cho Cô đó niệm Phật, cứ nói “Tín-Hạnh-Nguyện” đi… thì khi gặp những chướng ngại
như thế này? Thôi! Chịu thua rồi! Không cách nào có thể gỡ được!
Chúng
ta tu hành với nhau như thế này, đến giây phút cuối cùng chưa chắc gì sẽ tránh
được những ách nạn. Phải nhớ là oan gia trái chủ của chúng ta trùng trùng, nghiệp
khổ của chúng ta trùng trùng… Không dễ gì phá được đâu!…
Cho
nên hôm trước, có người nêu ra vấn đề phá nghiệp. Tôi nói, anh phá nghiệp đi.
Chủ tâm phá nghiệp để nghiệp chướng bao vây cho đến điên đảo quay cuồng ráng mà
chịu! Phương pháp hộ niệm không bày vẽ cho chúng ta pháp phá nghiệp, mà bày cho
chúng ta pháp Tín-Hạnh-Nguyện vãng sanh. Từ ba điểm Tín-Hạnh-Nguyện này là cả một đại pháp sám hối, gọi
là Di-Đà Sám-Pháp đó, tại sao chúng ta không ứng dụng? Chúng ta tu Tịnh-Độ
Di-Đà, không ứng dụng Di-Đà Sám-Pháp mà ứng cái pháp phá nghiệp là không đúng
với cách hành trì của pháp môn!…
Chính
vì vậy, xin thưa với chư vị:
– Một câu A-Di-Đà Phật, sám pháp cũng đó.
– Một câu A-Di-Đà Phật, thành đạo cũng đó.
– Một câu A-Di-Đà Phật, hóa gỡ tất cả mọi ách
nạn cũng đó.
– Một câu A-Di-Đà Phật, vãng sanh bất thối thành
Phật cũng từ đó.
– Rồi cứu độ chúng sanh cũng từ đó luôn.
Trong
kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật luôn luôn nhắc chúng ta, “Nhất hướng chuyên niệm
A-Di-Đà Phật”.
Mong
chư vị nghe lời dạy của Phật, nhất định đi thẳng một đường, nhất định ta sẽ về
Tây Phương thành đạo Vô Thượng.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 12)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Phật
dạy: “Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế”. Sáng còn tối mất,
chỉ trong một tích tắc ta đã đi qua một thế giới khác rồi! Câu này là một tiếng
kêu thống thiết cho chúng ta hiểu thấu cái lẽ vô thường của một kiếp người!…
Sự
vô thường này nó ở ngay trước mắt! Nếu người hiểu đạo thì nương theo cảnh vô
thường này lo tu hành thoát nạn. Người không hiểu được cảnh vô thường này cứ
bám chặt lấy những cái vô thường huyễn mộng, để sau cùng khi buông tay không
mang một cái gì theo hết. Chỉ có một cái ách nạn, oán nạn, khổ nạn nó sẽ đến
với mình một quãng thời gian dài vằng vặc, mà trong kinh Phật nói đến vô lượng
kiếp, hàng triệu năm chứ không phải là một năm hai năm.
Người
biết tu khi nhìn thấy lý vô thường này mà chộp lấy những thời gian còn tỉnh táo
để lo tu học, lo thoát nạn. Người không biết đạo thì mờ mờ mịt mịt, bám lấy một
thời gian hết sức là ngắn để chịu một thời gian hết sức là dài trong đau khổ!
Lúc đó trong kinh Phật nói: “Khổ
lạc tự đương, vô hữu đại giả”. Có nghĩa là khổ cũng mình, sướng
cũng mình, không một người nào có thể thay thế cho mình được. Thưa thật rằng,
đời này khi mình mất báo thân rồi, chỉ có khổ, không có sướng được đâu.
Chính
vì vậy mà phải lo tu. Tu phải biết đường tu. Thời mạt pháp này Phật dạy chỉ còn
câu A-Di-Đà Phật mới có hy vọng cho mình thoát nạn. Nhưng tình thật, biết được
câu A-Di-Đà Phật mà được hy vọng thoát nạn cũng chưa phải vững lắm đâu! Hôm qua
mình đã nói đến chuyện này rồi. Biết được pháp niệm Phật mà còn nắm vững kiến
thức về hộ niệm, phải biết áp dụng cái phương pháp này, phải biết ngồi bên cạnh
người bệnh hộ niệm cho người bệnh, thì lúc đó ta mới có hy vọng thấy được hiện
tượng vãng sanh.
Mình
nói là chủ động đi hộ niệm cho người ta, chứ thật ra là mình phải học hỏi phương
pháp hộ niệm, vì hộ niệm cho người ta chính là để chuẩn bị áp dụng cho chính
mình. Nghĩa là, khi xả bỏ báo thân mình biết phải làm gì? Bây giờ mình cần phải
làm gì? Không thể trễ một ngày! Không thể chờ một giờ! Đó gọi là đã hiểu chữ “Vô
Thường”!
Trong
pháp hộ niệm, có cách hướng dẫn khai thị để giúp cho người bệnh biết được đường
đi, giúp cho người ra đi biết phải làm như thế nào?…
– Không phải là giảng giải cho người bệnh trong
những cơn hấp hối.
–
Không phải là giảng giải cho người bệnh khi đã mê man bất tỉnh trong bệnh viện.
– Mà
giảng giải ngay từ bây giờ cho đến cái ngày đó.
– Rồi
còn tiếp tục niệm Phật cho người đó trong lúc buông xả báo thân ra đi, còn phải
tiếp tục hộ niệm cho người đó tám giờ, mười hai giờ sau để đảm bảo con đường
thoát khổ đắc lạc của họ.
Chính
vì vậy mà phương pháp hộ niệm cần phải phổ biến rộng rãi. Phương pháp hộ niệm
cần phải lưu hành mạnh mẽ. Chỉ có lưu hành mạnh mẽ phương pháp hộ niệm mới cứu
được chúng sanh. Còn không chịu lưu hành mạnh mẽ phương pháp hộ niệm, thì ta có
thể lý thuyết con đường giải thoát, nhưng thực hành con đường giải thoát thì nhất
định không được đâu! Muốn rõ hơn vấn đề này, chư vị có thể nhìn về quá khứ để
tìm hiểu. Biết bao nhiêu người đã lý thuyết đường giải thoát mà thật sự có được
giải thoát hay không? Nhìn đó thì biết liền! Hiểu liền!…
Xin
chư vị, chúng ta cần phải hiểu sâu một chút mới được. Phật dạy, sáng
còn tối mất, là Phật nói đến cái thân này sáng còn ngo ngoe, ngo ngoe,
chiều thì nằm im một chỗ, không còn biết gì nữa hết! Tức là chết đó!… Nhưng
câu nói “Sát na dị thế”, nghĩa là Phật cảnh cáo cho
chúng ta biết rằng, khi cái thân này chết rồi, nhưng ta không chết. Tại vì “Dị Thế” là chuyển qua đời
khác. Chuyển qua đời khác có nghĩa là “Sống”
qua một cuộc đời khác ở một thế giới khác…
Người
biết tu, biết thực hiện đường giải thoát, họ sẽ thật sự giải cái ách nạn sanh
tử luân hồi, thoát qua sáu đường sanh tử, gọi là thoát ly sanh tử luân hồi.
Người không biết tu, khi lìa cái báo thân này thì chuyển qua một cảnh giới
khác, sống trong cảnh đọa lạc triền miên! “Độc sanh độc tử”, sinh ra chỉ
có một mình, chết đi cũng có một mình!
– Nhất định ông chồng không thể nào theo mình
được.
– Nhất định bà vợ không thể nào theo mình được.
– Nhất định đứa con không thể nào theo mình
được.
– Nhất định căn nhà không thể nào mình đem theo
được.
– Nhất định chiếc xe hơi này… Không đem theo
bất cứ một cái gì.
– Mà chỉ đem theo cái khổ triền miên, khổ đến
nỗi mà: “Thống bất khả ngôn”. Nghĩa là đau đến nỗi mà nói không được!
Khi hiểu
được một chút lý đạo rồi thì cái cơ hội ngồi với nhau niệm Phật này quý vô
cùng. Mà quý hơn nữa là gì? Là ta biết phương pháp hộ niệm. Chúng ta đang nói
chuyện về hộ niệm, tức là chúng ta khai thị cho chính chúng ta. Khai thị như
thế nào?… Phật dạy, tất cả chúng sanh không có một người nào chết hết mà chỉ là
chuyển đời, chuyển cảnh. Cũng giống như cách đây năm năm mình ở Việt Nam, bây
giờ mình ở tại Úc. Nghĩa là mình rời nước Việt Nam để qua ở bên Úc. Rồi khi
mình chết, mình lại bỏ nước Úc này để chui xuống một chỗ nào đó ở. Nếu khôn
ngoan thì mình đi tới một quốc gia thật là đẹp, giàu có. Nếu dại khờ thì chui
vào những cảnh giới vô cùng đau khổ để tự mình chịu lấy, gọi là “Khổ lạc tự đương”. Không ai
có thể giúp mình được. Phật cũng không giúp mình được. Chỉ có tự mình phải biết
cách giúp mình.
Giúp
như thế nào?… Đã biết mình không chết thì không được sợ chết. Đây là một nội
dung khai thị trong buổi hộ niệm.
– Người bệnh nào mà sợ chết, thì người bệnh đó
phải chịu ách nạn!
– Người nào mà sợ chết, thì người đó phải chịu
đọa lạc!
– Người nào biết rằng mình không chết, thì lúc
đó người ta đã ngộ ra được một chút…
Không
chết thì phải lo con đường sướng, đừng nên dại khờ đi theo con đường khổ. Xin
nhắc lại, “sáng còn tối mất…” Thì
bữa nay cũng có sáng cũng có tối. Ngày mai cũng có sáng có tối. Ngày mốt cũng
có sáng có tối… Không biết là trong những ngày sáng tối này, ngày nào mình
đi? Như vậy, thì từ bây giờ, mình phải lo ngay:
– Niệm câu A-Di-Đà Phật là điều thứ nhất.
– Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung là điều
thứ hai.
– Niềm tin phải vững vàng như tường đồng vách
sắt là điều thứ ba.
Ba điểm
này là điểm lo của người học Phật để được thoát nạn trong đời mạt pháp này. Với
thân thế là một phàm phu tục tử như chúng ta, nếu chúng ta không chịu niệm
Phật, nếu chúng ta sợ chết, nếu chúng ta không tin con đường vãng sanh… Thì
thôi chịu thua rồi! Bây giờ tới đây niệm Phật hàng ngày, sau cùng thì đọa lạc vẫn
hoàn nguyên đọa lạc!…
Nói
thẳng thắn rằng, lúc chết rồi thì vợ chịu cảnh vợ, chồng chịu cảnh chồng, “Độc
sanh độc tử, độc khứ độc lai…”.
– Không ai có thể đi theo mình.
– Không có một cái gia tài nào đi theo mình.
– Không có một người yêu thương nào đi theo
mình.
– Mà mình chỉ đeo lấy cái nghiệp để chịu khổ
triền miên. Đau khổ kinh khủng lắm! Đau khổ không phải chỉ là những chuyện đau
khổ thông thường giống như bệnh tật, mổ xẻ… ở thế gian này đâu!
Chính
vì vậy, khi biết cuộc đời mình không chết thì trước cơn đau, trước những bệnh
khổ, bệnh nan y bác sĩ chịu thua… thì hãy nghĩ rằng ta chuẩn bị thay thế một
cuộc đời khác, ta chuẩn bị liệng cuộc đời khổ nạn này để đi theo cuộc đời sung
sướng khác. Đó là người ngộ đạo. Đổi chiếc thân như đổi chiếc áo, ví dụ như
trước khi ta vào Niệm Phật Đường ta mặc cái áo tràng, sau khi ra khỏi Niệm Phật
đường ta cởi áo tràng ra, mặc chiếc áo khác vào, đi về nhà. Ta chỉ đổi áo như
vậy mà thôi. Mặc áo tràng thì lụng thụng một chút, ấm trên ấm dưới. Mặc áo khác
thì chỉ ấm khúc trên, còn khúc dưới ta cần thêm cái quần… Thế thôi, chứ không
có gì khác biệt lắm.
Khi mình
ở trước một người bệnh luôn luôn phải có lời khai thị, khuyến tấn làm sao để
người bệnh đừng sợ chết. Chư Tổ nói, muốn vãng sanh về Tây Phương thì bảo người
bệnh đừng sợ chết. Lời khai thị này chỉ khai thị được:
– Với những người còn đang tỉnh táo.
– Với những người không được mê man.
– Với những người còn nghe rõ ràng.
– Với những người còn trả lời được, còn lý trí
đầy đủ.
Vậy
thì, trong lúc chúng ta còn đầy đủ lý trí, ta phải vận dụng ngay chuyện này. Những
người biết niệm Phật cầu về Tây Phương khi đối diện cái chết họ cảm thấy mừng
vui, không sợ sệt…
Ở
bên Việt Nam có một cô kia, bị ung thư. Đến lúc bác sĩ không cách nào chữa được
nữa. Em của cô là một bác sĩ chuyên về ung thư, nhưng chính người em cũng không
chữa được nữa, mới email hỏi Diệu Âm. Diệu Âm hướng dẫn buông liền, không sợ
nữa, sống chết có số mạng. Lúc phải chết thì trốn đâu cũng chết. Với bệnh của
cô này, bác sĩ nói sống nhiều lắm là được bốn tháng. Nếu thật sự đúng bốn tháng
thì khen bác sĩ giỏi, nhưng mà nhiều khi mới ba ngày thì chết. Nhiều khi bác sĩ
nói bốn tháng, nhưng có đôi lúc đến mười năm sau chưa chết!
Diệu
Âm khuyên hãy buông luôn đi, đừng sợ nữa, niệm câu A-Di-Đà Phật cầu vãng sanh
về Tây Phương Cực Lạc. Người đó đã đến đường cùng, không còn cách nào khác để
lựa chọn nên quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh, khỏi cần thuốc thang gì nữa
hết. Bảy tháng sau không chết mà cái bệnh ung thu tự nhiên hết. Đến nay đã sáu bảy
năm qua rồi vẫn chưa chết. Bây giờ đã hết bệnh, lại còn đi khuyên giảng người
ta niệm Phật nữa.
Pháp
môn niệm Phật tuyệt vời! Sự tuyệt vời này lại ứng dụng ngay trong pháp hộ niệm
chứ không phải ở ngoài. Nếu nói về pháp niệm Phật thì rộng quá, mênh mông quá! Còn
nói về pháp hộ niệm thì có sự chỉ vẽ cụ thể từng chút, từng chút.
Chư
Tổ nói, một lòng nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, không sợ chết. Cứ mong
cho chết đi, chết liền đêm nay đi cũng đâu có sao! Cứ mong vãng sanh đi thì tâm
này sẽ cảm ứng với đại nguyện của đức A-Di-Đà. Nếu thật sự cái mạng của mình đã
hết hạn thì mình vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, thân xác lưu lại sẽ đẹp vô
cùng. Bắt đầu từ đó mình an nhiên tự tại sống đời một vị Bồ-Tát bất thối trên
cảnh Tây Phương.
Còn
nếu cái số mạng mình mười năm nữa mới chết, thay vì mình nằm trên giường bệnh
mười năm quằn quại khổ đau, thì bây giờ mình có thể an nhiên tự tại, đi khắp
nơi, chụp hình thì bác sĩ không còn phát hiện ung thư nữa. Bệnh ung thư hình
như biến mất, để mười năm sau mình mới ra đi!
Vậy
thì dại gì mà sợ chết, dại gì mà không niệm Phật, dại gì mà không tha
thiết nguyện vãng sanh Tây Phương.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 13)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Pháp
hộ niệm vãng sanh bao trùm tất cả những chi tiết căn bản, những ứng dụng cần
thiết trong pháp môn niệm Phật, có thể giúp cho một người trong giai đoạn quan
trọng nhất của cuộc đời thực hiện đầy đủ ba tư lương “Tín–Hạnh–Nguyện” để vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Muốn
cho nhiều người được hưởng phước phần vãng sanh, xin chư vị hãy phát tâm vận
động, truyền bá phương pháp hộ niệm cho nhiều người biết. Thường thường những nơi
ít người vãng sanh là do phương pháp hộ niệm chưa được phổ biến tại nơi đó.
Rất
nhiều người hiểu lầm hộ niệm giống như cầu siêu, giống như cầu an, giống như chuyện
hậu sự, chứ thật ra người ta không biết rõ đích thật hộ niệm là như thế nào!
Thậm chí có những người chê bai, phỉ báng, cho rằng pháp hộ niệm là tà pháp.
Thật là một ý niệm lạ lùng, sai lầm!…
– Khi đi hộ niệm, mình ngồi cạnh người bệnh,
niệm câu “Nam Mô A-Di-Đà Phật”. Chẳng lẽ niệm “Nam Mô A-Di-Đà Phật” là tà pháp
sao?…
Trong
kinh Phật dạy mình niệm Nam Mô A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật… Có người lại nói
niệm A-Di-Đà Phật là tà pháp?!…
– Mình
hướng dẫn cho người bệnh nguyện vãng sanh về Tây Phương. Lời nguyện cụ thể, xác
đáng. Chẳng lẽ nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc là tà pháp sao?…
Thế
mà có những người nghĩ sai lời Phật dạy, nói ngược với kinh Phật! Ấy thế mà
người ta cũng làm được?!…
– Mình củng cố cho người bệnh có niềm tin vững
vàng, chắc chắn vào pháp niệm Phật để họ được phước phần vãng sanh. Chẳng lẽ
củng cố niềm tin cho người bệnh được vãng sanh là tà pháp sao?!…
Thế
mà có những người tung tin lên rằng hộ niệm là tà pháp!?…
Chúng
ta cần phải sáng suốt nhận định. Không những vậy, mà còn phải phổ biến cho thật
sâu rộng phương pháp hộ niệm để cho những người chưa biết hộ niệm bây giờ biết
đến. Cần giúp cho người ta vững tâm để may ra trong thời mạt pháp này cứu độ
được người nào hay người đó. Nhất là hàng phàm phu tục tử như Phật tử chúng ta
trong thời mạt pháp này, với căn cơ hạ liệt, phước đức thì mỏng, trí huệ thì
cạn, không cách nào có thể phá được vòng vây của nghiệp chướng!
Muốn
được nơi này có nhiều người vãng sanh thì bắt đầu từ hôm nay xin chư vị cố gắng
vận động. Ví dụ như ở Việt Nam người ta tung rất nhiều những băng đĩa hộ niệm,
tung nhiều tài liệu hộ niệm, hàng ngàn, hàng ngàn đĩa như vậy. Trong khi Niệm
Phật Đường chúng ta kêu gọi vận động hộ niệm, nhiều người đến lấy có một đĩa
à!… Đưa thêm một đĩa nữa thì nói: “Chi nhiều dữ vậy? Tôi lấy một đĩa đủ rồi!”…
Bây giờ phải làm sao? Có ai ép buộc được đâu? Muốn giao lưu rộng rãi thì mỗi
người đã cầm năm đĩa, tại sao không lấy thêm mười đĩa nữa để đi phát cho người
ta. Nhiều khi trong mười đĩa đó sẽ có một người ngộ được, rồi người đó lại tiếp
tục phát ra. Nhờ vậy mà có nhiều người biết hộ niệm. Tạo duyên rộng như vậy thì
chúng ta mới dễ hộ niệm được.
Trong
pháp hộ niệm có sự “Khai Thị – Hướng Dẫn”. Hôm trước
thì ta nói về hướng dẫn cho người bệnh, muốn vãng sanh thì đừng nên sợ chết. Hôm
nay chúng ta nói thêm một chút xíu nữa, là hướng dẫn cho người bệnh buông xả tất
cả những cái gì liên quan tới cõi đời này. Khuyến cáo họ tập buông ra. Ví dụ
như vấn đề tiền bạc, già rồi thì nên giao tiền bạc lại cho con cái, giao tài
sản lại cho con cái. Mạnh dạn mà giao đi. Những người muốn vãng sanh mà trên cổ
cứ đeo sợi dây chuyền, ngày nào cũng đeo, coi chừng sợi dây chuyền làm mình mất
vãng sanh đó…
Hồi
ông già của Diệu Âm còn sống, mấy anh chị em mua một sợi dây chuyền rồi chờ đến
ngày sinh nhật đến đeo cho ông. Tôi nói đến nỗi anh chị em phải rơi nước mắt!
Tôi nói rằng, tại sao lại mua sợi dây chuyền cho ông già đeo? Ông già đeo được
sợi dây chuyền trong ngày sinh nhật mà cảm động đến rơi nước mắt! Tôi hỏi anh
chị em rằng, khi ông già ông chết, mình chôn sợi dây chuyền theo ông hay là
mình lột ra? Nếu lột ra thì tại sao bây giờ không lột trước đi? Mà lại bắt ông
già phải đeo cái còng đó để ông tham đắm vào đó mà mất phần vãng sanh!
Khi mình
đã biết được đường vãng sanh thì phải tập buông xả. Buông xả đầu tiên là tiền
bạc…
Có
nhiều người thích ở cái nhà này, không chịu ở cái nhà nọ. Người con thì lại thích
mẹ ở cái nhà nọ, chứ không muốn người mẹ ở nhà này. Cũng chỉ vì một sự cố chấp
như vậy mà có thể đưa mẹ mình đến cảnh ngộ mất phần vãng sanh!…
Hiểu
được chỗ này rồi thì chúng ta hãy tập coi nhẹ đối với tất cả mọi vấn đề. Coi
nhẹ là chấp nhận hiện tượng đó một cách tự nhiên. Được vậy thì khi mình ra đi sẽ
nhẹ nhàng lắm, thư thả lắm. Ví dụ như con cái, mình thương nhớ con cái, mình
tưởng rằng đến lúc lâm chung mình có thể buông con cái được sao? Không đâu! Lạ lắm
chư vị. Có những người trong cuộc đời của họ có một kỷ niệm sâu sắc nào đó, họ
nhớ mãi cái kỷ niệm đó, đến lúc nằm xuống thì tự nhiên họ cứ nhắc mãi tới kỷ
niệm đó, không quên được!…
Nhớ
tới chuyện vãng sanh của bà Triệu Vinh Phương, có người đã kể lại rằng, bà có
một sợi dây chuyền, sợi dây chuyền đó là một vật truyền đời trong gia đình bà.
Tức là người mẹ truyền lại cho một người con, rồi người con phải đeo mãi sợi
dây chuyền đó như vật bất ly thân, rồi trước khi chết lại truyền lại cho một
người con của mình. Cứ truyền như vậy. Khi bà cụ đã ngộ ra đạo rồi, chín mươi
tuổi mới ngộ đạo, bà biết rồi, bà cởi sợi dây chuyền ra… Sợi dây chuyền đó có
ngọc hình Phật, đế Phật ngồi làm bằng loại cát ở sông Hằng-Hà bên Ấn Độ, quý
lắm. Bà dặn mấy người con nhất định đừng bao giờ để cho bà thấy lại sợi dây
chuyền một lần nữa. Đó gọi là buông xả.
Nếu chúng
ta không có thực hiện sự buông xả ngay từ bây giờ, thì tới lúc mình nằm xuống
rồi những cái chấp đó nó sẽ trói chặt tâm của mình lại!
Xin
thưa rằng, buông xả không phải là liệng sợi dây chuyền ra ngoài cửa sổ đâu, mà
hãy cho đứa con. Không phải là liệng tiền ra cửa sổ đâu, mà mình đừng có giữ
tiền. Không phải là tất cả những cái gì mình có đều liệng hết đâu… Nhưng
buông xả là giữ tâm thoải mái, không còn chấp nữa thì tự nhiên mình buông xả
được.
Khi khai
thị trước người bệnh, ta có thể nói: “Bác ơi! Bác cố gắng buông xả hết
nghen, vạn duyên buông hết nghen”. Thường thường là ta nói những câu đại ý
như vậy, để giúp người bệnh quyết tâm niệm Phật. Nhưng bây giờ, trong lúc còn
tỉnh táo này mà chúng ta không lo buông xả trước, đến lúc đó dù nói gì thì nói,
không dễ gì ta buông được đâu! Lạ lắm!
Ví
dụ như trong đời này mình ghét một người nào. Xin thưa với chư vị, khi đã biết
đường vãng sanh về Tây Phương, thì nhất định phải buông liền sự ganh ghét này
đi…
Hôm
trước có một vị ở bên Thụy Sĩ nói một câu hay vô cùng, vị đó nói:
– Trời
ơi! Hồi nào tới giờ tôi ghét người này không thể tưởng tượng được. Tôi thề
không bao giờ nhìn tới mặt. Nhưng sau này tôi biết được đường vãng sanh Tịnh-Độ
cần phải buông xả, tôi đã tới gặp và chào người đó. Tôi quỳ xuống ôm tay bà ta,
tôi hôn tay bà ta và tôi xin lỗi. Từ trước tới giờ tôi không bao giờ nghĩ mình
sẽ làm được như vậy… Nhưng khi làm được rồi, bắt đầu từ đó tự nhiên tâm hồn
tôi mở rộng ra và tôi cảm thấy thoải mái không thể nào tả được...
Đó
là buông xả. Nếu không buông xả, thì những vấn đề này nó trói mình lại, nó trói
chặt cứng! Dễ sợ lắm chư vị ơi!… Khi đi hộ niệm, mình mới thấy vấn đề này.
Cũng
có chuyện mắc cười lắm! Tôi gặp có nhiều người, tu thì cũng có tu, tu siêng
lắm, mà hễ thấy một người nào làm một cái gì đó hơi nổi một chút thì bắt đầu
tìm cách gièm pha. Thấy một người nào làm việc gì hay hay một chút thì nói xấu
liền. Thực tế, không biết người đó là xấu hay tốt, nhưng hễ thấy người ta làm
được cái gì cũng nổi tâm cạnh tranh ganh tỵ!… Thì đây chính là tật đố! Nếu
không xả tập khí này ra, nhất định đến lúc nằm xuống thì người này sẽ bị trở
ngại! Nếu giả sử như mình tới hộ niệm cho người đó, chúng ta sẽ thấy… Lạ
lắm?!… Mình thì khuyên: “Bác ơi! Bác niệm đi”. Nhưng người
đó cứ thầm thầm chửi bới, giận dữ… Hình như đang cự lộn với người nào đó. Mà
thật sự đối tượng đó không có mặt tại đó. Hoàn toàn không có! Phải chăng, oan
gia trái chủ đã ứng hiện để phá đám, mà hoàn toàn người đó không hay!
Chính
vì vậy mà hôm trước Diệu Âm có nói rằng, người niệm Phật thì:
– Nếu
sợ ánh sáng! Nay không được sợ nữa.
– Sợ bóng tối! Nay không được sợ nữa.
– Ghét một người! Nay không được ghét nữa.
– Chửi một người khác! Nay không được chửi nữa.
Nhất
định phải buông hết. Mình buông như vậy thì tự nhiên lúc nằm xuống, oan gia
trái chủ có muốn trá hình ra để mà gạt gẫm mình, muốn trá hình ra để hãm hại
mình, nhiều khi các ngài đó cũng đành chịu thua, khó có cách nào hại mình được.
Ví
dụ như những người sợ “Ma”! Một khi sợ “Ma” thì nhất định oan gia trái chủ sẽ
tìm cách ứng hiện thành “Ma”, thành “Quỷ”, họ dọa mình sợ chết luôn! Ấy thế, những
người đang bị ứng hiện những cảnh “Ma”, đang bị ma chướng vây hãm, nhưng nếu
khi họ phát tâm vững mạnh, buông hết, không còn e sợ nữa, niệm câu A-Di-Đà Phật
một ngày, hai ngày, ba ngày có thể giải tỏa ách nạn một cách trọn vẹn.
Tất
cả những cảnh giới đều ứng hiện từ tâm mình, chứ không phải ở ngoài.
Muốn
vãng sanh về Tây Phương mong chư vị cố gắng phân phát những tài liệu về hộ
niệm, truyền bá những tài liệu hộ niệm cho người thân của mình, cho người bạn
của mình… Cứ phát ra đi, đừng sợ tốn kém. Cố gắng phân phát ra đi thì nơi
chốn đó sẽ có nhiều người biết hộ niệm, nhờ vậy mà ta đi hộ niệm cho người cũng
dễ thành công. Thời gian vận động này phải cần ít ra một năm, hai năm sau nó
mới có thành quả. Chứ đâu có phải mới phát ra bữa trước thì bữa sau có người
vãng sanh liền. Không phải như vậy đâu!…
Phải
cần có thời gian dài như vậy thì tự nhiên chúng ta mới cứu người được, mà cứu
người được thì ta cũng được cứu luôn. Cứu người chính là cứu ta đó.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 14)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
“Hướng Dẫn – Khai Thị”, điểm
đầu tiên là làm sao cho một người phát khởi “Tín Tâm”. Muốn phát khởi tín
tâm này không thể nào đợi cho tới lúc mê man bất tỉnh, hay nằm thoi thóp chờ
từng giờ ra đi mà có thể phát khởi tín tâm được.
Cho
nên tất cả đều phải lo trước. Muốn cho một người vãng sanh thì nhất định làm
sao giúp cho người ta biết được phương pháp hộ niệm càng sớm càng tốt. Tại vì
khi biết trước như vậy, nếu họ chưa phát khởi tín tâm thì ta mới tìm cách, gọi
là thiện xảo phương tiện, để dẫn dụ, khuyên bảo họ phát tín tâm. Rồi từ tín tâm
này họ mới niệm câu A-Di-Đà Phật và sau cùng ta hộ niệm mới được.
Nói
về “Tín Tâm”, có một lần Hòa Thượng Tịnh-Không nói như thế
này, lúc đó Ngài đã đi xuất gia rồi, nhưng khi đến gặp ngài Lý-Bỉnh-Nam, ngài
Lý-Bỉnh-Nam nói với Ngài: “Thầy phải tin Phật nghe”.
Một
người cư sĩ mà nhắc nhở người xuất gia: “Thầy phải tin Phật nghe”. Hòa
Thượng cảm thấy ngạc nhiên! Nhưng sau cùng Ngài mới hiểu ra điều chí lý.
Không dễ gì có người tin được kinh Phật đâu! Có nhiều người tu hành nhưng không
tin lời Phật nói. Như chuyện niệm Phật vãng sanh, có nhiều người không tin. Một
người không tu thì thôi không nói làm chi, ta tìm thiện xảo phương tiện để dẫn
dắt họ. Có những người có tu hành nhưng mà không tin!…
Ví
dụ như Hòa Thượng Tịnh-Không, Ngài luôn luôn nhấn mạnh đến phương pháp hộ niệm.
Ngài long trọng tuyên bố rằng hộ niệm công đức vô lượng, vô biên, bất khả tư
nghì. Ấy thế mà có nhiều người thường nghe pháp của Hòa Thượng, cũng lấy pháp
Hòa Thượng để tu tập mà lại không tin chuyện hộ niệm, lại đi ra tuyên truyền rằng,
không có cái chuyện hộ niệm vãng sanh, mà còn dám nói hộ niệm là tà pháp nữa.
Cho nên, chữ “Tín” khó lắm, không dễ đâu!
Tại sao
như vậy?… Hòa Thượng nói:
– Một
người, đến giờ phút cuối cùng mà gặp được những người hộ niệm, gặp được ban hộ
niệm, có một số người vây quanh mình hộ niệm là do cái phước đức của họ lớn lắm
mới có, chứ không dễ đâu!
Đừng
nghĩ rằng ta tu như thế này rồi sau cùng ta sẽ được người hộ niệm đâu. Nếu lòng
tin của mình không có. Nếu mình có cái tâm chống đối việc hộ niệm, tức là mình
không chấp nhận sự hộ niệm, thì lúc mình nằm xuống những người đến “Hộ Niệm”
cho mình chính là những vị oan gia trái chủ tới đưa ta xuống tam ác đạo đó! Tại
vì ta đã có ý tưởng bài trừ chuyện hộ niệm, thì những người tới niệm Phật sẽ
làm cho ta nhức đầu, khó chịu, phiền não. Còn oan gia trái chủ đến thì họ không
niệm Phật, mà dựa theo cái tâm nghi ngờ của mình để gạt mình. Chịu bị gạt dễ
hơn là tin vào chánh pháp!
Niềm
tin vĩ đại lắm! Không dễ gì mà đủ được niềm tin đâu!
Cho
nên có người không hiểu vì lý do gì mà lại không tin? Trong khi Sư Phụ thì
tuyên dương pháp hộ niệm, còn mình thì lại nói: “Làm gì có chuyện hộ niệm
vãng sanh!”. Tuyên bố như vậy lỡ một mai Sư Phụ nghe được, rồi khi mình đối
diện với Sư Phụ, biết nói làm sao đây? Khó lắm đó chư vị ạ!
“Y
Giáo Phụng Hành” là điều cần thiết. Ta là người phàm phu tục tử, tự
mình nghĩ ra cách tu hành, nghĩ ra phương pháp tu riêng chưa chắc gì mình làm
đúng! Tốt nhất là chúng ta giữ cái tâm “Chí Thành – Chí Kính” vâng lời. Học kinh Phật thì y giáo kinh Phật, học Sư Phụ
thì y giáo Sư Phụ. Ngài Ấn-Quang nói: “Một phần thành kính thì một phần lợi ích, hai phần thành kính thì hai
phần lợi ích”. Người thành kính thường thường là người y giáo
phụng hành. Thật sự, chuyện vâng lời, chuyện y giáo phụng hành không phải dễ! Tin
tưởng vào Phật pháp không phải dễ! Nhất định không phải dễ đâu! Người đã tin
tưởng thì không bao giờ làm sai. Mà đã làm sai thì:
– Một
là mê muội!
–
Hai là phước báo quá tệ!
– Ba
là vì cống cao ngã mạn, vì đố kỵ hay sao đó mà tự mình không chịu làm theo kinh
Phật, không chịu y theo giáo pháp của chư Tổ Sư mà thực hành.
Muốn
vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc với pháp môn niệm Phật, đức Bổn Sư Thích-Ca
luôn nhắc nhở người niệm Phật phải lấy một môn mà đi, phải lấy sự chuyên tu mà
hành, giữ một câu A-Di-Đà Phật mà trì, thì đường vãng sanh vững vàng.
Ấy
thế mà nhiều người không chịu thực hành. Sư Phụ dặn phải buông xả, mình không
chịu buông xả. Sư Phụ dạy đừng có ganh tỵ, mình không chịu vâng lời, cứ để cái
tâm đố kỵ càng ngày càng phát triển! Như vậy rõ ràng học thì nhiều mà làm chẳng
có bao nhiêu. Thật là không tốt!…
Có
nhiều người thường đưa ra vấn đề:
– Tại sao người này tu cả bảy tám chục năm mà
không được vãng sanh?
– Tại sao người kia tu suốt đời mà không được
vãng sanh?
–
Tại sao người này giỏi quá mà không được vãng sanh?
Xin trả lời rằng:
– Tại vì thật sự họ không chịu y giáo phụng
hành!
–
Tại vì thật sự bên ngoài thì tưởng là y giáo phụng hành, nhưng bên trong họ lại
đi lạc đường!
Ví
dụ như một người nói, tôi quyết tâm tha thiết đi về Tây Phương, Tín-Hạnh-Nguyện
đầy đủ… Ấy thế, tại Niệm Phật Đường thì niệm Phật, ra khỏi Niệm Phật Đường
không còn niệm Phật mà niệm cái gì khác. Ở đây thì niệm Phật, về nhà không chịu
niệm Phật. Thấy cái này hay quá cũng tu, thấy cái kia hay quá cũng tu. Tưởng vậy
là hay, nhưng quên rằng:
– “Di-Đà
giáo ngã niệm Di-Đà”. Đức Di-Đà dạy ta niệm Di-Đà. Sáng cũng
phải niệm A-Di-Đà Phật, trưa cũng phải niệm A-Di-Đà Phật, chiều cũng phải niệm
A-Di-Đà Phật, tối cũng phải niệm A-Di-Đà Phật, gọi là nhất hướng chuyên niệm A-Di-Đà
Phật.
– “Khẩu
niệm Di-Đà, thính Di-Đà”. Miệng mình niệm Di-Đà, tai mình lắng
nghe tiếng Di-Đà để tâm mình nhập vào trong chủng tử A-Di-Đà Phật thì mình mới
có thể vãng sanh được. Thế mà mình không chịu nghe lời! Mình không chịu vâng
lời tức là: Một là mình cống cao ngã mạn, nghĩ rằng là mình giỏi hơn thầy! Nghĩ
rằng là mình giỏi hơn Phật!… Thật ra trong khi đó thì bao nhiêu chướng ngại
trùng trùng đang chờ trước mắt. Phật dành cho chúng ta con đường đi thẳng bưng
để thoát nạn mà không chịu thực hành.
– “Di-Đà
Di-Đà trực niệm khứ”, nghĩa là cứ câu A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật…
thẳng bưng như vậy mà niệm đi, gọi là “Trực niệm khứ”. Cứ thẳng bưng như
vậy mà niệm đi. Sáng cũng Di-Đà, trưa cũng Di-Đà, chiều cũng Di-Đà, tối cũng
Di-Đà. “Di-Đà Di-Đà trực niệm khứ”. Trực là thẳng bưng, nghĩa là cứ
một câu Di-Đà thẳng bưng như vậy mà niệm tới.
– “Nguyên
lai Di-Đà niệm Di-Đà”. Lúc đó mới thấy thế nào gọi là Niệm Phật Là Nhân – Thành Phật Là Quả – Niệm Phật Thành Phật. Chứ nếu không chịu “Trực niệm khứ”,
một đường như vậy mà đi, thì nhất định tâm này là tâm xen tạp! Pháp môn niệm
Phật rất tối kỵ về xen tạp!
Chính
vì vậy, để trả lời tại sao người này tu ba bốn chục năm mà không được vãng
sanh?…
– Là
tại vì anh không chịu y giáo phụng hành.
– Tại vì anh chưa có trí huệ mà không chịu nghe
lời Phật dạy.
– Tại vì anh không thấy được những cạm bẫy trên
đường tu hành, mà cứ tự lấy tâm ý của mình nghĩ sao làm vậy.
Xin
thưa với chư vị, ở đây là Niệm Phật Đường tha thiết muốn đưa người vãng sanh về
Tây Phương. Nhưng chư vị phải nhớ cho thật kỹ là phải y giáo phụng hành, đúng
mực mà đi. Nếu không đúng mực thì đừng bao giờ trách rằng tại sao tôi tu ba bốn
chục năm mà không được vãng sanh?…
Câu
trả lời chung quy chính là vì anh đã xen tạp rồi! Vì anh đã mất niềm tin rồi! Ngài
Mộng-Đông nói:
– Tại
sao xen tạp?… Niềm tin dở quá đi Cụ ơi!…
– Tại
sao bị gián đoạn?… Niềm tin dở quá đi Cụ ơi!…
– Tại
sao tôi tu nhiều thứ?… Tại
vì niềm tin vào câu A-Di-Đà Phật không có!…
Khi
chúng ta đi hộ niệm, thấy một bà Cụ quyết lòng niệm A-Di-Đà Phật, ta đoán thẳng
bà Cụ được chín mươi phần trăm vãng sanh. Nếu bà Cụ nói: “Chú ơi! Tôi muốn tụng bài
này, tôi cần tụng bài nọ…”, thì ta đoán rằng bà Cụ đã mất tới bảy
mươi phần trăm rồi. Tại vì vạn pháp đều ở trong câu A-Di-Đà Phật hết mà người
ta không hay!…
Muốn
báo hiếu cho cha mẹ, phải niệm câu A-Di-Đà Phật. Niệm câu A-Di-Đà Phật hồi
hướng cho cha mẹ, thì cha mẹ mình được siêu sanh Tịnh-Độ. Cha mẹ còn sống thì
mình biết hướng dẫn cha mẹ niệm câu A-Di-Đà Phật, để một câu A-Di-Đà Phật ứng hiện
trong tâm.
– “Nguyên Lai Di-Đà niệm Di-Đà”. Niệm Phật là nhân thành Phật là quả. Nếu lúc mẹ mình nằm xuống
mà mẹ mình không biết câu A-Di-Đà Phật để niệm thì “Phật Tánh Lực”
đâu có nữa! Dù có làm lành, làm phước thì lúc đó cái “Phước Lực” thì có, cái
“Thiện Lực” thì có, cái “Tam Thiện Đạo Lực” thì có, chứ còn cái “Phật Tánh Lực” làm sao xuất
hiện được. Nghĩa là tự tánh A-Di-Đà không ứng hiện được. Không ứng hiện được
thì yếu tố gì để mình được tiếp độ về Tây Phương?!…
Ngài
Lý-Bỉnh-Nam nói, “Mình nói A-Di-Đà Phật tiếp độ
mình về Tây Phương, chứ thật ra là chủng tử A-Di-Đà Phật trong tâm của mình ứng
hiện ra mà tiếp dẫn mình đi về Tây Phương”. Lý đạo là như vậy. Hôm
trước mình có nói, lực nhiếp thọ của A-Di-Đà Phật ví như một cục nam châm. Cục
nam châm dù mạnh tới đâu đi nữa cũng chỉ hút được chủng loại nam châm mà thôi.
Cùng chủng loại mới hút được, khác chủng loại không hút được. Lúc lâm chung
mình cứ nghĩ đến làm thiện ư? Nghĩ đến làm thiện thì trong thiện đạo đó muốn đi
sao đi, chứ làm sao trở về Tây Phương được? Chỉ có một chút lý đạo thế này mà
nhiều người không hiểu! Muốn về Tây Phương thành đạo mà cứ chập chờn, chao đảo!
Giảng nói tới cạn lời mà không chịu nghe!
Càng
tạp loạn càng dễ bị mất phần vãng sanh! Càng tạp loạn càng dễ bị mất phần vãng
sanh!…
Ví
dụ như người thích tu pháp Sám Hối. Sám Hối có Lương-Hoàng-Sám Hối, có
Từ-Bi-Thủy-Sám Hối, có Di-Đà Sám Hối, v.v… Mình tu Di-Đà tại sao không niệm
Di-Đà để sám hối, mà lại đi sám hối những đường khác để bị lạc mất câu: “Nhất hướng chuyên niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh
bỉ quốc”! Đang đi đường hướng Tây, lại lo lắng chuyện trở ngại
của đường hướng Bắc… Sai lầm vô cùng!
Vấn
đề hộ niệm, khai thị nó còn rất nhiều. Mong chư vị nên nhớ. Xin nhắc lại, nhất
định một đường đi thẳng, đó gọi là đi tắt, đó gọi là đi chánh.
“Trụ Chánh-Định Tụ nhất
định chứng ư A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề. Nhược Tà-Định Tụ cập Bất-Định Tụ
bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố”. Chánh-Định-Tụ là niệm câu
A-Di-Đà Phật sẽ được chứng đắc Vô-Thượng Bồ-Đề. Nếu không niệm Phật hoặc tu xen
tạp thì nhất định khó có khả năng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đây là lời
Phật dạy trong kinh Vô-Lượng-Thọ.
“Tà-Định Tụ” là
không chịu niệm câu A-Di-Đà Phật, đi xéo xéo. “Bất-Định Tụ” là cứ thấy
cái gì hay hay cũng tụng hết, thấy cái nào hay hay cũng tu hết, tức là tu tạp.
Mong
chư vị chộp lấy cơ hội này mà đi thẳng về Tây Phương Cực Lạc gặp A-Di-Đà Phật
để thành đạo trong một báo thân này.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 15)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Trong ngày hôm nay Diệu Âm có
điện thoại qua bên Perth để hướng dẫn cho một người bị bệnh ung thư chắc cũng
sắp sửa ra đi trong ngày một ngày hai. Đó gọi là “Khai Thị – Hướng Dẫn”.
Trong mấy mươi phút nói chuyện cũng giải tỏa nhiều điều cho người bệnh. Người
bệnh đã quyết lòng nguyện vãng sanh, chuẩn bị để đi về Tây Phương Cực Lạc,
không có sợ chết!
Trong cuộc điều giải này đã
giải tỏa được một vấn nạn mà người ta tưởng rằng không thể giải quyết được, đó
là một sự xích mích rồi đưa đến tình trạng giận hờn với một người thân nào đó
bên chồng và người bệnh đã thề lên thề xuống rằng nhất định suốt đời không thể
tha thứ. Khi nói chuyện xong thì người đó đã quyết tâm tha thứ, quyết buông xả.
Diệu Âm có nói:
– Bây giờ kêu người đó đến
đây, chị quỳ xuống xin lỗi người đó. Không những là không trách người ta mà còn
xin lỗi nữa. Chị chịu không?…
– Chịu!…
Rồi tôi nói với ông chồng:
– Bây giờ chị đã sắp chết
rồi, anh đi kêu người đó tới đây, rồi bảo người đó rằng, vì một người sắp chết
mà quỳ xuống trước mặt người bệnh, rồi cũng xin lỗi để hóa giải mọi sự giận
hờn. Anh chịu không?…
– Chịu!…
Tôi nói, vậy là được rồi! Khai
thị hộ niệm là vậy đó, không phải là giảng pháp, giảng kinh gì đâu. Mình nói
hết sức là tình cảm, vui vẻ, không có gì phải lễ mễ hết. Cách nói cũng giống
như đang trò chuyện với nhau, khuyên giải để xả bỏ cho được những gút mắt…
Chị đó là người sắp phải chết
rồi. Trước khi đến, tôi đã được ban hộ niệm cho biết rằng chị vẫn còn chấp, vì
một sự giận hờn nào đó mà không chịu buông tha. Đây là điểm cần phải chú ý. Để
hóa giải vấn nạn này, khi nói chuyện tôi tìm cách khều chuyện này ra. Tôi nói:
– Bây giờ chị phải bỏ hết
nghe không? Không lo lắng, không buồn phiền, không giận hờn ai, không thương
nhớ ai hết nhé… Ông xã này cũng phải bỏ luôn nhé…
Tôi tìm cách khèo khèo cho ra
chuyện này mà. Chị đó mới tự thú rằng:
– Nhưng có một người tôi
ghét quá, không thể nào tha được!
Tôi nói:
– Nếu chị muốn đi về Tây
Phương làm Bồ-Tát. Bồ-Tát thì phải có tâm đại từ đại bi, tâm quảng đại, không được
ghét một người nào chứ. Muốn làm Bồ-Tát mà lại ghét người ta thì làm sao
được!?… Chị căm ghét người ta, chị không tha thứ cho người ta, thì làm sao oan
gia trái chủ có thể tha thứ cho chị?…
Chị nghĩ thử, người chị ghét đó
dù có lỗi như thế nào đi nữa thì cũng chỉ nói sơ suất một chút xíu thôi, chưa động
tới cái móng tay của chị, mà chị thề lên thề xuống giận hờn, căm ghét như
vậy! Bây giờ những chúng sanh mà chị cắt
cổ, mổ ruột, nhổ lông, xẻ thịt người ta ra để chị ăn… thì cái mối thù này làm
sao người ta có thể tha cho chị?…
Cho nên, chị tha cho người ta
thì oan gia trái chủ mới tha cho chị. Chị có tha cho người ta thì chị mới xứng
đáng với cái tâm Bồ-Tát, chị mới có thể về Tây Phương thành Phật thành Bồ-Tát được
chứ!…
Nghe nói thấm quá chị mới chịu
tha. Sau đó, chị đó lại ngỏ ý tha thiết muốn tôi đến hộ niệm cho chị. Tôi nói
rằng, ở bên đó có ban hộ niệm, cứ theo y hệt như vậy mà làm đâu cần phải có
tôi? Chị đó nói:
– Nhưng mà tôi không an tâm!…
Vì lòng tha thiết của người
bệnh và gia đình, cho nên có thể ngày mai hay ngày mốt Diệu Âm phải bay qua đó
một chuyến, có thể khoảng hai, ba ngày gì đó để cho người ta an tâm…
Đây là vấn đề tâm lý mà thôi,
chứ thật ra tôi không có năng lực đặc biệt gì đâu! Người lạ đôi khi dễ nói
chuyện hơn. Vì người ta tin tưởng vào tôi thì tôi nên đến. Tôi đến cũng nói như
bao nhiêu người khác vậy thôi, nhưng vì lòng tin của họ vào tôi mà tôi có thể
dễ làm cho người bệnh an tâm. Nhờ một chút an tâm như vậy mà có thể người ta
được vãng sanh…
Thưa với Sư Cô cùng chư vị, chương
trình hướng dẫn hộ niệm cho người bệnh đến nay có thể tổng kết được rồi để bước
qua phần khác. Những điểm mình cần chú ý trong cách “Khai Thị – Hướng Dẫn” là:
– Thứ nhất là người
bệnh phải tỉnh táo. Ví dụ như bà chị đó còn tỉnh táo. Dù rằng mặt chị
đã sưng lên rồi, đây là triệu chứng báo cho biết là chuẩn bị sắp chết rồi,
nhưng vẫn còn tỉnh táo, vẫn còn nói chuyện được. Nếu người bệnh bị mê man bất
tỉnh thì thôi chịu thua, không có cách nào có thể hướng dẫn được.
Hiểu được chỗ này, muốn được hộ
niệm, gia đình người bệnh phải liên lạc với ban hộ niệm càng sớm càng tốt, phải
mời ban hộ niệm trong lúc người bệnh còn khỏe, còn tỉnh. Còn tỉnh thì mình mới
dễ hướng dẫn người ta được.
Nói đến đây cũng như để nhắc
nhở chúng ta biết rằng, khai thị cho người bệnh chính là khai thị cho chính
mình. Tất cả những gì cần thiết về hộ niệm mình biết hết, thì lúc đến phiên
mình khỏi cần phải khai thị nữa.
– Một điểm cần phải chú
ý nữa là làm sao cho người bệnh phát khởi niềm tin. Hãy vận dụng tất
cả những gì khôn khéo của mình ra để giúp cho người bệnh tin tưởng. Có nhiều
khi mình muốn khuyến tấn người bệnh, nhưng người bệnh không phát được lòng tin,
nhưng khi nhờ đến người khác giúp đỡ, như nhờ một người chú, người bác, người
anh, người em tới nói thì họ lại nghe. Đó là vì có duyên với nhau. Nhiều khi
chính mình không có duyên nhưng những người khác lại có duyên. Cần nên chú ý
điểm này.
Mấy hôm nay Diệu Âm thường hay nói
rằng, chúng ta cần phổ biến phương pháp hộ niệm, vận động cho rộng ra. Vì nhiều
khi trong gia đình chúng ta nói hoài mà người mẹ không nghe, nhưng biết chừng
đâu khi ra ngoài chợ, đi ra ngoài đường gặp một người nào đó nói:
– Trời ơi! Bây giờ già rồi!
Trước sau gì cũng phải ra đi, mình phải cần tới hộ niệm. Hộ niệm hay lắm!
Chỉ cần một người ở ngoài nói một
lời như vậy mà làm người mẹ của mình giật mình, làm người cha của mình giật
mình, làm người không tin đó giật mình… Nhờ duyên này mà người ta tin. Khi
khởi phát niềm tin rồi thì tự nhiên thiện căn phước đức nảy nở lên, nhờ đó mình
hộ niệm mới được.
Đi thuyết cho người ta tin, thì
chính mình phải tin. Đã tin thì phải đi cho vững, đừng có đi chập choạng. Pháp
môn niệm Phật rất tối kỵ chuyện tạp tu. Đó là sự thật. Ví dụ như chị đó ở
Perth, thuộc một gia đình có chồng con theo Thiên Chúa Giáo, còn chị thì theo Phật
Giáo. Thật ra thì lâu lắm mới tới chùa thăm một lần chứ đâu có tới chùa hoài.
Như vậy thì đâu có tu hành gì! Nhưng cuối đời, nghe người hướng dẫn vãng sanh,
tự nhiên phát lòng tin tưởng, quyết một đường mà đi, cứ câu A-Di-Đà Phật mà
niệm. Tôi hy vọng rất nhiều rằng chị sẽ ra đi để lại thoại tướng bất khả tư
nghì cho chư vị coi…
Còn nếu chúng ta tu như thế này
mà không vững lòng tin vào câu A-Di-Đà Phật, cứ tưởng rằng câu A-Di-Đà Phật là
yếu, câu A-Di-Đà Phật là dở, nên thường vay cái này một chút, vay cái kia một
chút! Không ngờ chuyện vay mượn này đã xác định rằng chính cái tâm của mình không
vững vàng niềm tin. Không vững vàng niềm tin thì lực niệm Phật không mạnh, làm
cho sau cùng chủng tử A-Di-Đà Phật không ứng hiện được. Đây là điều rất quan trọng,
xin nhắc đi nhắc lại thật kỹ cho chúng ta nhớ, để khi chúng ta đi hộ niệm phải
làm sao cho người bệnh thấy rằng một câu A-Di-Đà Phật là tất cả. Muốn được vậy,
đầu tiên chính người hộ niệm phải vững cái tâm niệm này trước.
Một người tu càng tạp chừng nào
thì chứng tỏ niềm tin vào câu A-Di-Đà Phật của người đó càng yếu chừng đó!
Sẵn đây xin nói thêm một điều
nữa. Một pháp môn có một tông yếu riêng, có một pháp hành trì riêng. Chúng ta
không nên phạm đến quy luật của pháp môn đó, thì sự tu tập của mình sẽ được
nhiều thiện lợi.
Ví dụ như tu theo một pháp môn
về tự lực, thì chủ yếu của họ là phải diệt cho sạch nghiệp chướng. Vấn đề
nghiệp chướng đối với họ lớn vô cùng, bắt buộc họ phải tìm cách diệt cho sạch.
Vì vậy, tâm tâm nguyện nguyện của người tu tự lực là diệt nghiệp, gọi là “Đoạn
Hoặc Chứng Chân”.
Còn pháp môn niệm Phật không phải lấy việc diệt nghiệp làm chính,
mà lấy Tín-Nguyện-Hạnh làm chính. Từng câu
A-Di-Đà Phật với Tín-Nguyện-Hạnh đầy
đủ thì tự nó phá nghiệp, tự nó hóa giải chướng nạn. Giả như hóa giải
chướng nạn không được, thì A-Di-Đà Phật cũng cho ta “Đới nghiệp vãng sanh”, nghĩa là mang nghiệp đi về Tây Phương.
Người tu pháp môn niệm Phật được
thành tựu chính là nhờ sự tiếp độ của A-Di-Đà Phật. Còn đối với các pháp môn
khác thành tựu chính là tự lực tu chứng, nghĩa là phải diệt cho hết
nghiệp chướng. Nghiệp chưa sạch, tình chưa không thì nhất định không có phần
thoát vòng sanh tử. Còn ở đây chúng ta nhờ lòng chân thành niệm Phật cầu
vãng sanh mà được nguyện lực đức A-Di-Đà Phật tiếp dẫn về Tây Phương. Xin
nhớ cho vững nguyên tắc này.
Khi vững nguyên tắc này rồi,
thì ngày ngày đêm đêm lo chuyên tâm niệm Phật. Để chi vậy? Giả sử như một cái
thùng lô-tô, chứa đựng rất nhiều con số, số này, số nọ, hàng trăm hàng ngàn con
số, mình muốn được con số nào? A-Lại-Da thức của chúng ta giống như một cái
thùng lô-tô vô đáy. Chủng tử ác, chủng tử thiện, chủng tử Phật, chủng tử Ma,
chủng tử Quỷ,… đủ thứ chủng tử chứa đựng bên trong cái A-Lại-Da thức này. Có
vô lượng vô biên chủng tử trong đó.
Đã biết rằng vô lượng vô biên
chủng tử mình đã tạo ra từ trong vô lượng kiếp đều chứa trong đó rồi, mà bây
giờ chúng ta còn sơ ý thì những chủng tử đó có thể nó ứng hiện ra, ứng hiện cái
nào mình bị cái đó.
Như vậy bây giờ làm sao đây?…
Bây giờ phải ngày ngày đêm đêm tranh thủ từng giờ từng phút mà tiêm chủng tử
A-Di-Đà Phật vào trong A-Lại-Da thức, để chủng tử A-Di-Đà Phật càng ngày càng nhiều
trong tâm, nó bao tất cả những chủng tử khác lại. Niệm Phật thì:
– Tâm
của mình luôn luôn hướng về Tây Phương.
– Tâm của mình luôn luôn nghĩ
tới Phật.
– Tâm của mình lúc nào cũng đắm
trong câu A-Di-Đà Phật, gọi là “Tâm trú niệm Phật trung”.
Để chi vậy?… Để cho khi mình
nằm xuống, tất cả những chủng tử dù cho vô lượng vô biên tràn ngập từ vô lượng
kiếp vẫn còn nguyên đó, nhưng tâm chúng ta đang duyên đến chủng tử A-Di-Đà
Phật, để sau cùng ta vẫn nhớ và niệm một câu A-Di-Đà Phật. Chính cái niệm cuối
cùng này là cái duyên đưa chủng tử A-Di-Đà Phật của chúng ta xuất hiện ra, gọi
là “Phật Tánh Lực” của ta ứng
hiện lên, thì A-Di-Đà Phật phóng quang đến tiếp độ được chúng ta đi về Tây
Phương.
Còn nếu những người cứ sợ
nghiệp! Bây giờ sợ nghiệp thì khi nằm xuống chắc chắn họ cũng sợ tới nghiệp! Mà
tâm sợ nghiệp thì tâm duyên tới nghiệp. Tâm duyên tới nghiệp thì hàng vạn cái
nghiệp sẽ ứng hiện trong tâm, nó sẽ dìm chủng tử A-Di-Đà Phật xuống. Chịu thua
rồi!…
A-Di-Đà Phật chỉ có tiếp độ Tự Tánh
Di Đà, nghĩa là chỉ tiếp độ chủng tử A-Di-Đà của chúng ta, chứ A-Di-Đà Phật
không tiếp độ cái nghiệp của chúng ta. Những người tu hành càng xen tạp chừng
nào, thì sau cùng càng khó vãng sanh chừng đó, nguyên do chính là ở chỗ này.
Mong chư vị hiểu được lý đạo này,
mới biết rằng những người nào tu xen tạp sẽ rất khó vãng sanh! Muốn vãng sanh
Tây Phương Cực Lạc mà tu xen tạp là một đại chướng ngại cho họ! Dù người đó tu
hành có giỏi hơn cái bà ở trên thành phố Perth, nhưng chưa chắc đã hơn được bà!
Chúng ta thấy rất rõ rằng bà ở thành phố Perth đâu có tu hành gì! Khi bà đó biết
được niệm Phật là lúc đã bị ung thư sắp chết rồi. Gặp người hộ niệm nhắc nhở
đường vãng sanh, bà mới phát lòng tin và chỉ cần từ đây niệm Phật. Họ nhắc
rằng, bà phải nhớ Phật nghe, niệm Phật nghe, nghĩ tới Phật nghe, không sợ chết
nữa nghe… Bà làm được như vậy thì tự nhiên Tự Tánh Di Đà ứng hiện, dù có thể
bà niệm Phật một ngày thôi, chủng tử A-Di-Đà Phật chỉ thâm nhập có mười chủng
tử thôi, nhưng mà bắt đầu từ lúc có cái chủng tử A-Di-Đà Phật đó, thì bà:
– Luôn
luôn nhớ tới A-Di-Đà Phật.
– Luôn
luôn nghĩ tới A-Di-Đà Phật.
– Luôn
luôn nhớ về Tây Phương.
Thì cái niệm cuối cùng này nó
duyên đến chủng tử A-Di-Đà Phật, vô tình chân tâm tự tánh của bà đó sẽ vẹt tất
cả những nghiệp chướng, vẹt tất cả những đám mây mù mà ngoi lên. Được A-Di-Đà
Phật phóng quang tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc.
Chính vì vậy chúng ta về Tây
Phương là nhờ Phật tiếp độ chứ không phải là tự lực tu chứng. Xin chư vị nắm
vững lý đạo này cho thật rõ ràng.
Ngài Ấn Quang Đại Sư nói “Chí
Thành – Chí Kính là đạo nhiệm mầu để ta về Tây Phương, chứ không phải là tự
chứng đắc”.
Mong cho chư vị hiểu được như
vậy để chúng ta đi về Tây Phương không bị chướng ngại.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 16)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Trong
mấy ngày hôm nay, chúng ta nói về “Khai
Thị – Hướng Dẫn” cho người vãng sanh trong phép hộ niệm, thì mai
này Diệu Âm phải đi qua bên tây Úc, để làm công việc này. Thật ra thì vị này đã
có duyên, cách đây hai tháng trong lúc đi qua bên tây Úc đã gặp được chị. Chị
bị bệnh ung thư đang nằm chờ chết, thì duyên may gặp được những người hộ niệm
hướng dẫn, khai thị và chị đã phát lòng tin tưởng để đi về Tây Phương. Bản thân
là tu học Phật, nhưng gia đình thì Thiên Chúa giáo. Điều này cũng có một chút
ít chướng ngại! Nhưng mấy ngày qua Diệu Âm có điện thoại tới khuyên bảo, thì
tất cả gia đình đều đồng ý giúp cho chị này được vãng sanh.
Như
vậy “Hướng Dẫn – Khai Thị” hộ niệm chúng ta đã làm. Khi một người
còn tỉnh táo thì mới thực hiện được sự khuyên bảo này, chứ đến lúc hấp hối, lâm
chung thì không còn cách nào hướng dẫn được nữa. Chính vì vậy, xin nhắc lại là
nếu trong đồng tu chúng ta có bà con, thân nhân, anh em… muốn được hộ niệm
thì phải thông báo trước, phải cho biết trước. Gia đình phải khuyên nhủ trước
để cho người bệnh chấp nhận sự hộ niệm. Gia đình cũng phải thông hiểu việc hộ
niệm và hỗ trợ tích cực vào việc này thì ban hộ niệm mới có thể hộ niệm được.
Ví
dụ như cách đây hơn một tuần, có một người bệnh ở gần đây, nhưng chúng ta không
cách nào nhận đến hộ niệm được! Tại vì trong lúc còn tỉnh táo thì không chịu
kêu, khuyên tu thì người đó không chịu tu, đến lúc đã mê man bất tỉnh trong
bệnh viện rồi người thân mới kêu. Đã quá trễ! Chúng ta có đến cũng như
không!…
Hôm
nay chúng ta tiến thêm một bước nữa, là đang hộ niệm mà người bệnh hấp hối thì
khai thị làm sao? Ví dụ khi tôi đi qua bên tây Úc, nếu vị đó ra đi trong dịp
này thì chắc chắn rằng Diệu Âm phải làm công chuyện đó. Tương tự như coi trong
các cuộn phim, các video hộ niệm vãng sanh, quý vị thường thường thấy người trưởng
ban hộ niệm đứng bên cạnh người hắt hơi sắp sửa ra đi, họ nói rất lớn lời này:
– Bác
Trần văn X ơi! Giờ phút này Bác đã sắp sửa buông báo thân rồi. Mau mau nhiếp
tâm lại niệm câu A-Di-Đà Phật để theo A-Di-Đà Phật vãng sanh về Tây Phương Cực
Lạc. Đây là cái giây phút hết sức quan trọng, đừng phân tâm, đừng chao đảo, cố
gắng niệm theo chúng tôi, chờ A-Di-Đà Phật đến, theo A-Di-Đà Phật vãng sanh về
Tây Phương Cực Lạc.
Thường
thường nói câu đó. Xin nhắc lại, hãy nhắc nhở cho người bệnh biết rằng giờ phút
xả bỏ báo thân đã đến.
– Bác Trần văn X ơi! Bao nhiêu năm qua Bác chờ đợi
cái giờ phút này để theo A-Di-Đà Phật vãng sanh về Tây Phương thành đạo. Thì
giờ phút này sắp đến rồi. Hãy vui vẻ lên! Nhiếp tâm lại niệm A-Di-Đà Phật để cơ
hội này mình được vãng sanh thành đạo. Nhất định đừng có phân tâm nhé.
Nói
chậm rãi, rõ ràng…
– Trong
giờ phút này tất cả mọi cảnh giới chỉ là huyễn mộng!… Là giả!… Xin bác Trần
văn X cứ việc nhiếp tâm niệm A-Di-Đà Phật, theo A-Di-Đà Phật. Tuyệt đối không
theo một vị nào khác…
Quý
vị hãy nghe thật kỹ những lời nói này. Mình phải nhắc hai-ba lần, chứ không
phải chỉ nhắc một lần. Mỗi lần nhắc một chút thôi.
– Bác Trần văn X ơi! Một đời mình tu hành là chờ
đến cái giây phút này để xả bỏ báo thân, xả bỏ những thứ vô thường của cuộc
đời, đi về Tây Phương thành đạo. Thì đây là cơ hội thù thắng, Bác phải vui mừng
lên, vững vàng, theo A-Di-Đà Phật. Nhớ niệm theo chúng con nhé…
Rồi
bắt đầu niệm: “A-Di-Đà-Phật… A-Di-Đà Phật…”. Rõ ràng từng tiếng,
từng tiếng. Lúc hấp hối có thể mình sẽ thấy người bệnh thở từng hơi một rất là
khó khăn. Chúng ta có thể nương theo hơi thở của họ mà niệm: “A… Di… Đà… Phật…”. (Niệm theo hơi thở: Thở một hơi
niệm A, thở một hơi nữa niệm Di, v.v…).
Sở
dĩ những người sắp sửa xả bỏ báo thân thường hay há cái miệng ra thở và thở hắt
hơi lên, vì lúc đó các cơ bắt đầu muốn ngừng rồi. Các cơ ngừng thì máu cũng
theo đó mà chạy chậm lại, người bệnh cảm thấy ngộp, khó thở, cho nên phản ứng
tự nhiên của họ là cố mở miệng cho thông cổ ra, mở cho thông đường khí quản ra,
và họ chỉ còn thở được từng hơi thở một. Nếu họ thở từng hơi khá chậm, chúng ta
cũng có thể nương theo từng hơi thở đó mà niệm: “A-Di-Đà Phật”. Thở một hơi nữa: “A-Di-Đà Phật”… Trong lúc người ta xả bỏ báo thân thì niệm
một trong hai cách này là tốt nhất. Niệm như vậy để giúp cho người bệnh nghe
tiếng niệm của mình mà niệm theo. Một lần người ta hít hơi vô thở ra một cái,
thì nương theo tiếng của mình họ niệm một tiếng… Phải niệm thật rõ ràng.
Trong
giờ phút này rất cần người trong gia đình, con cháu quỳ xuống trước bàn thờ
Phật, lạy Phật, cầu Phật tiếp độ. Nếu gia đình thành tâm thì trong những lúc
này hãy cố gắng lạy Phật, lạy đến đổ mồ hôi mới hay! Có lạy như vậy mới chứng
tỏ sự thành tâm cầu Phật gia trì, thành tâm cầu viện chư vị pháp giới chúng
sanh hộ niệm cho người đó, thì tự nhiên sẽ có cảm ứng rất là mạnh.
Trong
những giây phút này rất là căng thẳng, không được để một người nào lạ không
biết pháp hộ niệm đi vào trong phòng hộ niệm.
Tại
vì nếu mà người ta sơ ý, nhất là những người bà con thân thuộc ở xa, nghe nói
người bệnh sắp chết thì thường cứ điện thoại, nhắn tin trở về là điều không
tốt! Tốt nhất mình cứ im lặng hộ niệm khi nào viên mãn xong rồi, tức là từ tám
giờ đồng hồ mới bắt đầu điện thoại kêu. Nhờ vậy người ta muốn đi tới thăm thì
ít nhất cũng hai hoặc ba tiếng đồng hồ nữa. Thời gian này đủ cho mình hộ niệm viên
mãn…
Có
nhiều người không biết hộ niệm, gần những lúc người bệnh sắp chết thì cứ kêu
thân nhân về cho nhiều. Những người đang ở bên cạnh người bệnh thì đã biết về
hộ niệm, đã từng học hỏi qua khai thị hướng dẫn, thì họ có thể giúp ích người
bệnh niệm Phật. Còn những người thân khác ở từ xa bay về, thường người ta nhào
vô quậy rối lên. Người ta ôm, nắm, níu, khóc… sẽ làm cho người bệnh bị trở
ngại, không thể định tâm niệm Phật, nhất định khó được vãng sanh về Tây Phương
Cực Lạc.
Chính
vì vậy, ở giây phút này ta phải hết sức chú trọng. Tất cả con cái nếu có thể mặc
áo tràng để ngồi hộ niệm thì rất tốt. Nếu không có áo tràng cũng không sao. Cố
gắng nhiếp tâm niệm đều đều câu A-Di-Đà Phật. Hãy phát tâm quỳ lạy Phật cho
nhiều. Người trưởng ban hộ niệm lúc này luôn luôn phải ở tại hiện trường, lâu
lâu thì nhắc nhở một lần:
– Bác
Trần văn X ơi! Vững vàng, vui vẻ niệm A-Di-Đà Phật, theo A-Di-Đà Phật. Nhất
định trong cơ hội này vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nói
ngắn gọn. Lúc hấp hối, có người khai thị cũng hơi giống như vậy, nhưng nói như thế
này:
– Bác
Trần văn X ơi! Niệm Phật đi theo Phật… Theo Phật nghe Bác.
Xin
hỏi chư vị, câu này có gì sai không?…
–
Ráng niệm Phật nghe Bác! Niệm Phật để đi về với Phật nghe Bác! Đừng đi theo ai
hết.
Quý
vị nghe thử câu này có gì sai không?…
– Có!…
Phải nói là: “Đi theo A-Di-Đà Phật”. Không được nói “Đi theo Phật”. Không được nói “Đi theo Phật” một cách trổng trổng! “Một đời
mình tu, bây giờ phải theo Phật, về với Phật nghe”! Nói trổng trổng như vậy rất dễ hướng dẫn người ta đi
sai đường! Mà phải nói rõ ràng:
– Đi
theo A-Di-Đà Phật, niệm A-Di-Đà Phật, theo A-Di-Đà Phật để về Tây Phương với A-Di-Đà Phật.
Nhắc
đi nhắc lại, nhắc lên nhắc xuống câu “A-Di-Đà Phật”, để tâm người bệnh xác
định là chỉ được quyền đi theo “A-Di-Đà Phật”.
Có
nhiều người hộ niệm, nhưng vì còn thiếu kinh nghiệm, thường nói: “Đi theo Phật, không được đi theo ai hết”.
Đây là những lời hướng dẫn vô cùng sơ ý, dễ làm cho người bệnh bị mất phần vãng
sanh! Vì xin thưa rằng, trong pháp giới này có nhiều cảnh giới mà mình không
thể lường trước được. Trong vấn đề nhân quả của chính mình, mình phải chịu lấy.
Mình giết hại chúng sanh, mình gạt, mình đốt, mình bắt, mình làm gì đó,… tạo
ra không biết bao nhiêu nghiệp sát. Nghiệp sát thì tạo ra oán thân trái chủ.
Oán thân trái chủ thường thường họ theo sát bên cạnh mình để chờ đến giờ phút gọi
là buông xả báo thân, sẽ tìm mọi cách để trả thù. Người hộ niệm có điều giải,
nhưng chưa chắc gì đã điều giải hết được.
Ví
dụ như có một ngàn người, mình điều giải được bảy trăm người, nhưng còn đến ba
trăm, người ta không chịu tha thứ… Bên cạnh đó cũng có thể có những chúng
sanh khác, họ không muốn người bệnh này đi về Tây Phương. Nếu sơ ý mình nói: “Đi
về với Phật, đi về với Phật”. Nghe nói vậy, họ có thể ứng ra hình
tướng một vị Phật liền, họ giả dạng ra liền, cũng đỏ đỏ, xanh xanh, trắng
trắng, hồng hồng… bay phất phới. Người bệnh thích quá, tưởng là Phật đi theo
liền!…
Thành
ra, vì sơ ý một chút như vậy mà làm cho người bệnh bị lạc đường. Xin nhắc lại,
mình phải nói:
– Bác
Trần văn X ơi! Phật tử Y… gì đó ơi! Niệm
A-Di-Đà Phật với chúng con, đi
theo A-Di-Đà Phật, nhất định không được đi theo một người nào hết.
Có chúng con đang niệm Phật tại đây, quang minh của Phật đang phổ chiếu ở tại
đây. Hãy nhiếp tâm lại niệm A-Di-Đà Phật, chờ A-Di-Đà Phật đến, đi theo Ngài vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nhất định không thể lạc đường.
Nói
rõ ràng!
Nói
vậy thì người bệnh đó dễ xác định, còn mình phải nhắc nhở, luôn luôn phải nhắc
nhở đến tiếng “A-Di-Đà Phật” để cho người bệnh vững tâm.
– Bác
Trần văn X ơi! Tất cả mọi cảnh giới đều là huyễn! Là giả! Dù có thấy gì cũng
không sao hết. Có chư vị Phật tử đang ở sát bên cạnh hộ niệm cho Bác đây. Có
quang minh của Phật đang che chở cho Bác đây. Bác hãy yên chí, không sợ gì cả!
Nói
rõ ràng! Nhất định ngoài những câu nói này không được làm gì khác hết. Không
được tụng một câu Chú, không được tụng một câu Kinh, không được tụng một cái gì
khác. Hãy nhắc nhở, rồi cứ niệm A..
Di.. Đà.. Phật đồng thanh niệm đều, niệm mạnh, niệm
từng tiếng A.. Di.. Đà..
Phật, A.. Di..
Đà.. Phật. Có nhiều người thiếu kinh nghiệm hộ niệm, trong
lúc này lại đọc Chú này, đọc Chú nọ, có thể làm họ mất phần vãng sanh!
Mong
chư vị khi biết được những chuyện này, ví dụ sau này người nhà của mình ra đi,
thì áp dụng vững vàng như vậy. Chắc chắn rồi sau khi đi bên tây Úc về chúng tôi
sẽ nói thêm về vấn đề “Điều Giải – Khai Thị” oan gia trái chủ. Đây là những điểm
hết sức quan trọng. Sau khi đã hướng dẫn người bệnh, chúng ta cần nói về oan
gia trái chủ. Xin chư vị nên cố gắng lắng nghe, để chúng ta có thêm chút ít năng
khiếu hướng dẫn một người biết đường đi thẳng về Tây Phương khỏi bị lạc…
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 17)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Trong
mấy ngày qua Diệu Âm đi qua tây Úc. Chuyến đi này có liên quan đến vấn đề “Khai
Thị – Hướng Dẫn” hộ niệm. Hôm nay trở về đây xin báo cáo với chư vị tình
hình ở bên tây Úc.
Trong
ba ngày qua đó hộ niệm cho vị Phật tử này, dù rằng hiện tại bây giờ vị này chưa
ra đi, tức là vẫn còn nằm trên giường bệnh, nhưng thật ra thì kết quả cũng bất
khả tư nghì! Phải nói rằng, hộ niệm thật bất khả tư nghì! Khó có thể mà diễn tả
nên lời!…
Trong
ba ngày hướng dẫn cho vị đó, vô tình đã hướng dẫn cho cả gia đình vị đó luôn.
Tại vì cả gia đình là một đại gia đình Thiên-Chúa giáo, hoàn toàn là Thiên-Chúa
giáo, chỉ có một người bệnh đó là còn giữ được ít nét về đạo Phật mà thôi, chứ
thật ra không có tu gì nhiều hết. Đến khi phát hiện bị ung thư thì hoảng kinh
hồn vía, chạy tìm người cầu cứu, may mắn gặp được ban hộ niệm. Bây giờ thì đang
trong giờ phút hơi nguy kịch, toàn thân thì đã phù lên rồi, nhưng riêng vị đó
đã thật sự quyết tâm vãng sanh. Có nhiều lần giống như đang sắp sửa hấp hối, làm
cho cả gia đình quýnh lên!… Nhưng sau ba ngày hướng dẫn khai giải, thì mọi
người không còn luýnh quýnh nữa.
Tinh
thần của vị đó khá vững và đã tin tưởng một cách mạnh mẽ, có thể nói là tin
tưởng tới chín mươi chín chấm chín phần trăm (99.9%) và sự quyết lòng vãng sanh
có thể lên tới chín mươi chín chấm chín phần trăm. Đầu tiên thì gia đình của vị
đó không tin lắm. Người chồng trước đây có làm việc trong cộng đồng, nên quen
thân rất rộng, toàn là bác sĩ, nhà văn, luật sư,… Con cái hầu hết cũng đều
được đỗ đạt.
Sau
ba ngày hộ niệm, trong những lúc gọi là “Khai Thị” đó thì Diệu Âm này có
lẽ hơi lẻo mép, vừa khai cho người bệnh lại vừa khai cho gia đình luôn. Hướng dẫn
ba ngày thì gia đình bắt đầu tin tưởng. Như ngày hôm qua đây mọi người đều bắt
đầu phát tâm lạy Phật, có người lạy đến xỉu luôn! Ông chồng lạy Phật tới xỉu
luôn. Một người Thiên-Chúa giáo mà lạy Phật! Ông phát nguyện và nói với người
vợ như vầy:
– Ngày hôm nay anh sẽ lạy Phật cho em một trăm
lạy…
Không
biết ông lạy đã đủ chưa, mà giữa chừng thì thấy xỉu rồi! Còn các con cũng cùng
nhau lạy, đứa nào đứa nấy cũng trầy trụa đầu gối hết trơn. Điều này chứng tỏ
rằng họ đã phát tâm tin tưởng rồi đó…
Vấn
đề những người quen thân tới thăm, ngày đầu thì vẫn còn vào nói chuyện lung
tung!… Vì thân nhân, bạn bè quen biết nhiều quá, nào là bác sĩ, luật sư, nhà
văn,… cứ tới thăm hoài. Một khi tới thăm thì đem toàn chuyện tình cảm của thế
gian ra bàn tán. Đến ngày thứ hai, chính người bệnh đó đã nói như thế này:
– Quý
vị tới đây niệm Phật, thì tôi cho vào. Còn tới đây hỏi han, thì thôi đừng hỏi
nữa. Lo niệm Phật đi…
Vững
vàng lắm rồi, phải không nào?… Rất là vững vàng! Nói chung, hầu hết những gút
mắt của gia đình, của người bệnh hình như đã được hóa gỡ trọn vẹn. Gia đình của
chị đó cũng có mấy người ở bên Mỹ qua, ở bên Việt-Nam qua. Bây giờ mấy vị đó
cũng đã lạy Phật cả rồi, lạy suốt như vậy, nhất là những lúc người bệnh giống
như sắp sửa ra đi. Nên nhớ, người Thiên-Chúa giáo làm sao họ biết lạy Phật, tôi
mới mời các vị đồng tu của ban hộ niệm làm gương lạy trước. Lạy làm mẫu. Sau
cùng có thể nói là cả một gia đình đều lạy hết. Khá hay!
Những
người thân ở bên Mỹ thường gọi qua hỏi thăm, thì chính người bệnh “Khai
Thị” cho những người ở bên Mỹ luôn. Hay không? Chị nói:
– Bây giờ tôi đã quyết lòng tôi về Tây Phương
rồi. Nói “Hé-lô” một tiếng rồi niệm A-Di-Đà Phật đi. Niệm Phật trên máy. Niệm
Phật đi thì tôi nói chuyện, không niệm thì tôi không nói chuyện…
Người
bệnh nói ngon lành vậy đó! Thấy vậy, trước khi ra về tôi nói rằng, với tinh
thần này mà giữ vững, đều đều như vậy đó, thì tôi có thể đoán tới chín mươi lăm
phần trăm (95%) thành công. Tôi không dám nói tới một trăm phần trăm. Tôi cũng dặn
dò hết mọi người trong gia đình phải cố gắng hộ niệm. Để động viên tinh thần
mọi người, tôi nói, tôi đoán tới chín mươi lăm phần trăm khi chị ra đi sẽ có
hiện tượng bất khả tư nghì, trước mặt chư vị để cho chư vị cùng thấy. Còn năm
phần trăm nữa thì tôi phải chừa cái ngõ thoát!… Nghĩa là, lỡ có gì trở ngại
thì tôi “Đổ Thừa!”… Chứ biết làm sao hơn?
Tôi dặn
người nhà phải “Y giáo phụng hành”, nhất định đúng mực như vậy mà thi
hành, không được làm điều gì khác hết. Toàn bộ ban hộ niệm cũng phải đúng mực
như vậy mà hộ niệm, không được thêm bớt gì hết… Nếu được vậy, tôi nói, có thể
bảo đảm được tới chín mươi lăm phần trăm thành công.
Ngày
đầu tiên thì còn người này vô, người kia vô. Tôi nói với gia đình, vì ngày đầu
tiên hoàn cảnh rất tốt, tinh thần vững vàng, nên tôi dám đoán sự thành công tới
chín mươi phần trăm. Nhưng ngày thứ hai tôi thấy có sự lộn xộn, không hợp với
việc hộ niệm, tôi xin đoán lại là xác suất được vãng sanh chỉ còn ba mươi phần
trăm là cùng! Tại sao vậy? Vì người bệnh đã tiếp xúc quá nhiều người thân quen
bên ngoài…
Mình
thấy rõ rệt, vấn đề “Hướng dẫn” cho người bệnh vãng sanh quan trọng vô
cùng, tinh tế vô cùng, chứ không phải hộ niệm là chỉ đến niệm: “A-Di-Đà
Phật! A-Di-Đà Phật!…” Nếu
giả sử như những lời khai thị cho vị đó mà không vững, thì cả gia đình đến hôm nay
chưa chắc gì có một người nào cất lời niệm Phật đâu. Nhưng bây giờ thì người
chồng ngồi suốt bên cạnh người vợ, niệm Phật ra tiếng đàng hoàng. Tất cả con
cái đều niệm ra tiếng đàng hoàng. Mỗi người con đứng bên mẹ thỉnh thoảng dặn
dò:
– Mẹ
ơi! Mẹ quyết lòng niệm A-Di-Đà Phật đi về Tây Phương nhé.
Tôi
biết đây là một gia đình Thiên-Chúa giáo, nên khi khai thị cho người bệnh, tôi
thường dùng những lời lẽ có tính hòa đồng tôn giáo mà nói. Tình thật tôi không
có tâm phân biệt đạo giáo nào hết. Phải có tâm hòa đồng. Phải có thiện xảo
phương tiện. Sau cùng mọi người nghe qua hình như thấy rằng A-Di-Đà Phật chính
là Thượng-đế, Thượng-đế chính là A-Di-Đà Phật. Tôi nói với mọi người, bây giờ
quý vị niệm A-Di-Đà Phật chính là niệm Thượng-đế. Khi vào nhà thờ tôi sẽ lạy
Thượng-đế tức là tôi lạy A-Di-Đà Phật. Nói đến đây thì người chồng có lẽ ngộ ra
và nói rằng, “Nay tôi mới hiểu được cái lý đạo này”. Các người con hình
như cũng thông cảm ra được chỗ này. Tôi nói:
– Vậy thì, bây giờ chúng ta cứ thành tâm niệm
A-Di-Đà Phật đi. A-Di-Đà Phật đã đưa ra quy luật niệm Phật để vãng sanh. Khi
chị vãng sanh về Tây Phương rồi, lúc đó chị sẽ nói: “À! Thượng-đế cũng ở đó, Bồ-Tát
cũng ở đó, mà Phật cũng ở đó luôn”.
Tôi
nói tiếp:
– Nếu chị này đi về Tây Phương rồi, bây giờ
muốn cứu độ chúng sanh. Giả sử như có một số thân nhân ở bên nước Nam Phi, thì
chị sẽ ứng hiện về Nam Phi để cứu độ. Lúc đó có thể chị ứng ra không phải là
A-Di-Đà Phật, không phải là Bồ-Tát, mà ứng hiện với một cái tên hay một hình
tướng thích hợp nào đó… Chỉ vậy mà thôi.
Tôi
nói đến đây thì tất cả các chư vị cảm thấy hoan hỷ, và kết quả là đến ngày thứ
ba thì cả gia đình cùng nhau lạy Phật. Người chồng lạy đến nỗi muốn xỉu luôn.
Đây là một thành quả rất là tốt.
Thưa
chư vị, bắt đầu ngày mai thì mình tiếp tục chương trình: “Điều Giải Oan Gia”.
Trong suốt ba ngày qua, tôi đã điều giải oan gia rất là nhiều. Trước khi đến
thì bà chị đó đau dữ dội lắm! Chị đau đến nỗi có nhiều lúc quằn quại, méo
miệng, méo mồm! Nhưng sau ba ngày thì tự nhiên chị niệm mạnh hơn. Chị niệm Phật
luôn ba tiếng đồng hồ. Mình niệm mà thấy mệt, muốn xin nghỉ, còn chị đó thì
nói, “Thôi nghỉ mười lăm phút rồi niệm tiếp”. Tức là người bệnh đó niệm
mạnh hơn mình. Hình như có một sự gia trì nào đó. Mặc dù đôi lúc chị cũng bị
đau, nhưng chị niệm Phật thật bất khả tư nghì! Phải nói rằng, đó là một người
có nghị lực kiên cường. Đây quả là một sự khuyến tấn cho chúng ta. Hãy vững
vàng lên! Hãy mạnh mẽ lên!…
Chị
này đã không chịu dùng thuốc Morphine nữa. Quyết lòng! Vững vàng! Chị viết ra
một tờ di chúc đàng hoàng, trong đó có dặn không đi vào bệnh viện nữa. Bệnh
viện cho mượn cái giường đem về nhà để nằm. Chị niệm Phật suốt đêm. Mấy ngày
tôi tới đó, không có đêm nào mà chị ngủ hết. Niệm Phật suốt đêm. Mình chỉ niệm có
ba tiếng đồng hồ rồi về, còn chị thì niệm Phật suốt đêm như vậy. Những người
con thì ngồi bên cạnh niệm Phật với mẹ. Chị niệm Phật liên tục mấy ngày nay
rồi.
Đây
là một cái gương về tinh thần quật khởi mạnh mẽ. Khuôn mặt của chị càng ngày
càng sáng ra. Lạ lùng lắm! Cái môi của chị ửng hồng lên, dù rằng chị chưa ra đi,
nhưng trông chị đẹp hơn lúc tôi gặp chị cách đây mấy tháng. Thật sự, chị rất
kiên cường và rất sáng suốt. Tôi không biết tới lúc ra đi, chị còn giữ vững
được sự sáng suốt này nữa hay không?…
Từ chuyện
này, cũng là một tác động rất mạnh về vấn đề tâm lý. Khi mình đi hộ niệm, khai
thị vững vàng cho người ta. Riêng tôi thì lúc nào tôi cũng nói những lời tích
cực. Điểm này rất quan trọng. Trước đó các vị trong ban hộ niệm cũng có khai
thị, nhưng vì gia đình quen biết lớn quá, toàn là bác sĩ, luật sư, những người
tiếng tăm trong cộng đồng tới thăm không à, làm ban hộ niệm luýnh quýnh lên,
không khai thị được. Quýnh quáng lên thì tinh thần bị chao đảo!…
Còn
gặp tôi thì tôi cứng rắn hơn, gặp các vị bác sĩ đang đứng nhìn không niệm, thì
tôi mời các vị bác sĩ đó hãy vì thương kính người bệnh mà chắp tay cùng niệm
Phật. Tôi không có bỏ sót một người nào hết. Lời nói của tôi thành tâm, nhưng
cũng rất vững vàng. Mình phải vững vàng như vậy đó thì người chồng mới vững
vàng. Những người con của người này đang làm đến chức trưởng phòng trong những
công ty rất lớn trên cả toàn thế giới nữa. Họ toàn là người học thức.
Vấn
đề tâm lý hết sức quan trọng, cần nên chú ý. Cũng là câu nói: “Chị
ơi! Chị niệm Phật đi”. Nhưng mình nói mập mờ! Mình nói “Xìu-xìu”!
Thì tự nhiên tâm ý của chị cũng xìu xuống. Còn mình nói cho mạnh lên…
– Chị
biết không? Chị đi về Tây phương được là chị thành đạo, thành đạo rồi chị giác
ngộ cho chồng chị, chị giác ngộ cho con chị, chị giác ngộ cho những người chung
quanh. Tại vì những người chung quanh đang cần sự chứng minh của chị. Chị phải
ra đi an nhiên tự tại… Làm sao an nhiên tự tại?… Tín chị đã vững rồi.
Nguyện chị đã vững rồi. Niệm chị vững vàng nữa thì…
–
Nhất định chị cảm ứng với A-Di-Đà Phật.
–
Nhất định chị phải để lại thoại tướng bất khả tư nghì…
–
Thì những người còn hồ nghi nhất định họ sẽ không còn hồ nghi nữa…
–
Những người chồng, người con, hổm nay tôi thấy không có chịu niệm Phật, thì chị
phải vững vàng nhé. Trong những cơn đau chị vững vàng niệm Phật lên thì chị hết
đau. Hết đau thì những người chung quanh này mới giật mình tỉnh ngộ, tự hỏi: Tại
sao không dùng thuốc mà lại hết đau?…
Mình
cần phải ủng hộ tinh thần cho người bệnh. Nhờ vậy tự nhiên chị đó niệm ào ào
lên. Trong những ngày sau không cần dùng thuốc Morphine nữa. Hay vô cùng, phải
không nào!
Chị
đó cũng yêu cầu là không dùng thuốc dùng thang gì nữa hết trơn. Phải nói là một
tinh thần kiên cường. Bất khả tư nghì!
Sau
cùng rồi thì tất cả mọi người trong gia đình đều phát tâm niệm Phật và ngày đêm
túc trực bên cạnh để niệm Phật. Họ đều thành khẩn chắp tay. Trước đó, mấy ngày
đầu họ không bao giờ chắp tay, nhưng mà những ngày sau lúc nào hồi hướng công
đức đều chắp tay đàng hoàng, lạy Phật đàng hoàng.
Đây là
một nguồn vui sơ khởi. Dù rằng người bệnh chưa ra đi, nhưng thấy cái hy vọng
của một hiện tượng vãng sanh tại đó có vẻ rõ rệt. Thấy vậy tôi đoán tới chín
mươi lăm phần trăm thành công, còn năm phần trăm nữa thì không biết sao? Xin
quý vị hãy chờ coi…
Xin
báo cáo với chư vị về chương trình ở bên ấy là như vậy, chứ không phải hiện tại
đã được vãng sanh.
A Di Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 18)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Đêm
nay, sau khi cộng tu xong thì chúng ta sẽ đi thăm một người bệnh, chư vị nào có
muốn đi thì đi, có liên quan đến vấn đề điều giải chư vị trong pháp giới chúng
sanh. Nói chung là có trở ngại chút ít về vấn đề liên hệ với chư vị trong pháp
giới. Sẵn đây Diệu Âm cũng xin thưa qua chuyện điều giải oan gia trái chủ, vì
hai chuyện này có liên hệ với nhau.
Thành
thật ra Diệu Âm không phải có nhiều kinh nghiệm lắm trong chuyện này đâu, nhưng
khi đi hộ niệm thì thường xuyên trong cuộc hộ niệm nào chúng ta cũng phải lo
điều giải chư vị hữu duyên trong pháp giới, duyên lành hay duyên chẳng lành
hoặc là vô duyên không có liên hệ gì hết, chúng ta cũng đừng nên quên họ. Hãy
cố gắng điều giải.
Không
biết cái duyên như thế nào, trên Internet người ta thường email thổ lộ cho Diệu
Âm những chuyện giống như liên quan đến vấn đề tâm linh, nhập thân,… nhiều
lắm. Người ta thổ lộ nhiều nên mình biết nhiều. Biết được mới đem một chút kinh
nghiệm này ra thưa thỉnh, chứ chưa chắc gì Diệu Âm đã lịch lãm chuyện này lắm
đâu.
Đầu
tiên để tránh vướng phải tình trạng này, xin chư vị cố gắng phòng bệnh hơn trị
bệnh. Hầu hết những vấn đề có liên quan đến chuyện này, phải nói rằng, khởi đầu
hơn chín mươi phần trăm là do chính người đang bị vướng đó làm sai lầm trước.
Họ tự dẫn độ mình đến với trở ngại này.
Chúng
ta nên biết, hàng ngàn người tu hành không phải người nào cũng bị như vậy đâu.
Chỉ có một người, hoặc một vài người thôi. Không nhiều! Nhưng khi tìm hiểu kỹ,
thì hầu hết vấn đề xảy ra có phần giống nhau. Có phần hơi giống nhau, chứ không
phải là toàn bộ giống nhau.
Điểm
thứ nhất cần nên chú ý là chính mỗi cá nhân chúng ta đều là phàm phu tục tử
hết. Căn trí của chúng ta thật sự thấp lắm chư vị ơi! Không có cao đâu! Trí huệ
của chúng ta không có bao giờ dễ dàng khai mở giống như người ta thường lý luận
đâu.
Có câu
nói như thế này: “Tam tâm bất khả
đắc, vạn pháp nhân duyên sanh”.
Câu này hay lắm! “Đắc” có nghĩa là chứng đắc. “Tam Tâm” là chân
tâm của chúng ta trải qua trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Cái chân tâm của
chúng ta không dễ gì tự chứng đắc được đâu! Khó lắm!… Chỉ có những vị đại
Bồ-Tát, những vị đã “Minh Tâm – Kiến Tánh” mới được. Thật ra toàn bộ chư
vị đều là Phật, Bồ-Tát tái lai không à, mới có thể đắc.
Còn
chính chúng ta không đắc đâu! Không đắc mà chúng ta cầu cho đắc, thành ra do
“Duyên Khởi” mà sinh ra những chuyện này. “Vạn Pháp” là tất cả những
hiện tượng mà mình gặp đến. Vạn sự vạn vật gọi là vạn pháp, trong đó có những
hiện tượng của chính mình. Do bởi chính cái tâm của mình duyên đến mà sinh ra
như vậy!
Có
nhiều người hồi giờ chưa biết Phật pháp, khi có cơ duyên thọ tam quy, thì tự
nhiên họ có cảm ứng này, có cảm ứng nọ. Sau một vài năm tu tập thì thấy hình
như có đắc này, đắc nọ!… Vạn pháp do duyên khởi mà sanh ra hết, chứ không
phải chứng đắc dễ dàng như vậy đâu! Hầu hết do cái tâm cầu chứng đắc của mình
quá mạnh! Bên cạnh đó, chưa gặp ai khai giải giúp mình biết rằng trình độ hiểu
biết, trí huệ của mình đã bị vùi lấp trong khối nghiệp chướng lớn lắm!
Nghiệp
chướng có hai phần, trong đó có cái phần gọi là oan gia trái chủ. Đây là do sự
liên hệ với chư vị chúng sanh trong pháp giới đã bị xấu đi, do trong lúc chúng
ta tu hành hoặc không biết đạo đã sơ ý tạo ra cái duyên chẳng lành với họ. Cái
mối bất lành nó âm thầm theo sát bên mình. Nếu cái tâm của mình vui vẻ, thoải mái,
khiêm nhường, chí thành,… thì thường thường có chư Thiện-Thần làm bạn lữ. Nếu người
niệm Phật mà có tâm chân thành, chí thành thì trong kinh Phật nói có hai mươi
lăm vị Bồ-Tát gia trì cho chúng ta. Cho nên người hành giả niệm Phật thường
thường ít bị trở ngại.
Tuy
nhiên, vì có nhiều người không hiểu được đạo lý căn bản này: “Chí Thành –
Chí Kính là đạo nhiệm mầu” đối với người phàm phu tục tử, nên thường
hay móng tâm cầu chứng đắc. Móng tâm cầu là tạo “Duyên”, hay gọi
là “Tâm Duyên”. Tự mình duyên lấy tất cả. Khi móng tâm cầu chứng
đắc thì thường thường sự chứng đắc có thể đến liền! Lạ lắm!… Chẳng tin quý vị
làm thử coi. Hãy nhắm mắt lại, rồi nghĩ tới… À! Ví dụ, nghĩ tới người Mẹ,
nghĩ tới người Cha… Cứ làm thử đi, chú tâm nghĩ cỡ chừng năm phút, thì tự
nhiên mình thấy hình như người Mẹ của mình đang chờn vờn, chờn vờn hiện ra
trước mặt. Bây giờ mình nghĩ tới một con bướm chẳng hạn. Hãy nhắm mắt lại rồi
nghĩ tới con bướm một phút… hai phút… ba phút sau, nhiều khi mình thấy có
con bướm nó bay bay, bay bay… Nếu cái tâm của mình tiếp tục duyên theo nó,
thì tự nhiên con bướm hiện ra càng rõ!… “Vạn Pháp Nhân Duyên Sanh” là
như vậy. Bây giờ hãy mở mắt ra đi, hãy xoa xoa cái đầu đi… Hiện tượng trên
liền biến mất.
Hay
nói rõ hơn, tất cả đều do ý nghĩ của mình mà có. Khi mình tưởng đến, mình mơ
đến một sự việc, thì tự nhiên sự việc đó nó sinh ra! Chắc chắn như vậy. Ví dụ,
quý vị nằm ngủ, nếu mình nghĩ… À! Mình đang niệm Phật. Niệm Phật thì bên
cạnh mình có những vị Bồ-Tát gia trì, thì những tiếng gió reo, những tiếng
động bên ngoài không làm cho mình giật mình. Mình không sợ! Nhưng giả sử như những
người sợ “Ma”, thường nghĩ tới “Ma”, khi nghe một tiếng gió reo thì họ giật
mình sợ hãi, thấy rờn rợn tóc gáy liền! Họ cảm thấy hình như đang có một hiện
tượng bất thường nào đó hiện ra làm cho họ sợ hãi, bất an! Tất cả đều do chính
cái tâm của mình ứng hiện ra đó thôi!
Trở
về vấn đề những người thường bị hiện tượng này. Nếu là những người không tu thì
thường đó là những người xấc lấc, hoang đường, ngỗ nghịch, không có tính khiêm
nhường! Nếu là người có tu hành, thì thường thường tại vì không có cái tâm
khiêm hạ, hay cầu mong chứng đắc, ham thích những điều lạ… Đối với hạng người
này, Hòa Thượng Tịnh-Không nói khéo lắm, “Trong
thời mạt pháp này, đừng nên đóng cửa tự tu”.
Vì
thế, khi tôi gặp một người nào cứ muốn đóng cửa tự tu, thì tôi luôn khuyên rằng:
“Đừng nên đóng cửa tự tu một mình, nhất là người tu tinh tấn”.
Hòa
Thượng nói rằng, khi đóng cửa tự tu, tức là tự kiết thất một mình chỉ dành cho
những người gọi là đã “Khai Ngộ”. “Đại Khai Ngộ” rồi mới được quyền làm vậy.
Chúng ta chưa khai ngộ gì cả thì chưa được quyền đóng cửa tự tu. Còn dạng thứ
hai nữa, sở dĩ người ta phải đóng cửa là vì những người này có thể nổi tiếng
quá, bao nhiêu người cứ tới làm phiền họ hoài, đành rằng người ta phải đóng cửa
trốn đi. Còn những người bình thường, Ngài nói, “Thời mạt pháp này nên kết nhóm
cộng tu với nhau, phải luôn luôn khiêm nhường, chí thành, chí kính…”
Nghe
đến những lời khai thị của ngài Ấn-Quang Đại Sư, ta thấy Ngài nói rõ từng chút,
từng chút. Không có một lời nào Ngài lý luận cao siêu bóng bẩy trong đó cả, nhưng
thật sự đây là những lời pháp tối vi diệu, rất sắc bén, vô cùng quý giá cho
những người phàm phu tục tử như chúng ta dùng làm kim chỉ nam tu hành.
Để bắt
đầu mở ra chương trình nói về chuyện này, đầu tiên kính xin chư vị hãy tự xác
nhận cho rõ ràng rằng mình là hàng phàm phu tục tử. Quý vị cứ để ý coi, những
người tự nhận mình là hàng phàm phu tục tử thì không bao giờ, hoặc hình như
chưa bao giờ nghe qua là bị phải tình trạng này. Còn những người mà cứ cho rằng
mình đắc này, đắc nọ… Trong mười người tự khoe chứng đắc, hết chín người rưỡi
bị nạn rồi! Sau hai tháng, ba tháng, nhiều lắm một năm sau là bị trở ngại
liền!…
Thì người
mà chúng ta sắp đi thăm đây, cách đây hơn một năm tôi đã khuyên rồi:
– Đừng nên đóng cửa tự tu nghen! Đừng nên hiếu
kỳ nhé! Nên đến kết hợp với đạo tràng niệm Phật, từ tốn, vui vẻ,… cộng tu với
người ta.
Nhưng
vị này không chịu nghe!…
Xin
thưa với chư vị, tôi cũng biết có những vị rất quen muốn tự tu chứng đắc gì đó,
nhưng mình không dám khuyên nhiều! Hòa Thượng Tịnh không nói, “Không được quyền khuyên người ta tới ba
lần”. Có một lần pháp
sư Ngộ-Thắng nói, riêng Thầy không bao giờ khuyên ai quá hai lần. Nghĩa là,
khuyên tới hai lần thì không dám khuyên nữa. Còn Diệu Âm thì mạnh dạn hơn một
chút, sau khi khuyên tới hai lần rồi, mà còn nói lên nói xuống, nói xa nói gần,
gặp nhau là nói, để cố gắng tỉnh ngộ nhau, chứ cũng không dám trực tiếp khuyên.
Cố gắng làm vậy đó, nhưng nhiều lúc người ta không chịu nghe, nên cũng đành nhìn
họ chịu đại nạn thôi! Đến lúc đó rồi, nhiều khi có thể cứu được, nhiều khi cũng
đành chịu thua! Không còn cách nào có thể cứu được nữa!
Hiểu
được như vậy, mong chư vị nhớ cho, những buổi cộng tu với nhau trong đạo tràng
này vô cùng có giá trị. Ngay trong một đạo tràng, ta cũng không được quyền đóng
cửa tự tu. Nghĩa là, những buổi cộng tu ta phải tu chung với đại chúng. Tuyệt
đối đừng bao giờ sơ hở! Tại vì tâm cơ của chúng ta yếu vô cùng! Lực tu của
chúng ta yếu vô cùng! Công đức của chúng ta chưa đủ để hóa giải tất cả mọi oán
hờn của chư vị chúng sanh trong pháp giới nghịch duyên với chúng ta đâu!…
Chúng
ta phải Thành Tâm, Chí Thành, Chí Kính nương theo từ lực
của Phật, của chư đại Bồ-Tát, của chư Thiên-Long Hộ-Pháp gia trì cho mình. Càng
được gia trì mình phải càng khiêm nhường. Càng gia trì thì mình càng có công
đức. Ngày ngày hồi hướng công đức cho họ.
Chắc
quý vị đã thấy rõ ràng, ở đây:
– Buổi
sáng chúng ta hồi hướng công đức cho chư vị oan gia trái chủ.
–
Buổi chiều chúng ta hồi hướng công đức cho pháp giới chúng sanh.
Luôn
luôn hồi hướng công đức, đó là con đường hóa giải, gọi là phòng bệnh hơn chữa
bệnh.
Mong
chư vị cố gắng kết hợp với đạo tràng để chúng ta yên ổn tu hành, được các Ngài
thông cảm và chúng ta được an nhiên tự tại vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 19)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Chúng
ta đang tọa đàm nói về cách thức điều giải oan gia trái chủ, thì đêm hôm qua vô
tình chúng ta đi điều giải chuyện này. Bây giờ ngồi đây kể lại thì cũng cảm
thấy vui vui. Theo tôi nhận xét, thì hình như cuộc điều giải ngày hôm qua không
phải là oan gia trái chủ, tại vì nếu thật là oan gia trái chủ thì họ dữ hơn chứ
không phải hiền như vậy đâu. Hôm qua họ hiền lắm!
Những
sự cố hơi bất ổn ban đầu chẳng qua là một thử thách nhỏ nhỏ mà thôi. Sau cùng
thì mình phát hiện rằng vị đó hình như cũng biết tu, cũng đang muốn kiếm công
đức, vì mình đã hồi hướng công đức cho họ rồi mà sau đó còn đòi thêm nữa, chứng
tỏ rằng cũng biết tu.
Nhưng
vị đó dù biết tu hay không thì cũng vậy thôi! Việc tu hành chúng ta đừng nên có
tâm háo kỳ. Sự háo kỳ thường là điều sơ ý, mở cơ hội cho các vị đó mượn cớ đi
vào. Một khi đi vào rồi, thì thường thường họ ở với mình vui hơn, ấm cúng hơn
là ở cảnh giới của riêng họ.
Về
chuyện điều giải, có người thì mình khuyên được, có người khuyên không được.
Nhiều người mình khuyên giải thì họ bỏ đi, nhưng họ vẫn tiếc lắm! Ví dụ, ngày
hôm qua mình thấy rõ ràng, họ đã hứa với mình rằng họ sẽ ra đi và không bao giờ
trở lại nữa. Nhưng mới vừa bỏ đi, ít phút sau lại quay trở về nhập vào nữa rồi.
Thì đây cũng là cái kinh nghiệm về điều giải oan gia trái chủ.
Trong
pháp hộ niệm của Tịnh-Độ Tông, một nguyên tắc căn bản là chúng ta cố gắng dùng
tình thương, tâm từ bi, khiêm nhường… mà năn nỉ họ. Cố gắng khuyên can họ xả
bỏ cái chấp đi để cùng nhau niệm Phật hộ niệm. Khuyên các vị đó nên niệm Phật
để cùng về Tây Phương thành đạo.
Trong pháp khai thị oan gia trái chủ của Tịnh-Độ Tông không bao
giờ được quyền dung một năng lực gì của mình để đàn áp họ.
Quý
vị thấy sự kiện xảy ngày hôm qua không? Lúc mới tới, vị đó làm dữ với mình!
Nhưng họ làm gì làm, chúng ta cũng đứng chắp tay niệm Phật. Nhiều khi gặp những
trường hợp người ta muốn lăn xả vô mình để sinh sự nữa là khác! Trước đây tôi
đã gặp vài lần như vậy, thì mình hãy chắp tay niệm Phật lớn lên. Mình vững vàng
nhìn họ, trong ánh mắt của mình chứng tỏ cho họ biết rằng:
– Tôi
không chấp nhận anh hỗn với tôi… Tôi không hỗn với anh, nhưng anh cũng đừng
hỗn với tôi!…
Mình
không chấp nhận sự thách thức! Qua một cơn thử thách đầu tiên, thì có lẽ họ
biết rồi, mình không phải là người cố tình đương đầu với họ. Cũng có đôi lúc,
khi mình đến điều giải, mà họ xông xông vào tựa như muốn đánh mình vậy! Quý vị
đừng có sợ! Không sao đâu! Chúng ta có hai ba người, người chụp tay, người chụp
chân là xong, chứ không có gì đáng ngại đâu. Đừng có sợ! Những chuyện xảy ra
hôm qua đây, theo tôi nghĩ rằng không phải là oan gia trái chủ, tại vì người đó
hiền, biết tu, cũng biết nghe lời khuyên.
Thường
thường muốn điều giải những chuyện này, chúng ta cần ít ra cũng phải hai đêm,
ba đêm liền. Mỗi đêm khuyên giải họ sẽ giảm xuống một chút, một đêm họ giảm
xuống một chút. Thường thường những người hiền hiền như vậy, có thể khuyên giải
chừng hai-ba hôm thì bắt đầu họ vui vẻ. Khi họ vui vẻ chấp nhận rồi, ta mới bắt
đầu tâm sự, mới khuyên can. Đem Phật pháp ra, lý luận ra, đem nhân quả ra
khuyên can, khuyên dần, khuyên dần… Thì đến một lúc nào đó có thể họ sẽ chấp
nhận…
Tại
vì bấy lâu nay họ ở trong cảnh giới lạnh lẽo, cô đơn, khổ sở… Bây giờ mượn
cái thân này họ cảm thấy ấm áp, sướng hơn, nên họ cứ bám theo hoài thôi. Họ
nhập vào để sống, để hưởng lấy công đức của mình, chứ chưa chắc gì họ cố tình
hại mình đâu.
Cho
nên mình phải có tâm từ bi. Xin thưa với chư vị, mình nên lấy cái tâm từ bi, hỷ
xả ra để cảm thông nỗi niềm khó khăn của họ, thì tự nhiên họ cũng dễ cảm thông
với mình. Khi ra đi đôi lúc họ cũng buồn rướm nước mắt, vì hiện giờ đang an ổn
quá, còn khi rời ra rồi thì họ không còn cách nào mượn được một cái thân an ổn
nữa. Đang an ổn nhưng họ đành phải ra đi, vì họ đã hiểu được rằng, mượn thân
của người khác để sống là họ tạo nghiệp!
Lấy
ngay chuyện hôm qua ra để mình rút kinh nghiệm. Trong những cuộc điều giải,
thường khi họ đang sử dụng cái thân hoặc là đang trả thù như vậy, tức là họ
thỏa mãn lắm rồi, họ không muốn ai tới phá đám chuyện của họ. Thành ra, thường
trong lần đầu tiên gặp phải, hầu hết là họ hay làm dữ với mình. Còn vị hôm qua
không có gì là quá đáng, không có gì quá dữ hết! Tôi cũng cảm thấy an ổn. Đôi
khi gặp phải những trường hợp họ dữ, mình cứ chắp tay lại, niệm Phật thật lớn
lên. Nếu chung quanh mình có nhiều người cùng hộ niệm nữa, cùng niệm Phật nữa
thì họ không làm được gì mình đâu.
Khi
tôi điều giải oan gia của cô Trần Thị Kim Phượng, có trường hợp hơi giống như
vầy. Nhưng cô Trần Thị Kim Phượng thì dữ hơn một chút. Cô xé áo, xé quần, liệng
ném… dữ hơn chút, chứ không hiền như thế này đâu. Cô cũng muốn nhào nhào tới,
nhưng tôi cũng cứ đứng im niệm A-Di-Đà Phật… A-Di-Đà Phật. Niệm thật lớn!… Khi
họ xìu xuống một chút, thì mình khuyên liền, khuyên mạnh… vì lúc đó không còn
nhiều thời giờ nữa. Sau khi họ đuối lý xong rồi, mình mới năn nỉ, khuyên họ
nhưng vẫn thương họ. Mình thương hoàn cảnh của họ mà muốn rơi lệ vậy đó! Cái
tình thương này sẽ bủa ra làm cho họ cảm động mà bỏ ra đi…
Cũng
có những trường hợp mình điều giải, nhưng họ không bỏ, thì thôi, mình cũng đành
chịu thua!
Có
nhiều người đã có những ý nghĩ sai lầm trong cách điều giải với chư vị chúng
sanh trong pháp giới! Ví dụ như dùng cái năng lực của mình, dùng chú, dùng bùa
hoặc là vận công lực gì đó để quyết lòng trị tội chư vị oán thân trái chủ… Khi
gặp những trường hợp này, thì Diệu Âm luôn luôn khuyên rằng không được làm như
vậy. Chuyện Nhân-Quả của họ thì để họ tự giải quyết. Mình chỉ nên đem pháp Phật
ra mà khuyên giải để họ ý thức rằng, nhân lành thì quả lành, làm điều thiện thì
được hưởng phước, làm ác thì gặp nạn… Trong cái nhân quả đó thì niệm
câu A-Di-Đà Phật là đại nhân thiện lành có thể giúp cho chư vị trở về Tây
Phương hưởng cảnh cực lạc. Khuyên họ hãy nương theo cơ hội này để giải thoát.
Có cơ duyên gặp được câu A-Di-Đà Phật thì khuyên họ cùng nhau buông xả oán thù
ra để niệm Phật, thì công đức của họ sẽ rất lớn. Thành tâm khuyên họ mau mau
hồi đầu niệm Phật tu hành.
Xin
thưa với chư vị, nói vậy chứ khi đối diện với vấn đề đôi lúc cũng khó lắm! Muốn
điều giải mà nói không quen, nhiều khi mình quên hết, nói không nên lời! Ngày
hôm qua tôi khai thị rất nhiều trong đó mà có thể chư vị không hay, vì chư vị
cứ lo niệm Phật, còn tôi thì đứng sát bên cạnh vị đó, tôi phải nói, tôi năn nỉ
họ để cho họ hạ cơn giận xuống. Muốn điều giải, mình nên tập nói cho quen
miệng, thuận lý, nói cho tha thiết thì dễ làm cho họ cảm thông.
Khi hộ
niệm, thường thường trong lần hộ niệm đầu tiên, dù rằng không có hiện tượng oan
gia trái chủ hay nhập thân, nhưng mình cũng nên có lời điều giải oan gia trái
chủ, đừng nên sơ ý quên chuyện này, cũng đừng nên chờ đến hôm sau mới điều
giải.
Tốt nhất là hãy điều giải oan gia trái chủ ngay trong lần hộ niệm
đầu tiên.
Bình
thường mình nên khuyên người bệnh trước, để cho người bệnh niệm Phật, rồi chúng
ta cùng niệm Phật để tạo khung cảnh trang nghiêm, có lực niệm, có quang minh
của Phật gia trì. Tiếp theo chúng ta có thể bắt đầu điều giải. Trong phần điều
giải này, thường thường nên nhắc cho người bệnh ý thức về nghiệp chướng của mình.
Ví dụ nói:
– Bác
ơi! Chị ơi! Bây giờ chị đang bệnh! Bệnh này chính là do nghiệp chướng sinh ra.
Vì nhiều đời nhiều kiếp, cũng như trước khi biết tu, biết niệm Phật mình đã sơ
ý làm điều sai lầm. Có thể mình tạo ra chướng duyên, nghiệp ác với chư pháp
giới chúng sanh… Vì thế, bây giờ chị, anh, bác hãy thành tâm sám hối nhé.
Phải
khuyến cáo người bệnh nhận rõ rằng mình có lỗi.
Nếu
người bệnh bướng bỉnh, nói rằng: Tôi không có làm điều gì có lỗi!… Thì nhất định cuộc điều giải
không bao giờ thành công! Nhất định, người đó khó có thể tránh khỏi bị trở
ngại! Cho nên, trước khi điều giải mình phải nói làm sao cho người bệnh nhận ra
được lỗi lầm của mình…
– Chị
phải thấy, là rõ ràng chị có làm sai, phải không? Vậy nay chị xin sám hối đi
nhé. Hãy chắp tay lại để sám hối.
Người
đó nói:
– Dạ!
Con xin sám hối…
Chỉ
cần người bệnh thành tâm nói một câu như vậy là được rồi… Chư vị nên nhớ, pháp
giới chúng sanh chung quanh đó người ta đều biết hết. Đừng nên nghĩ rằng, mình
không thấy họ thì họ không có ở đó. Ví dụ hôm qua có quá nhiều biến cố xảy ra,
nhưng mình có thấy các vị đó đâu? Vị đã nhập vào người đó, mình có thấy được
đâu, phải không? Nhưng họ đã phản ứng khá mạnh khi biết mình đến vì họ…
Hình
thức điều giải oan gia trái chủ khác với sự khuyến tấn người bệnh. Chúng ta
phải luôn luôn chắp tay lại, thành khẩn…
– Chúng
tôi đại diện cho gia đình, đại diện cho người bệnh, đại diện cho bạn đồng tu,
hôm nay cúi đầu khấn nguyện, (Hoặc nói cúi đầu van xin chư vị, cúi đầu tha
thiết…) ngưỡng mong chư vị suy xét. Bà Trần thị X dù thế nào cũng là một phàm
phu tục tử, nên nhiều lúc mê muội đã tạo ra những nghiệp nhân chẳng lành với
chư vị. Nhưng giờ đây bà Trần thị X đã thành tâm sám hối. Gia đình cũng thành
tâm sám hối và chúng tôi cũng đang niệm Phật hộ niệm, bà cụ này cũng đang niệm
Phật để cầu vãng sanh về Tây Phương. Khi về Tây Phương rồi thì bà cụ này mới có
năng lực để về đây giúp đỡ chư vị, cứu chư vị để đền trả những gì sai lầm với
chư vị. Nương theo cơ hội này xin chư vị buông xả oán thù cùng nhau niệm Phật
đi về Tây Phương.
Mình
nói những lời hết sức thành khẩn, hết sức khiêm nhường. Đừng bao giờ tỏ vẻ tự
cao, tự đại. Nếu mình tự cao, tự đại dễ gây nên nghịch ý, oán thù… Không hay!
Thường
thường chúng ta nói những nội dung tương tự như vậy. Ngày hôm qua tôi đã tha
thiết nói những lời này:
– Chư
vị ơi! Tôi biết chư vị là người hiền lành, nhưng đang khổ đau ở trong những
cảnh giới rất lạnh lẽo! Rất thống khổ! Chư vị nương theo cái thân xác của anh
này là chư vị có một chỗ nương tựa tốt hơn. Nhưng chư vị làm như vậy thì gia
đình của anh này bất an! Anh này cũng bất an! Tội nghiệp cho họ. Thật sự thì sự
nương nhờ này cũng không vững bền đâu!… Chư vị hãy buông ra đi để cùng với
chúng tôi niệm Phật. Chư vị nhớ rằng, A-Di-Đà Phật có khả năng cứu được chư vị,
còn chúng tôi thì không cứu được. Chúng tôi không dám xen vào chuyện Nhân-Quả
của chư vị. Chúng tôi đến đây chỉ khuyên chư vị…
Mình
nói những lời như vậy, cũng hơi giống như lời điều giải oan gia trái chủ, nhưng
thật ra họ không phải là oan gia trái chủ của người bệnh đâu. Mình thấy rõ
ràng, người hôm qua không phải là oan gia trái chủ, mà vấn đề là tại vì chính người
bệnh luyện công một cách sai lầm! Tâm ý hiếu kỳ, thích thần thông, thích làm
những điều lạ,… vô tình nó hợp duyên, đã mở cửa cho những vị đó đi vào giúp
anh thỏa mãn mộng ý đó…
Ví
dụ, như người bệnh thích luyện những thứ công năng lạ!… Muốn nhận được những
năng lực phi thường… Vì tâm ý này mà hợp với những vị có năng lực đó, họ đến
giúp cho anh được cái năng lực đó…
Có
nhiều người tu hành mà không giữ tâm khiêm nhường, thanh tịnh… khi vừa tu thì
tự nhiên thấy mình có năng lực này, có năng lực nọ, vui sướng quá! Mà thật ra
vì hiếu kỳ mà bị dựa. Họ dựa vào để lấy đi công đức của mình. Người thích thần
thông thì họ cho thần thông, năng lực họ tới đâu thì họ cho mình được chút đó. Đây
cũng là một kinh nghiệm đáng giá giúp cho chúng ta hiểu thêm rằng, pháp giới
chúng sanh cũng giống giống như chúng ta chứ không có gì khác lắm.
Chúng
ta tu hành thì cứ lo tu hành, đừng nên quá háo kỳ! Đi qua các nơi họ đang thờ
cúng gì đó, chúng ta cũng không nên nói những lời lỗ mãng. Cũng không nên thấy
người kia tu luyện được “Chứng đắc” gì đó hay quá mà mong cầu làm theo. Thấy
người kia thần thông hay quá, cũng thèm muốn có được chút thần thông…
Những
điều này sẽ không tốt cho đường tu hành đâu!
Mong
cho chư vị cố gắng quyết tâm Chí Thành – Chí Kính niệm Phật cầu sanh
Tịnh-Độ và hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, thì tất cả chư vị đó sẽ cùng
chúng ta trở thành bạn lữ trên đường siêu sanh Tịnh-Độ.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật!
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 20)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Kính
bạch Sư Cô cùng đại chúng. Điều giải oan gia trái chủ tức là ta hòa giải những
chướng ngại vướng mắc giữa ta và pháp giới chúng sanh. Đi hộ niệm, sự điều giải
oan gia trái chủ là hóa gỡ những mối thù hiềm, những sự trở ngại giữa chư vị
trong pháp giới với người bệnh.
Vấn
đề điều giải oan gia trái chủ có liên quan rất nhiều đến những sự nhập thân, những
vị chúng sanh đến gây trở ngại cho mình. Đầu tiên mình phải nói rằng tất cả đều
do chính cái tâm của mình tạo ra. Phật dạy là tất cả đều do tâm mình tạo ra
hết.
– Khi
tu hành, mình thật thà thì được chư Thiên-Long Hộ-Pháp gia trì.
– Khi
mình hung dữ thì bị Quỷ nhập.
–
Khi mình khiêm nhường thì được chư Bồ-Tát gia trì.
–
Khi mình cống cao ngã mạn thì bị Ma dựa.
– Mình
tu hành nếu biết buông xả thì lục đạo luân hồi không vướng mắc.
–
Nếu mình cố chấp hẹp hòi, cạnh tranh, ganh tỵ… thì tất cả những nghiệp tam đồ
lục đạo sẽ bám sát theo mình… Bây giờ đây chưa thành Ma, thì khi chết đi mình
cũng lang thang trong cảnh giới Ngạ Quỷ!
Điều
tốt nhất, muốn điều giải oan gia trái chủ, trước tiên mình nên điều cái tâm của
mình trước, tức là trị cái nguyên nhân trước. Phòng bệnh hơn chữa bệnh, đó mới
là điều hay! Chứ còn khi nằm xuống rồi, oan gia trái chủ trùng trùng, tam ác
đạo trùng trùng bao vây mình thì nhiều khi điều giải cũng không thành công!
Chính
vì vậy mà chúng ta nên “Khiêm Nhường”, nên “Thật Thà”,
nên “Chí Thành – Chí Kính” để tu hành, thì tự nhiên đường ta đi
êm xuôi phẳng lặng.
Ngài
Ấn Quang Đại Sư dạy: “Chí Thành – Chí Kính”. Ngài nói, mình về được Tây Phương là do lòng chí thành
chí kính này mà cảm thông với chư Phật, với A-Di-Đà Phật tiếp độ về Tây Phương,
chứ không phải ta được chứng đắc.
Ngài
Tịnh Không dạy: Tu hành cần phải giữ tâm thanh tịnh mà tu, đừng nên khởi tâm
ngạo mạn, cống cao. Ngài nói: Tu hành không lo gìn giữ cái tâm thanh
tịnh của mình, mà cứ nghĩ tới chuyện chứng đắc. Khi đã nghĩ đến chứng đắc thì
không thể nào thanh tịnh cái tâm được… Khi mà quý vị thấy mình chứng
đắc một cái gì, thì lúc đó quý vị đã bị tẩu hỏa nhập ma rồi!…
Nghe
pháp của Ngài, mình phải cố gắng nắm bắt cho được những điểm quan trọng. Những
cái điểm này chính các Ngài nói cho hàng căn cơ hạ liệt của mình. Thường thường
Diệu Âm hay nói, khi nghe pháp chúng ta phải có tinh thần tuyển trạch. Nghĩa là
không phải pháp nào cũng nghe. Nhiều khi chúng ta cứ muốn tiếp thu tất cả mọi
pháp, nhưng những lời Ngài nhắc nhở cho chính hàng phàm phu thì mình lại không bắt
giữ, mà cứ chạy bắt những lời mà các Ngài giảng cho hàng căn cơ cao thượng, thì
coi chừng mình bị hỏng chân!… Không hỏng chân đi nữa, thì coi chừng cái tâm
cao ngạo cũng dễ ứng lên. Một khi cái tâm cao ngạo ứng lên thì rất dễ tạo cơ
hội cho “Ma” nhập vào, làm cho phát cuồng, thần kinh tê liệt! Hôm nay chúng ta đi
điều giải một ách nạn nhập thân, đây là một sự chứng minh hết sức cụ thể.
Ngài
Hạ-Liên-Cư thường dặn dò rằng: “Niệm
Phật không được cầu nhất tâm bất loạn”. Cầu nhất tâm bất loạn tức là
cầu chứng đắc. Nếu ta sơ ý niệm Phật mà móng tâm cầu chứng đắc, thì nhất định
cái tâm này không thể nào thuộc vào hàng thanh tịnh được. Tâm không thanh tịnh
thì những vọng tưởng hão huyền mỗi ngày mỗi thâm nhập một chút, thâm nhập một
chút… Đến một lúc nào đó nó vượt qua cái giới hạn kiểm soát của một phàm phu
tục tử!… Nghĩa là hình như ta thấy chứng đắc thật… Nhưng mà “Thật
trong Giả”!!!…
Theo
ngài Tịnh-Không nói: Khi mà chư vị thấy mình chứng đắc điều gì, thì đã bị
tẩu hỏa nhập ma rồi! Nhưng thật sự, nhiều khi đã bị tẩu hỏa nhập ma rồi mà
không hay!…
Nếu
tình trạng như vậy đưa vào trong bệnh viện thì tiêu đời rồi! Làm sao còn có cơ
hội trở lại làm người bình thường nữa?!…
Cho
nên, muốn điều giải oan gia trái chủ, thì bây giờ chúng ta hãy điều giải chính
cái tâm của mình trước đi. Thường thường Diệu Âm hay nhắc lại lời nói của Hòa Thượng Tịnh-Không, “Tu hành cần phải giữ tâm
thanh tịnh”.
–
Nếu mà mình thường hay nổi giận, khi mình nổi giận tức là “Địa Ngục” đã nhập
vào tâm của mình. Nếu hàng ngày ta thường nổi giận, thì “Địa Ngục” trong tâm
của ta càng ngày càng lớn. Địa ngục trưởng dưỡng thì cái tâm Phật của chúng ta sẽ
bị dìm xuống dưới ách nạn đó! Ta sẽ hưởng cảnh địa ngục trước!…
– Tu
hành mà tâm tham lam, cứ tiếp tục tham lam… thì cảnh giới của “Ngạ Quỷ” cứ
tiếp tục thâm nhập vào tâm chúng ta. Ta tưởng rằng đang tỉnh táo, nhưng “Ngạ Quỷ” đã nhập sâu vào tâm rồi mà
không hay! Đến một lúc nào đó thân thì sống trong cảnh nhân gian, nhưng chính
cái tâm của mình đang sống trong hàng Ngạ Quỷ! Thần kinh bị phân liệt là như
vậy…
–
Mình tu hành mà cứ cầu chứng đắc này, chứng đắc nọ, cầu những cái gì thần kỳ,
diệu lý… Tự nhiên cái tâm hiếu kỳ này sẽ mở cửa cho những thứ thế lực gọi là
“Oán Thân Trái Chủ” dựa vào. Họ dựa vào phá những người tu hành khác với cách
dựa phá đối với những người không tu hành. Những người không tu hành dù có phá
cũng uổng công! Tại vì sao?… Vì nhất định những người không tu hành thì “Thiết
Sàng tinh Đồng Trụ” đã chuẩn bị sẵn rồi, đâu cần chi phải phá? Khi họ chết
đi, họ tự nguyện chui vào đó rồi! Chỉ có những người tu hành mới có cái cơ
duyên được thoát nạn. Muốn phá những người tu thì đâu phải dùng những đòn thế
đơn giản có tính chất thô kệch như những người không tu được…
Khi
chúng ta tu hành mà khởi cái tâm rằng mình đã chứng đắc, nghĩ rằng mình sẽ có
một công năng hay thần thông gì đó… thì người ta sẽ đến giúp mình thỏa mãn những
cái thứ đó. Đây chính là cách phá hại người tu!…
Ngài
Tịnh-Không thường nhắc nhở rằng, trong thời mạt pháp này đừng nên đóng cửa tự
kiết thất tu hành tinh tấn. Ngài thường nhắc nhở, mà nhiều người không chịu
nghe nên đã bị nạn. Thì hôm nay chính chúng ta đã đến chứng kiến một cảnh trở
ngại có liên quan đến vấn đề này. Thật sự đây là một bài pháp rất hay, là một
bài khai thị rất tuyệt vời để cho chúng ta rút kinh nghiệm để tránh những ách nạn đó.
Có
nhiều người Diệu Âm gặp qua, có quen biết, thấy họ có móng cái tâm đó mà khuyên
không được! Thành thật nhiều khi mình tha thiết muốn cứu họ. Nhưng khổ một nỗi,
“Nói nhiều sanh sự”! Hòa Thượng nói, sửa sai một người nào không được sửa
quá ba lần. Còn các hàng đệ tử của Ngài nói rằng, không được sửa sai người ta quá
hai lần. Nghĩa là nhiều lắm sửa tới hai lần thì ngừng, không được sửa nữa. Nếu
sửa nữa, hướng dẫn nữa, thì chính mình tự gây ra nhiều khó khăn cho mình!…
Trên
bước đường đi đây đi đó, Diệu Âm đã gặp quá nhiều, quá nhiều chuyện này. Quý vị
có thể nghe lại những cuộc tọa đàm “Khế Cơ – Khế Lý”, “Hộ
Niệm Là Một Pháp Tu”, hoặc là những lời tọa đàm khác, cứ hai-ba buổi
tọa đàm thì Diệu Âm lại nhắc tới điểm này. Luôn luôn nhắc như vậy. Sở dĩ nhắc
nhiều lần vì thấy sự trở ngại này đã xảy ra nhiều quá, muốn lợi dụng cơ hội tọa
đàm này nhắc nhở người hữu duyên, chứ không có gì khác hơn!
Trong
tuần qua vừa điều giải ở đây, mà phải vừa điều giải chỗ khác nữa, cũng trường
hợp nhập thân tương tự như vậy. Thành thật xin thưa rằng, tại vì người ta bắt
mình, nhờ mình điều giải những chuyện này, chứ lực của mình không đủ khả năng
điều giải. Nhiều lúc Diệu Âm đành phải nói rằng, chư vị hãy nghe cho nhiều
những lời giảng của Hòa Thượng Tịnh-Không đi, cũng có thể nghe những lúc Diệu
Âm nhắc lại những lời giảng của các Ngài đi. Hãy tự ngộ ra, đừng tham đắm nữa,
đừng hiếu kỳ nữa. Còn không nghe thì nhiều lúc đành chịu thua!…
– Thường
thường những người tự tu “Tinh Tấn”.
–
Thường thường những người chê bai sự sinh hoạt của các đạo tràng.
–
Thường thường những người không chịu nổi những cảnh cộng tu quá đơn giản của
các nhóm cộng tu Niệm Phật… mới tách rời ra về nhà
đóng cửa tự lập công phu tu tập riêng.
Những
ngày tháng đầu tiên thấy họ tu hành, mình cũng rất kính phục ý chí của họ.
Nhưng thường thường cỡ chừng sáu tháng trở về sau, hãy đến thăm họ một lần nữa,
mình thấy hình như sắc tướng của họ đã biến rồi! Xin thưa rằng, khoảng chừng
nửa năm sau mới đến thăm họ, thì lúc đó nhiều khi chúng ta cũng không còn cách
nào có thể khuyên giải gì được nữa rồi! Khổ nạn bắt đầu chính vì chỗ khó khăn
này đây!…
Thưa
với chư vị, Phật dạy, “Nhất Thiết Duy Tâm Tạo”. Tất cả đều do
chính cái tâm của chúng ta tạo ra. Ma cũng tại tâm ta, Phật cũng tại tâm
ta! Không phải ở ngoài.
– Khi
ta chí thành niệm câu A-Di-Đà Phật, ta sẽ về Tây Phương thành Phật. A-Di-Đà
Phật tiếp độ ta về đó để thành tựu.
– Khi ta cống cao ngã mạn niệm câu A-Di-Đà Phật.
Câu A-Di-Đà Phật là Chánh Pháp, nhưng tâm ta là Tà, tâm Tà niệm câu A-Di-Đà
Phật, thì niệm câu A-Di-Đà Phật cũng biến thành Tà Pháp
luôn!
Chính
vì vậy, Tà hay Chánh không phải là ở ngoài, mà chính là ở tại Tâm này. Hiểu
được vậy, chúng ta phải nhớ tự tu sửa lấy. Ví dụ, nếu bây giờ chúng ta còn ghét
một người nào, thì hãy mau mau bỏ cái ghét đi. Tại vì đố kỵ là Tà. Thương yêu
mới là Chánh. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, còn
đố kỵ một người nào thì mình không thể trở về Tây Phương được.
Mình
bây giờ không nghĩ đến “Chí Thành – Chí Kính” để hội nhập với chư Thượng
Thiện Nhân trên cõi Tây Phương, mà nghĩ rằng mình có khả năng chứng đắc, vô
tình mình rời khỏi cái đại nguyện của đức A-Di-Đà. Niệm Phật là nhị lực, mình
đã dùng câu Phật hiệu giống như một thứ “Thoại Đầu”. Đây là cách tự lực mà đi,
bỏ đại nguyện của Ngài. Bỏ đại nguyện của Ngài thì không ở trong quang minh
tiếp độ của Ngài.
Như
hôm trước mình nói, chính cái tâm của mình là một cái tấm ngăn, cái tấm vách,
cái tấm chắn… Mình không tin đại nguyện của Ngài thì tự nhiên cái tâm của
mình đã chắn, đã ngăn tất cả quang minh của Phật. Mà ngăn cản quang minh của
Phật thì quang minh của chư vị Ma Vương tự do phổ trùm kéo mình về con đường tà
đó.
Phật
dạy “Tất cả do tâm tạo”. Tà
hay Chánh ở tại tâm mình. Mong chư vị hiểu chỗ này để chúng ta an nhiên thành
tựu đạo quả…
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 21)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Ngày hôm qua chúng ta
nói đến khai thị oan gia trái chủ, điều hay nhất là chúng ta nên điều giải
chính cái tâm của mình, vì tất cả đều do cái tâm của mình tạo ra. Cho nên thay
vì đợi cho đến lúc sự việc đã xảy ra rồi mình tới điều giải, thì không hay bằng
chính mình lo điều giải cái tâm của mình trước.
Rõ ràng pháp môn niệm
Phật vãng sanh Tây Phương rất đơn giản, dễ dàng, chắc chắn… Nhưng ta cần phải
chí thành chí kính tu hành thì đường vãng sanh mới an toàn vững vàng hơn.
– Ta khởi lên một tâm cao
ngạo thì Ma nhập vào!…
– Ta nổi lên một cơn giận
dữ thì Quỷ nhập vào!…
– Ta nổi lên một ý niệm
tham lam thì Ngạ-Quỷ chen vô!…
Rõ ràng ba đường ác
đạo vẫn kèm sát bên người tu hành mà nhiều khi chúng ta không hay. Chính vì vậy
mà các vị Cao Tăng, Đại Đức, chư Tổ Sư luôn luôn nhắc nhở chúng ta cần phải giữ
tâm thanh tịnh mới là điều tối ưu. Đừng nên để vấn đề quá trễ rồi nhờ đến sự
điều giải. Cần thiết thì cần thiết đó, nhưng có nhiều lúc cũng trở thành quá
trễ!
Hôm nay muốn đi sâu
vào chuyện điều giải, thì xin được đọc lời điều giải oan gia trái chủ của Hòa
Thượng Tịnh-Không, Ngài soạn ra để làm cái mẫu cho chúng ta thực hiện. Đây cũng
là điều chứng tỏ rằng Hòa Thượng rất coi trọng việc hộ niệm vãng sanh. Chư vị
cố gắng nương theo cái mẫu này để học tập lời điều giải oan gia trái chủ vậy.
Bài khai thị oan gia
trái chủ của Hòa Thượng Tịnh-Không:
Phật nói, đời người ở
thế gian, nhỏ là gia đình quyến thuộc, lớn là quốc gia dân tộc đều không ngoài
báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Do bốn thứ duyên này mà tương hợp, huống chi
là tập khí và nghiệp chướng của chúng sanh sâu nặng. Sống thiếu ân thiếu nghĩa,
bố thí đức huệ thì ít, kết oán thì nhiều, do đó mà luân hồi trong lục đạo từ vô
lượng kiếp đến nay trong oan oan tương báo, khổ không kể xiết! Chúng ta nhờ
nhiều đời vun trồng thiện căn, nên nay gặp được chánh pháp, cho nên phải một
lòng quy y Tam Bảo, nghe lời Phật dạy đoạn ác tu thiện. Phật dạy: “Tất cả pháp vô sở hữu, tất cánh không,
bất khả đắc”. Cho nên phải trừ hết tất cả những oán kết của những gì
đã qua, nhất là đối với những kẻ oán thù của ta khi họ bị suy yếu bệnh khổ,
chúng ta có thể xả bỏ thù xưa, giữ tâm ý tốt, hộ trì giúp đỡ họ, lấy ơn báo
oán, biến oán thành thân, dù sống trong biển nghịch mênh mông chúng ta vẫn bước
lên con đường quang minh rộng lớn để lìa khổ được vui.
Nguyện thường nghe
kinh, niệm Phật không gián đoạn, nhất tâm cầu sanh Tịnh-Độ, tất sẽ được chư
Phật hộ niệm, viên mãn Vô-Thượng Bồ-Đề. Duy nguyện chư nhân giả, y giáo phụng
hành, hãy luôn nghĩ nhớ như vậy!
Hòa Thượng Tịnh-Không
chứng minh.
Kính thưa chư vị, đây
là cái lời điều giải của Hòa Thượng Tịnh-Không làm mẫu. Khi chư vị đứng trước
một người bệnh nhân, nhiều khi chúng ta muốn mở ra một lời khấn nguyện để cầu
xin chư vị trong pháp giới buông xả oán thù, cùng với chúng ta niệm Phật hộ
niệm cho bệnh nhân, mà xin thưa thật rằng, nếu không quen hay chưa có kinh
nghiệm lắm thì khi đối trước một sự việc cụ thể có thể tự nhiên chúng ta quên
hết, trong tâm của ta tự nhiên trống rỗng, có nhiều lúc nó trống rỗng, ta muốn
cất lên một lời năn nỉ cũng không biết lời nào để mà nói! Thì những bài mẫu này
rất là quan trọng để cho chúng ta đọc lên. Chúng ta có thể cùng chắp tay lại khấn
nguyện chư vị trong pháp giới, rồi mình giới thiệu cho họ: “Đây là lời dạy
của Hòa Thượng Tịnh-Không”, rồi mình trang nghiêm cùng nhau chắp tay đọc rõ
ràng từng chữ từng chữ để cho chư vị trong pháp giới có duyên nghe được. Khi họ
biết rằng đây là lời của Hòa Thượng Tịnh-Không, là một vị có uy đức thì tự
nhiên họ có cảm ứng rất tốt. Nhờ cái uy đức của Ngài mà các vị trong pháp giới
có thể cảm động và họ giác ngộ ra đường tu hành. Đây cũng là cái lẽ tự nhiên.
Khi điều giải oan gia
trái chủ, thường thường có những người điều giải rất hiệu quả, cũng có những
người điều giải hoài mà oan gia trái chủ không nghe. Lạ lắm!… Ví dụ, cũng là
một lời nói y hệt như vầy: “Chư vị ơi, xin chư vị hãy bỏ oán thù đi cùng
nhau niệm Phật”, mà
mình nói cả chục lần, nhưng các vị oan gia trái chủ không nghe theo. Ấy thế, mà
một vị Cao Tăng có đức độ, Ngài nói: “Chư vị ơi hãy bỏ oán thù đi cùng
nhau niệm Phật”. Ngài
vừa nói dứt câu thì chư vị nhân giả trong pháp giới lại răm rắp nghe theo. Đây
là sự thật chứ không phải là ngoa.
Chính vì vậy, khi đi
hộ niệm, cái điểm quan trọng là chính người hộ niệm phải có tâm chí thành chí
kính, phải có công phu tu học chánh pháp và cũng có cái tâm Bồ-Đề rộng lớn niệm
Phật cầu sanh Tịnh-Độ, thì lời nói của mình nói ra sẽ có một cái cảm ứng mạnh. Trong
những lần trước Diệu Âm thường nói rằng, một người bệnh muốn được vãng sanh về
Tây Phương thì phải có đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh, vì có Tín-Nguyện-Hạnh thì lúc đó
họ mới có tâm thành sám hối tất cả những nghiệp nhân xấu ác của mình làm ra. Nếu
một người không có đủ Tín-Nguyện-Hạnh, thì thường thường:
– Họ niệm Phật chỉ là
niệm thử. Niệm thử thì không có công đức!…
–
Họ nguyện là nguyện cho lấy có, chứ tâm không chí thành.
– Họ tin thì tin lấy
lệ, nên thiện căn phước đức của họ không khởi lên được.
Tín-Nguyện-Hạnh không
khởi lên được thì đối với oan gia trái chủ họ đều biết trước hết tất cả rồi, dù
lúc đó người đó có chắp tay lại nói rằng,“Chư vị ơi! Xin tha cho tôi”, thì
lời nói này thật ra là trống rỗng! Họ không có lòng thành sám hối! Không có
lòng thành sám hối nên rất khó hóa giải! Bên cạnh đó những người hộ niệm cũng
không đủ Tín-Hạnh-Nguyện nữa, thì việc điều giải cũng không có hiệu lực gì đâu!
Cho nên nếu mình thấy
rằng chính mình không đủ đức độ nào để cảm hóa đến chư vị oan gia trái chủ, thì
tốt nhất là mình cầm cái bài khai thị của Hòa Thượng lên rồi trang trọng giới
thiệu cho chúng sanh biết: “Kính xin chư vị đây là lời nói của Hòa Thượng
Tịnh-Không, đây là lời dạy của chư Tổ, đây là lời dạy của Phật, v.v…”
Mình hãy lấy lời của
các Ngài ra và trang nghiêm đọc cho chúng sanh nghe. Khi nghe đến, họ biết đây
không phải là lời của ông Diệu Âm này nói đâu, mà lời này là của Hòa Thượng
Tịnh-Không nói. Nghe tới danh của Hòa Thượng Tịnh-Không thì tự nhiên các ngài
có thể rúng động liền, nhiều khi các ngài phải cúi đầu xuống đảnh lễ và nguyện
y giáo phụng hành.
Cũng có nhiều khi mình
muốn hóa giải oan gia trái chủ, nhưng không biết mình liệu có đủ đức độ để khai
thị cho người ta nghe theo hay không, mà mình cũng không có một tài liệu nào
bên cạnh hết, thì mình nên nói:
Chư vị ơi! A-Di-Đà
Phật đã dạy như thế này, A-Di-Đà Phật đã phát thệ rằng… nếu chư vị nghe
danh hiệu của Ngài, tức là A-Di-Đà Phật, mà quý vị thành tâm niệm danh hiệu
Ngài, nguyện vãng sanh về nước Ngài, buông xả tất cả thế trần ra, cụ thể là
buông xả oán hờn người khác rồi niệm danh hiệu Ngài để cầu vãng sanh về
Tây-Phương-Cực-Lạc, thì chư vị sẽ được A-Di-Đà Phật tiếp độ về Tây Phương hưởng
đời an vui cực lạc. Đây là lời Phật dạy!
Quý vị thấy đó, rõ
ràng mình là một người thiếu đức, nhưng mà mình nói cho họ biết rằng đây là lời
Phật dạy, thì lời họ nghe đó là lời của Phật dạy, làm cho họ có cảm ứng mạnh
hơn, nhiều khi họ phải rúng động! Cái âm hưởng của lời Phật sẽ cảm động đến họ
và từ đó họ dễ giác ngộ hơn.
Như
vậy, để điều giải oan gia trái chủ, rất cần đến Tâm Chân Thành, Tâm Thành Kính,
Tâm Khiêm Nhường… Có thế mới điều giải được.
Có nhiều người lý
luận rằng, muốn điều giải oan gia trái chủ thì ta phải tu cho đến một lúc nào ta
thật sự có năng lực rồi mới được, vì có năng lực rồi nên ta nói một câu thì các
vị đó phải rúng động, phải sợ oai mà thi hành! Chuyện này hôm qua chúng ta đã
có khuyến cáo qua rồi. Khuyến cáo như thế nào?…
Khi xác nhận ta có năng lực gì đó, thì coi chừng ta đã bị tẩu hỏa
nhập ma rồi!…
Có nhiều người nói
rằng, cần phải có năng lực, giống như một vị tướng ra giữa chiến trường hét lên
một tiếng làm quân địch phải khiếp sợ! Khi mà nghĩ rằng ta có năng lực như một
vị tướng, còn coi oan gia trái chủ giống như hàng binh quân, thì nhất định
chính ta đã bị nạn rồi!…
Mong chư vị hiểu được
chỗ này. Trong pháp điều giải của Tịnh-Độ Tông là luôn luôn Khiêm Nhường – Kính Cẩn, tự nhận tất cả
những lỗi lầm về phần mình. Phải thành tâm sám hối, năn nỉ, cúi xin chư vị
trong pháp giới thương tình, tự họ tự nguyện buông xả oán thù ra thì chúng ta mới
kết được duyên lành với tất cả pháp giới chúng sanh, với người bệnh và ngay với
oan gia trái chủ nữa. Đó là điều mà chúng ta nên làm. Ngoài ra không nên đi con
đường gọi là đấu tranh để dành thắng lợi.
Xin
chư vị nhớ cho, chúng ta “Điều Giải” trong hòa bình, chứ không phải là “Đấu
Tranh” để dành phần thắng lợi.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 22)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
“Khai Thị – Hướng Dẫn” điều giải oan gia trái chủ cho người bệnh là để cho người bệnh được lợi, mà chư
vị oan gia trái chủ cũng được lợi luôn, chứ không phải điều giải oan
gia trái chủ là để cho người bệnh được lợi mà các vị oan gia trái chủ bị lỗ.
Không phải như vậy!…
Rất nhiều người đã có
cái tâm ý không được công bằng. Khi đối trước một người bệnh bị ách nạn về nhập
thân, về việc bị các vị thù hằn trong pháp giới đang
xử lý vấn đề… Người hộ niệm thường nghĩ rằng là làm sao cho người bệnh thoát
nạn là được, không để ý gì đến tình trạng của chư vị gọi là oan gia trái chủ.
Điều này suy cho cùng lý thì không đúng với chánh pháp mấy! Vì thật sự như hồi
sáng mình đọc lời khai thị mẫu của Hòa Thượng Tịnh-Không, Ngài nói là: “Tất cả đều không ngoài báo
ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ”. Đó là bốn cái duyên tương hợp mà nó
sinh ra hiện tượng này…
Mình nói nôm na cho dễ
hiểu hơn thì tất cả đều có nhân có quả, chứ không thể
đương nhiên mà sinh ra như vậy. Trước một vấn đề, nếu chỉ nghĩ có
một chiều thì nhiều khi chúng ta tưởng rằng đang làm việc
nghĩa, tưởng rằng có tâm từ bi, tưởng rằng giúp đỡ chúng sanh, nhưng coi chừng
chúng ta đang làm những việc hình như bất nghĩa, mất sự công bằng, không có
lòng từ bi!…
Ví dụ như một người
bệnh đang bị chư vị oan gia trái chủ đánh phá. Truy nguyên ra thì họ đến để báo
oán.
Tại sao họ báo oán?… Là tại vì trong quá khứ chính người bệnh đã tạo
ra oán
nghiệp này, đã tạo ra cái nhân ác đối với họ, đã làm cho họ đau khổ!… Sự đau khổ
của họ không phải là một năm, hai năm, một tháng, hai tháng. Nhưng nhiều khi đã trải qua
từ đời này đến đời khác, nhiều khi họ chịu trong cảnh tam đồ ác đạo trải qua thời gian rất dài!
Mình sống trong nhân
gian này thấy khổ, nhưng so với cái khổ của họ thì không thấm thía vào
đâu hết. Như vậy thì người ta đến đòi nợ, báo oán đó là họ đòi lại cái
quyền lợi của họ, nói về nhân gian tức họ lấy lại sự công bằng
cho chính họ. Nguyên nhân vì người bệnh giết họ,
hại họ, làm cho họ phải tan gia bại sản, mất cả sinh mạng, làm cho họ phải chịu
đau khổ triền miên như vậy!
Bây giờ chúng
ta đến điều giải mà cứ nghĩ chỉ làm sao cho người bệnh thoát khỏi cái ách nạn
này, mà không chịu nghĩ là làm sao phải bồi đáp
lại sự công bằng cho chính những vị oan gia trái chủ. Chính vì ý nghĩ thiên
lệch, nên có nhiều người gọi là điều giải oan gia trái chủ,
chứ thật ra họ lại dùng những thế lực mạnh để áp đảo chư vị thù
nghịch.
Trong suốt thời gian nghiên cứu về
pháp điều giải trong Tịnh-Độ Tông, Diệu Âm chưa bao giờ thấy cái vấn đề là dùng đến
vũ lực để mà áp đảo hoặc bắt buộc những vị oan gia trái chủ phải cúi
đầu. Không có như vậy. Chẳng tin bây giờ quý vị đọc lại những lời khai thị
sẵn của Hòa Thượng Tịnh-Không trong các băng giảng hoặc là những bài mẫu của Ngài đưa
ra coi. Từ trước tới nay Diệu Âm chưa thấy một nội dung là bắt buộc các vị đó
phải cúi đầu. Không có!
Trong bài điều giải
oan gia trái chủ của Hoà Thượng, sau cùng Ngài có nói một
câu như thế này: “Duy nguyện chư nhân giả y giáo phụng hành”. Đây là câu mình nên để
ý. Ngài gọi các vị oan gia trái chủ là “Nhân Giả”, thì cũng
giống như mình thường gọi là: Chư vị, các Ngài. Kính
thưa các Ngài… Tôi xin các Ngài… Đây là cách nói
có ý nghĩa tương tự.
Ngài không bao giờ
nói là: “Tôi muốn bắt buộc các ngươi
phải bỏ hết chuyện này đi”. Không bao
giờ!…
Mà gọi là “Duy nguyện”, là với lòng thành tôi thành khẩn, cúi xuống, cầu nguyện, xin chư vị nhân giả… Ngài tôn trọng người ta đến mức như vậy. Còn “Y giáo phụng
hành” là sao? “Y Giáo” là y theo lời Phật
dạy, vì trước đó Ngài
có nói Phật dạy rằng: “Đời người ở thế gian nhỏ là quốc gia, gia đình, quyến
thuộc…”. Ngài nói đó là lời Phật dạy. Tức là rõ rệt rằng từng
lời, từng lời Hòa Thượng dạy là lúc nào chúng ta cũng phải luôn luôn kính cẩn
họ, khuyên răn họ, đem Phật pháp ra giảng cho họ biết, để họ hiểu mà quay đầu,
bỏ đi oán thù trở về với Phật pháp, niệm Phật cầu sanh
Tịnh-Độ…
Chúng ta đi điều giải
oan gia trái chủ phải lấy đúng tinh thần đó mà làm. Không bao giờ
sơ ý gây oán nghiệp với chư vị oán thân trái chủ. Được vậy, chúng ta càng hộ niệm, càng điều
giải, chúng ta càng có thêm âm đức, có thêm lòng
từ bi, có thêm cảm tình đối với khắp
pháp giới chúng sanh. Chúng ta khỏi sợ cái nạn gọi là oán thù riêng
với cá nhân chúng ta. Về mặt từ bi thì chúng ta làm trọn vẹn, vì thật sự chúng ta muốn cứu người bệnh mà
cũng thành tâm tha thiết muốn cứu được chư vị trong pháp giới đang khổ vì người
bệnh này. Hai bên đều lưỡng lợi. Đó là tinh thần của
Phật giáo!…
Chính vì vậy, trong mấy
ngày hôm nay tôi có nghe chư vị đồng tu kể lại những
chuyện “Điều Giải” oan gia trái chủ hơi lạ ở đâu đó! Nào là
bắt vong linh nhốt, hay dùng hình thức cưỡng ép gì đó… Có
người dùng những thần lực gì của họ tra tấn vong linh, họ ép buộc, họ nhốt
vong linh! Thì xin thưa với chư vị, có thể các vị đó có đủ năng lực,
có đủ uy đức hay sao mình không biết! Nhưng riêng chính chúng ta đang
niệm Phật thì không thể làm vậy. Theo pháp nào phải theo một
pháp. Chúng ta tu Tịnh-Độ, tinh thần của người Tịnh-Độ là luôn
luôn sống trong an định, hòa hài, hòa bình, thân ái… Không bao giờ được quyền bỏ
cái chữ thân ái, thanh tịnh để đi vào con đường gọi là đấu tranh kiên cố.
Hai cái vấn đề này khác nhau.
Giả sử như khi chúng
ta điều giải một chuyện oán thân mà các vị oán thân đó quyết
lòng không tha, quyết lòng không bỏ thì đó:
– Một
là do cái đức của chúng ta yếu quá, chúng ta không có đủ đức để làm cho họ tin
tưởng vào lời nói của chúng ta. Như hồi sáng mình nói là vì công phu tu hành
của mình còn quá yếu, lời nói của mình không đủ cho người ta tin tưởng…
– Thứ
hai là do vì họ quá chấp, họ không kể gì đến chuyện đọa lạc, họ không kể gì hậu
quả vì sự trả thù này. Đó cũng là Nhân-Quả của chính họ… Họ kẹt trong cái nhân quả đó thì chúng ta cũng đành
phải thuận theo cái nghiệp nhân quả báo của họ, chớ không thể nào
cưỡng chế được.
Cho nên, xin thưa với
chư vị, khai thị cho oan gia trái chủ đừng bao giờ để quá chậm, quá trễ. Thường
thường những người mà để bệnh nhân đến cái lúc quá nguy kịch
rồi, tức là mê man bất tỉnh trong bệnh viện, hoặc là sắp sửa hấp hối rồi mới kêu ban hộ niệm, mới nhờ
tới sự điều giải… Thì nhiều khi một trăm phần mình tìm chưa ra được một phần thành công… Lúc đó tâm của
người bệnh không còn nghe được nữa, người bệnh đó không biết làm sao để cất lên
lời sám hối. Trong cảnh đấu tranh hận thù với nhau, chính người bệnh
đang nằm trong đau khổ và cũng nằm trong sự thù hận luôn… Thù hận đang kèm
theo thù hận! Thành ra chúng ta cũng đành chịu thua!…
Nói tóm lại, khi điều giải ta
không được quyền có ý tưởng bắt buộc người bệnh
phải được thuận
lợi, bắt buộc oan gia trái
chủ phải chịu thiệt
hại!…
Nếu chúng ta làm vậy, nếu được thì
có thể người bệnh được chút lợi gì đó! Nhưng coi chừng
cái lợi này chỉ có một, còn cái hại có thể lên tới mười!… Nên nhớ, oan gia trái
chủ mà đòi nợ người bệnh không được, sự oán thù có thể truyền qua
người ép buộc họ phải bị thiệt hại, và sự oán thù có
thể kéo luôn tới con cái về sau của người bệnh nữa… Điều này thật ra trước mắt
thì mình thấy rằng là lợi, nhưng mà sau cùng hình như không được lợi lắm!
Cho nên, thành tâm
thành kính điều giải, đem tất cả cái lòng từ bi của mình ra giảng giải, khuyến
hóa, gỡ lần, gỡ lần… Tìm mọi cách hóa giải trong hòa bình, ví dụ cụ thể
như:
Phóng sanh, làm thiện, làm lành, bắt người bệnh phải sám hối, bắt gia đình
phải sám hối, rồi chúng ta nương theo Phật pháp mà hóa giải mối oán thù của
họ. Khi mà tất cả đều chấp nhận sự điều giải thì tất cả
đều vui vẻ. Làm vậy chúng ta luôn luôn có công đức
trong vấn đề điều giải này.
Nam Mô A-Di-Đà
Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 23)
Nam Mô A-Di-Đà
Phật.
Chúng ta đang nói về cách khai thị, hóa giải oan gia trái chủ…
Khi đi hộ niệm cho
bệnh nhân rồi gặp chuyện oan gia khuấy động, rất ít người chú ý phát tâm thương hại, cứu giúp, giải nạn cho oan gia trái chủ. Hầu hết là
cứ tìm cách giải nạn cho người bệnh mà quên đi cái nạn của những vị mà bị người
bệnh đó làm hại họ, tạo cho họ phải sống trong những cảnh giới rất là đau khổ!
Có nhiều khi những vị đó trải qua nhiều đời nhiều kiếp khổ sở vì chính người
bệnh này gieo cho họ.
Cho nên không phải
chỉ cứu được người bệnh thoát được cái nạn oán thân trái chủ là chánh pháp đâu.
Không phải! Mà ta phải có cái tâm vừa cứu được người bệnh, mà còn cứu được cái
người đang hại người bệnh đó nữa. Tại vì oan gia trái chủ họ chỉ đến để đòi lại
sự công bằng cho họ. Nguyên nhân vì sự sai lầm của người bệnh mà họ đã chịu qua
nhiều đời nhiều kiếp trong những cảnh hết sức là khổ đau!…
Đạo Phật chúng ta
có tâm đại từ đại bi, thương chúng sanh một cách bình đẳng. Ta học theo pháp
của Phật thì ta cũng phải có cái tâm từ bi thương chúng sanh một cách bình
đẳng. Chúng ta đang dựa theo lời khai thị oan gia trái chủ của Hòa Thượng
Tịnh-Không để mình thấy rằng từng lời, từng ý của các Ngài đều có mục đích rõ rệt và trong đó đã lộ ra đạo lý từ bi
bình đẳng. Các Ngài không có ép buộc ai hết.
Ví dụ như trong
lời khai thị oan gia trái chủ thì Hòa Thượng có nói một câu này: “Phật dạy tất cả pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”. Ngài lấy câu này để dạy cho
oan gia trái chủ. Câu này đạo lý hay lắm! Cũng
giống như hôm trước chúng ta có nói là: “Tam tâm bất khả đắc, vạn
pháp nhân duyên sanh”. Những
câu này có ý nghĩa tương tự
với nhau. Có câu khác như: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không”, cũng giống giống như vậy.
Tại vì trước khi
mở đầu hóa giải cho oan gia trái chủ, Hòa Thượng có nói là: “Tất cả không
ngoài báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ”. Nếu mà đem câu: “Nhất
thiết pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”, cộng với câu: “Báo
ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ”,
thì đúng là nội dung của câu: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không”.
Ý nghĩa hàm chỉ
rằng, bây giờ nếu mà quý
vị có
trả thù, có quyết lòng hãm hại người bệnh thì thật sự chư vị cũng không được gì
cả, gọi là “Tất cánh không”. Sau cùng rồi quý vị cũng không hưởng được
một sự lợi lạc nào cho chính quý
vị,
mà tiếp theo đó: “Nhân quả bất không”!… Cho nên Ngài mới nói là “Oan oan tương báo đời đời kiếp kiếp không có
thể thoát nạn được”. Dựa vào những lời của Ngài mà mình đi khai thị
cho chư vị oan gia trái chủ.
Thường thường khi đến
trước một bệnh nhân còn tỉnh táo, mình chưa thấy có một hiện tượng gì gọi là
oan gia trái chủ báo hại, nhưng hôm trước mình cũng có đề nghị qua, là ngay
trong buổi hộ niệm đầu tiên lúc nào ta cũng nên điều giải chư vị hữu duyên với
người bệnh hết. Không nên quên chuyện này. Thì thường thường Diệu Âm mời tất cả
chư vị đồng tu chắp tay lại, rồi thành khẩn thưa như vầy:
– Chúng tôi xin thành khẩn cúi đầu khấn nguyện chư vị, xin thưa chư
vị là trong đời này chư vị có duyên với ông Trần Văn X, dù là lành hay là ác cũng
là duyên. Nếu là lành thì xin chư vị tiếp tục hỗ trợ để cho ông Trần Văn X được
thuận buồm xuôi gió vãng sanh. Nếu là duyên ác thì xin thưa với chư vị rằng,
ông Trần Văn X dù thế nào cũng là phàm phu tục tử, đã là phàm phu tục tử thì ai
cũng có lúc mê mờ làm điều sai trái, kết nên nhân chẳng lành với chư vị. Nhưng bây
giờ ông Trần Văn X đã thành tâm sám hối, đang niệm Phật cầu về Tây Phương,
ngưỡng mong chư vị tha thứ, buông xả oán thù để cho chúng ta cùng nhau kết
thành bạn lữ đi về Tây Phương…
Đại khái như vậy…
Cái điểm quan
trọng trong câu nói này là ông Trần Văn X đã phát lồ sám hối, đang thành tâm
sám hối, đang kiệt thành sám hối và đang niệm Phật cầu về Tây Phương để thành
đạo cứu độ chư vị… Nếu trường hợp mình đi hộ niệm cho một người đã bị mê man
bất tỉnh thì mình nói câu này không được! Vì người ta mê man bất tỉnh làm sao
biết ông đó có sám hối hay không? Mà chính sự sám hối của người bệnh là điểm
quan trọng nhất để giúp cho ta điều giải được chuyện oán thân trái chủ.
Nếu người bệnh mà
không có cái tâm sám hối, thì xin thưa thẳng thắn rằng, ta dùng cái tà pháp, ta
dùng cái nội lực, ta dùng cái chưởng lực gì đó để đánh phá người ta, bắt họ
phải bỏ đi thì được!… Chứ còn nói điều giải thì khó nói cho thuận lý! Mà một
khi dùng đến cái lực gì của mình để đánh phá họ, bắt buộc họ phải ra khỏi cái
vị trí này, thì sự ép buộc này không thể nói là chánh pháp, dễ gây oán thù
truyền đời không tốt về sau!…
Cho nên quý vị cứ
để ý coi, những người
có cái pháp thuật gì đó để “Trừ Ma Yếm Quỷ”, hay là có những đạo lực gì đó liên quan đến vấn đề
này thì cuối đời thường thường bị nạn rất dễ sợ! Nghĩa là người ta bị phá không
phải là đời này mà còn bị phá tới đời con, đời cháu, đời chít nữa… Nhiều khi
bị diệt tộc luôn chứ không phải là chuyện thường!…
Vậy thì, là người học
Phật tuyệt đối mình không nên có tâm ý dùng cái lực gì đó để đàn áp họ.
Những người hộ
niệm mà học tập không kỹ thường thường cũng có thể vướng chuyện này. Tại vì một
ban hộ niệm như vậy có thể đông đến một trăm người. Một trăm người đang ngồi
trước bệnh nhân để niệm Phật. Nếu một trăm người đều phát cái lời nguyện lên “Quý vị ơi, quý vị PHẢI ra đi”, thì
người
oan gia trái chủ cũng phải chịu thua, cũng phải ra đi vì áp lực của những người
hộ niệm mạnh quá. Vì lực của người hộ niệm mạnh quá nên không cần điều giải mà
oan gia trái chủ đã chạy rồi!…
Có nhiều người
không để ý chỗ này, cứ
tưởng như vậy là mình ngon, như vậy là mình có năng lực!… Có một lần Diệu Âm
đi về Việt Nam, đến lắng nghe xem người ta hộ niệm như thế nào? Thì người hộ
niệm đã điều giải mà nói dữ dằn quá!…
– Tôi nói một
là một, hai là hai… Quý vị có nghe hay không?
Có một lần khác,
một vị đó nói:
– Bây giờ tôi nói mà không ra hả? Nếu không ra thì chính trị không
xong, tôi dùng đến quân sự, chứ tôi sợ à!…
Có những chuyện đã
xảy ra như vậy! Diệu Âm cảnh cáo một cách thẳng thắn rằng, bây giờ chư vị có
năng lực như thế nào đi nữa tôi không biết!… Nhưng làm như vậy thì đây không
phải là cuộc điều giải, mà gọi là áp lực, bắt buộc, chỉ định, ra lệnh… thì đúng
hơn, chứ không thể nói là điều giải được. Điều giải hay là hòa giải tức là làm
cho hai bên đều thông cảm với nhau, đều tự nguyện buông xả thì mới gọi là điều
giải.
Có một lần có một
vị tới điều giải oan gia trái chủ đang nhập thân vào người bệnh đó, mà người
bệnh đó cũng sắp chết rồi. Điều giải cả từ sáng đến chiều nhưng không thành
công. Vị nhập thân đó có vẻ dữ quá, hỗn hào quá, không nể nang gì hết trơn.
Người hộ niệm đó mới nói:
– Chính ta nói
mà cũng không nghe nữa hả? Bây giờ có ra hay không?… Không ra thì đem tới
chùa đó cho ta. Ta có cách trục ra!…
Cuộc hộ niệm này
tôi không có chứng kiến tại chỗ, nhưng người ta kể lại rằng, khi nghe nói vậy, vị
oan gia trái chủ đang nhập thân đã giận trợn con mắt lên!… Người hộ niệm đó
nói:
– Được rồi bây
giờ ta chuẩn bị trục…
Nói xong người đó ra
về để chuẩn bị trục gì đó? Khi người hộ niệm đó vừa ra về, thì người bệnh đó
chết!… Sau đó người ta cũng niệm Phật để hộ niệm, nhưng người chết không có
một hiện tướng nào mà gọi là tốt đẹp hết!…
Người bệnh bị chết
này trước đó chừng bốn năm tháng Diệu Âm có gặp qua, có nói chuyện khuyên nhắc
và người bệnh đó đã bắt đầu phát tâm niệm Phật cũng khá tốt. Nhưng khi vị đó ra
đi thì Diệu Âm đã về lại bên Úc rồi.
Hộ niệm mà điều
giải như vậy là một điều hết sức sai lầm! Sau này, có lần chính Diệu Âm đi hộ
niệm và cũng gặp một trường hợp rất giống như vậy, nghĩa là vị oan gia trái chủ
nhập thân, cũng khá dữ dằn, cũng không chịu nghe lời, còn lý luận, cãi lại nữa… Nhưng mà Diệu
Âm cứ một lòng chắp tay thành khẩn năn nỉ, nghĩa là họ la gì la, mình cũng cứ thành
tâm nói:
– A–Di–Đà Phật! Chúng tôi
xin thành tâm ngưỡng cầu chư vị xét suy. Bà này đang thành tâm sám
hối rõ rệt. Chúng tôi cũng không dám xen vào chuyện nhân quả của chư vị. Chúng
tôi chỉ muốn thành tâm cứu giúp chư vị, nhưng mà thực lực của chúng tôi cứu
không được. Xin chư vị nghe lời chúng tôi niệm A-Di-Đà Phật thì tự chư vị được
quang minh của Phật cứu độ. Bây giờ chư vị hãy buông oán thù này xuống đi thì
nhất định cái oán thù này biến thành phước đức, biến thành thiện lành, biến
thành đại từ đại bi… Chư vị nương theo lòng đại từ đại bi của A-Di-Đà Phật mà
trở về Tây Phương Cực lạc, liễu đoạn sanh tử hay hơn là trả thù nhau để đời đời
tương oán, tương thù mà cùng chịu nạn…
Người ta làm gì
làm mình cũng phải năn nỉ. Tôi nói tiếp:
– Nếu mà chư vị không tha thì đây
là chuyện nhân quả của chư vị. Tôi đã hết lời, quyết không dám nói nữa. Nhất
định tôi không ép buộc chư vị, nhưng chư vị hãy nghĩ coi, báo thù với nhau lợi
ích gì?…
Nói theo Hòa
Thượng Tịnh-Không là:
– Xin chư vị hãy nghe lời Phật dạy, quy y Tam Bảo, đoạn ác tu
thiện….
Rõ ràng những lời
nói của Ngài thấm thía lắm! Mình nên nương theo đó nói những lời có nội dung
tương tự như vậy.
Tôi điều giải hơn
một tiếng đồng hồ thì thành công. Các vị hộ niệm nói:
– Trời ơi! Hay
quá!… Bây giờ xin Anh làm sao cho chúng tôi học nghề.
Tôi nói:
– Cứ nhìn đó
mà làm theo đi.
Có nhiều người
nói:
– Từ nay về sau
tôi biết cách rồi, gặp trường hợp này tôi làm y hệt như vậy thì có thể thành
công.
Tôi nói:
– Đúng đó! Phải
thành khẩn, phải tha thiết, là phải cúi xuống mà lạy họ, chớ đừng có nghĩ là
mình có cái năng lực nào đó mà đàn áp người ta.
Khi tôi nói đến
chuyện này, thì có nhiều ban hộ niệm giật mình! Tại vì cũng có ban hộ niệm
vướng phải sai lầm! Nhiều khi vì lực lượng của ban hộ niệm đó mạnh quá, bảy tám
chục người, họ tỏ ra trấn áp… Đây là điều không hay! Thật ra, với oan gia
trái chủ, thì hai người ba người là có thể kềm chế họ được rồi chứ cần gì tới
bảy, tám chục người. Những vị oan gia trái chủ đó không phải mạnh lắm đâu. Chỉ
vì họ quá khổ sở, họ quá căm thù, họ quá đau đớn mà họ phải làm như vậy. Họ lựa
thế để trả thù, chứ thật ra là họ không có mạnh lắm.
Ta đã mạnh rồi, ta
đã sung sướng rồi mà không thương hại họ lại còn chèn ép họ nữa, thì đây thật
là điều không nên! Cho nên nếu ta sơ ý trong việc khai
thị, điều giải, dùng cái năng lực nào đó ép uổng họ, thì có thể gây ra những oán
thù không hay!…
Hiểu được chỗ này
rồi, mình hãy nghe lời các vị Đại Sư trong Tịnh-Tông, là luôn luôn lấy lòng chí
thành, chí kính của mình mà năn nỉ họ. Muốn khuyên giải họ được thì người bệnh phải
còn tỉnh táo và phải nói lên lời này:
– Nam Mô A-Di-Đà
Phật! Tôi xin thành tâm sám hối tất cả lỗi lầm của mình.
Lấy lời này, dựa
vào cái cớ này, mình mới khuyên được oan gia trái chủ.
Cho nên khi muốn được
hộ niệm, người bệnh không nên để đến lúc mê man bất tỉnh rồi mới mời ban hộ
niệm. Trễ rồi! Trễ quá nhiều khi chúng ta có điều giải đi nữa cũng khó thành
công! Điều giải oan gia trái chủ không được cảm thông, còn về phần người bệnh thì
không còn nghe được nữa, thành ra cuộc hộ niệm coi như thất bại!…
Mong cho tất cả
chư vị hiểu được chỗ này, chúng ta sẽ chuẩn bị phát tâm hộ niệm cho nhiều người
được phước phần vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà
Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 24)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Niệm Phật Đường chúng ta đang nói về hộ niệm, thật sự
là để nhắc nhở cho chúng ta biết cuộc đời này quá sức vô thường. Vô thường đến
nỗi mình chưa kịp nghĩ tới mà vô thường đã đến rồi!…
Ở bên tây Úc có một vị kia gia đình cũng rất là khá
giả, mới có năm mươi mấy tuổi đang rất là khỏe mạnh, đùng một cái cảm thấy bệnh
bệnh trong người, vào bệnh viện bác sĩ phát hiện ra ung thư không còn cứu được
nữa. Thời gian chóng vánh mới đây thì hôm nay đã ra đi rồi. Quá sức là vô
thường. Chị Chín mới tuần trước còn đi niệm Phật, thì ngày hôm nay cũng khá
nặng trong bệnh viện rồi không biết là sẽ như thế nào?… Quá sức là vô thường.
Ở bên Darra bà bác kia tám mươi mấy tuổi bệnh xuống, mình tới năn nỉ:
– Bác ơi, niệm Phật đi bác, niệm được bao nhiêu thì
niệm.
Bà bác nói:
– Tôi bệnh ba mươi mấy năm nay chưa chết, bây giờ
không sao đâu, thủng thẳng đã…
Hẹn!… Niệm Phật mà hẹn! Chúng ta chưa kịp đến thăm lần thứ
hai thì bà đã vào nhà quàn nằm rồi. Quá sức vô thường!
Thấy như vậy mà khuyên người ta niệm Phật, nhiều người
còn cứ nói: “Để coi đã?”. Không biết họ muốn để coi cái gì đây? Chẳng lẽ chờ coi nghiệp chướng nó ứng hiện
như thế nào sao?… Chẳng lẽ để coi oan gia trái chủ hành động như thế nào
sao?… Và lúc đó, khi vô trong bệnh viện nằm mê man bất tỉnh rồi, thì chúng ta
tới đó cũng để coi thử cái xác đó chừng nào rã đây? Chứ còn biết cách nào khác
hơn!…
Sau khi liệng báo thân nhất định không có con đường
thoát nạn!… Ấy thế mà việc tu hành thì cứ hẹn “Để coi thử!”… Để
coi thử một vài hôm rồi vạn kiếp sau:
– Ai coi cho mình?…
– Ai thử cho mình?…
– Ai than cho mình trong cái cảnh đọa lạc triền miên
trong tam ác đạo?…
Ngài Ưu-Đàm Đại Sư nói rằng, niệm Phật phải miên
mật, niệm Phật phải dính chặt với câu A-Di-Đà Phật. Nghĩa là:
– Lúc
buồn phải niệm Phật.
–
Lúc vui phải niệm Phật.
– Lúc ở nhà phải niệm
Phật.
– Lúc đi đường phải niệm
Phật.
– Lúc nhức đầu phải niệm
Phật.
– Lúc bị người ta chửi phải niệm Phật.
– Lúc người ta khen phải
niệm Phật…
Phải niệm Phật bất cứ giờ
phút nào. Có như vậy mới mong cứu được cái huệ mạng của mình.
Cái cục thịt này là vô thường, thì nhất định phải trả
về cho vô thường. Hòa Thượng Tịnh-Không khai thị cho oan gia trái chủ, Ngài nói
câu này:
– “Phật dạy nhất thiết pháp vô sở hữu!”.
Có nghĩa là mình không chiếm được một cái gì hết, ngay
cái thân này mình chiếm hữu cũng không được luôn. Mình chỉ mượn tạm nó thôi,
rồi đến lúc liệng phải liệng, giữ không được.
– “Tất cánh không!” Nhất định nó sẽ là zero. Chạy theo zero làm chi?…
– “Bất
khả đắc!” Không có cái gì mà mình được hết,
chỉ có một cái là cái nhân quả, là cái nghiệp chướng nó sẽ đi theo mình, nó đi theo
đến cùng luôn, liệng không được!…
Ấy thế mà một câu A-Di-Đà Phật có thể khai trừ được,
phá tan được trùng trùng nghiệp chướng từ trong vô lượng kiếp, để sau khi liệng
cái báo thân tệ hại này mình về Tây Phương thành đạo Vô-Thượng lận chư vị. Thế
mà tại sao không ngộ ra?…
Hôm trước đi về Việt Nam có một vị vì cảm mến nên mời
Diệu Âm lên làm đại biểu trong một cái khóa diễn đàn về Phật pháp. Khi gọi đến
thì Thầy không có nói gì đến việc làm đại biểu hết. Mình vô tình đi đến mà bị “Vướng Nạn”, bị bắt phải ngồi hàng ghế đại
biểu! Trong khi ngồi đó thì… Trời ơi! Các vị khác lên nói thao thao, diễn tả
hết đề tài này đến đề tài nọ, còn Diệu Âm thì ngậm câm từ sáng cho đến chiều.
Vị đó đến nói:
– Cư sĩ Diệu Âm nói đề tài gì?…
– Dạ bạch Thầy, con không có đề tài gì để nói hết.
Biết đề tài gì mà nói bây giờ? Đành phải làm thinh!
Nhưng vô tình im lặng vậy cũng hay, chứ nói nhiều làm chi?… Cần niệm Phật
miên mật:
– Lúc
người ta nói mình niệm Phật.
– Lúc người ta chửi mình niệm Phật.
– Lúc người ta khen mình niệm Phật.
– Lúc nhức đầu mình niệm Phật.
– Lúc vui vẻ mình niệm Phật…
Lo niệm Phật không kịp thì làm sao mà nói? Nếu mình
nói lên thì làm sao mình niệm Phật? Nếu mình suy nghĩ chuyện này, suy nghĩ
chuyện nọ thì làm sao niệm Phật?… Tại vì vô thường quá chóng vánh! Chóng vánh
đến nỗi mà bà bác kia nói:
– Tu hành, tôi biết chứ!
Một trái cà tôi không lấy, một trái ớt tôi không lấy, đó không phải là tu rồi hay
sao?
Vô
cùng sai lầm! Tu cái kiểu gì lạ vậy!… Trái cà mình không lấy, trái ớt mình không
lấy, nhưng mà cái sinh mạng người ta mình lấy. Mình không nghĩ chuyện đó
sao?… Xẻ bụng người ta ra để ăn thịt trong khi người ta đang sống. Như vậy mà
mình không nghĩ đến sao?…
Cho nên, “Để coi đã!”… Phải chăng oan gia
trái chủ khuyên mình “Để coi đã” đó! “Để
chờ một chút”… Oan gia trái chủ dạy cho mình chờ một chút đó. Để
chi?… Một sớm một chiều khi nằm xuống rồi thì sẽ thấy, bạn sẽ chờ tới vô
lượng kiếp nữa chưa chắc gì thoát khỏi địa ngục! Kinh khủng vô cùng!…
Chúng ta đang nói về hộ niệm, thật ra là để chúng ta
biết cách làm sao cứu cho kịp một người sắp sửa xuống địa ngục được về Tây
Phương Cực Lạc. Biết được hộ niệm trước một ngày là ta lo một ngày niệm Phật.
Ta biết được phương pháp điều giải một ngày, là ta có thể cứu được biết bao nhiêu
chúng sanh có duyên với ta từ ngày đó. Cho nên cứu người là cứu ta. Không phải học
hộ niệm là chỉ để đi cứu người khác, mà thật sự chính là để tự cứu lấy mình.
Hôm trước Diệu Âm nói rằng, điều giải oan gia trái
chủ, điều giải ma chướng, điều giải vong linh nhập thân… Nhưng thật ra tất cả
đều ở chính tại tâm mình chứ không phải ở ngoài. Thành ra, muốn điều giải họ
thì phải điều giải cái tâm mình trước.
– Cái tâm mình giải
đãi! Điều giải chưa? Chưa điều giải thì đừng bao giờ nghĩ tới chuyện thoát
nạn.
– Mình cạnh tranh ganh tỵ người ta! Điều giải chưa? Chưa điều giải thì ngày ngày có tu hành,
nhưng Ma chướng vẫn cứ nhập vào trong tâm mình. Rõ ràng Ma tại tâm chứ đâu phải
Ma ở ngoài.
Nhất thiết pháp, vô sở hữu, tất cánh không, bất khả
đắc.
Đã biết không có đắc gì hết! Mà cứ móng tâm cầu đắc
cái này, đắc cái nọ… Đắc riết đến nỗi “Ma” nhập luôn! Thật sự Phật dạy chúng
ta không có đắc được gì hết, tại vì tất cả đều ở tại trong tâm chúng ta thôi.
Chúng ta mà trở về được với chân tâm tự tánh của chúng ta là chúng ta được tất
cả. Như vậy được tất cả tức là được cái chân tâm của chính ta. Chân tâm ở tại
nơi ta chứ đâu phải ở ngoài mà cứ chạy tìm “Chứng Đắc”?…
Trong pháp niệm Phật, Phật
dạy khuyên chúng ta là “Nguyện vãng
sanh” về Tây Phương Cực Lạc chứ không phải nguyện chứng đắc, tại vì ở
tại Tây Phương Cực Lạc là pháp tánh độ, là nơi A-Di-Đà Phật đã ứng hóa ra, để
cho chân tâm chúng ta ứng hiện ra. Ta cứ về đó đi, tự nhiên không đắc cũng đắc.
Còn ở đây mà cứ chờ đắc cái này đắc cái nọ, đắc cái này đắc cái nọ… Thì rõ
ràng là “Vô khả đắc”, nghĩa là không thể đắc được gì cả! “Tất
cánh không” là không có gì cả! Nếu cứ chạy tìm những cái hão huyền, để
sau cùng bị đọa lạc! Đọa lạc một cách trắng trợn trước mắt mà không chịu lo,
không chịu tu!…
Lời ngài Ưu-Đàm Đại Sư nói có ý nghĩa rằng:
– Con cái hỗn hào!… Ta niệm Phật…
– Chồng ta la rầy!… Ta
niệm Phật…
– Vợ ta kình cãi!…
Ta niệm Phật…
– Ta bị mất việc!… Ta
niệm Phật…
– Ta được việc làm!…
Ta niệm Phật…
Ngài nói không biết bao nhiêu thứ để cho chúng ta niệm
Phật… Cứ một vế phía trước đưa ra, phía sau Ngài nói: “Ta niệm Phật”.
– Ta giàu có!… Ta niệm
Phật…
– Ta nghèo nàn!… Ta
niệm Phật…
Quý vị triển khai tiếp đi… triển khai cho đến bao
nhiêu cũng được hết. Đó là lời dạy của
ngài Ưu-Đàm. Ngài nói rằng:
Tại vì nếu mà không dính chặt vào câu
A-Di-Đà Phật thì nhất định lục đạo luân hồi nó sẽ tiêm vào trong tâm chúng ta.
Chứ đâu phải tìm vài phút rảnh rỗi để niệm vài câu
Phật hiệu gọi là tu!… Tu kiểu gì lạ lùng vậy?…
Cho nên mình nói về hộ niệm, nói về điều giải oan gia
trái chủ, chứ thật ra thì oan gia trái chủ không phải chỉ là những người vô
hình đâu à, mà là những người hữu hình nữa. Khổ vậy đó!
– Mình ra ngoài shop, ở đó
người ta nói: Trời ơi!… Đời này mà tu làm chi? Thế là mình bỏ tu luôn. Đây
là oan gia trái chủ!
– Mình có đứa con, đứa
con nói: Trời ơi!… Con học, con biết được bây giờ người ta lên đến cung trăng
rồi, má tu làm chi? Nghe con mình nói có lý, mình bỏ tu. Con mình là oan
gia trái chủ!
– Mình đang tu, ông
chồng mình la một tiếng: Tại sao không nấu cơm? Tu cái gì mà tu? Mình sợ làm
buồn ông xã, thôi bỏ tu để theo ông xã đánh Casino. Ông xã mình là oan gia
trái chủ!…
Trùng trùng điệp điệp những cái chướng ngại nó ngăn
cản chúng ta mà không hay. Chính vì vậy mà chư vị Tổ Sư cứ nói rằng, Ma
chính tại tâm này chứ không phải Ma ở ngoài đâu à!…
– Giải đãi là Ma!
– Giận dữ là Ma!
– Đố kỵ là Ma!
– Buồn rầu là Ma!
– ….
Khi biết được như vậy rồi, xin chư vị hãy ráng tập
buông cho nhiều. Hòa Thượng dạy ta là buông cho nhiều, cứ tập buông, tập buông,
tập buông đi…
Mỗi lần có điều gì khó chịu một chút là mau mau tìm
cách bỏ liền, mau mau học theo ngài Ưu-Đàm Đại Sư niệm Phật liền.
– Lúc buồn niệm Phật,
– Lúc giận niệm Phật,
– Lúc vui niệm Phật,
– Lúc sướng niệm Phật,
– Lúc khổ niệm Phật,
– Lúc tắm niệm Phật,
– Lúc ngủ niệm Phật…
Thì tự nhiên câu A-Di-Đà Phật ứng hiện trong tâm chúng
ta, ta sẽ về Tây Phương thành đạo Vô Thượng.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 25)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
“Khai
Thị” trong phương pháp hộ niệm đóng một vai
trò rất là quan trọng. Một cuộc hộ niệm thành công hay không là nhờ người hướng
dẫn khéo léo, uyển chuyển, phương tiện để gỡ được những điều khó khăn hay
chướng ngại đang hiện hành cho người bệnh hay không!…
Trong
ngày hôm qua ở tại đây chúng ta có một cuộc hộ niệm, đồng thời ở bên tây Úc
cũng có một cuộc hộ niệm. Bên tây Úc thì một vị đó đã ra đi, ở đây thì vị đồng
tu chỉ bệnh mà thôi. Trong khi cuộc hộ niệm ở bên tây Úc thì Diệu Âm đã đến đó
tham gia qua ba ngày và trở về đây đã mạnh miệng nói rằng, vị này có cái xác
suất thành công đến chín mươi lăm phần trăm. Dù rằng là vị đó hồi giờ tình thật
là một câu kinh cũng không biết, một tiếng niệm Phật cũng chưa niệm qua. Khi
bác sĩ phát hiện bệnh ung thư mới hoảng kinh hồn vía chạy lung tung hết, vô
tình lại gặp được những người trong ban hộ niệm chỉ dẫn khuyến khích niệm Phật.
Vị này đã phát tâm niệm Phật một cách hết sức dũng mãnh. Thật là ban đầu không biết
gì hết trơn, khi gặp lại gặp ngay vô câu A-Di-Đà Phật…
Ấy
thế mà tối hôm qua đi hộ niệm về thì mới nghe một cái tin làm choáng váng mặt
mày. Họ báo tin cho biết là vị này không được vãng sanh. Trong khi đó, lúc đang
hộ niệm cho vị ở đây thì Diệu Âm đã nói rằng, bây giờ đây dù là chưa biết kết
quả ở đó như thế nào, nhưng tôi vẫn giữ lời nói là chín mươi lăm phần trăm
người đó được thành công.
Xin
thưa thật với chư vị, khi mà nghe tin đó làm cho Diệu Âm thấy quá ngỡ ngàng!…
Kỳ
thật ra là khi hộ niệm cho vị đó Diệu Âm đã hướng dẫn hết sức là cặn kẽ. Trong
ba ngày hộ niệm đó, Diệu Âm đưa ra vài câu trắc nghiệm giống như bài thi, “Bài
thi vãng sanh!”, để coi thử là vị này có còn vướng cái gì không? Thì
hoàn toàn là ba lần trắc nghiệm như vậy thì đều chấm là một trăm phần trăm được
vãng sanh, không có một cái gì gọi là trở ngại hết. Trước khi ra về, vị đó còn
hứa là nhất định tôi phải đi về Tây Phương: “Tôi phải làm gương cho cả gia đình tôi
biết…”, vì cả gia đình của chị đó là người Thiên-Chúa giáo.
Ấy
thế mà khi nghe cái tin là sau khi hộ niệm hơn tám tiếng đồng hồ thân tướng
không tốt mà nóng tại bụng, làm cho Diệu Âm giật mình, ngỡ ngàng, mới liền điện
thoại qua điều tra thì mới biết đã xảy ra một sự việc như thế này:
Một
ngày trước khi tắt thở, người anh chị em gì đó trong gia đình đã bắt buộc người
bệnh phải thay đổi tờ di chúc, trong đó có liên quan về tiền bạc.
Quý
vị nghĩ thử coi, một người sắp chết nằm trên giường bệnh cất cái tay lên không
nổi, làm sao mà đặt bút xuống ký vào tờ di chúc, trong khi tờ di chúc xóa đi thì
luật sư không chịu. Họ nói rằng nếu xóa bỏ, sửa chữa thì không có giá trị, nên
phải đánh lại cái tờ di chúc khác, rồi nhờ người làm chứng ký vô, rồi ép buộc
người bệnh ký vào. Sự ép buộc này đã làm chị quá bức xúc mà thành ra bị trở
ngại!…
Khi biết
được tình trạng như vậy!… Thật sự hồi hôm tôi điện thoại qua bên đó tôi làm
dữ! Làm dữ không kiêng nể, đến nỗi tôi la cả những người hộ niệm, tôi trách
luôn người đồng tu đứng ra làm chứng, rồi tôi trách luôn ông chồng. Tôi nói
cứng lắm! Tất cả mọi người thấy tôi làm dữ quá, cho nên ai cũng đành nhận lỗi
hết, không ai dám cãi lại. Rồi cuối cùng tôi nói với người chồng, bây giờ hãy
để tôi nói với hương linh. Tôi nói, hãy lấy cái điện thoại mở cho lớn ra, trong
khi ở đó thì đang có mười mấy người hộ niệm đứng chung quanh. Tôi mới bắt đầu
khai thị cho người bệnh.
Bây
giờ đây kể lại thì tôi quên rồi. Nhưng mà lúc đó mà chúng ta có ở tại đó, thì
tôi nghĩ rằng tiếng điện thoại dù nhỏ nhưng chư vị có thể nghe tiếng nói của
tôi vang ra có thể động luôn cả cái phòng hộ niệm! Tại vì tôi nói rất mạnh. Tôi
biết rằng, qua lời khai thị này nếu mà không có tác động gì đến cái vị đang nằm
xuống hơn tám giờ đồng hồ đó, thì sau đó vĩnh viễn không còn cách nào có thể
cứu được nữa. Chắc chắn sau đó không còn ai đứng ra khai thị hướng dẫn nữa đâu.
Nghĩ vậy, nên tôi bắt buộc phải nói những lời rất mạnh! Tôi nói:
– Tôi
là Diệu Âm, không phải ở sát bên chị. Nhưng mà trước khi tôi đi về chị đã hứa
với tôi là chị ra đi theo A-Di-Đà Phật và chị đã hứa là chị sẽ làm gương cho
tất cả gia đình của chị về pháp Phật nhiệm mầu. Tại sao bây giờ đây chị đã xả
bỏ báo thân hơn tám tiếng đồng hồ rồi mà còn vướng nạn?… Một đời này gặp được
câu A-Di-Đà Phật, nói thẳng rằng là trong vô lượng kiếp qua chị chưa bao giờ
gặp được trường hợp này đâu. Nó quý giá như vậy đó, hy hữu như vậy đó, thì tại
sao… lý do gì mà không chịu theo A-Di-Đà Phật để về Tây Phương, mà bây giờ
còn ở lại đây?… Có phải vì một ít tiền bạc vô thường mà chị đành đoạn chấp
nhận vô lượng kiếp nữa trong khổ đau? Có đáng không?… Chị hứa là chị sẽ về
Tây Phương để cứu cả ông bà, cha mẹ, cửu huyền thất tổ. Bây giờ chị đọa lạc thì
ai cứu chị đây?… Chị muốn làm gương cho cả chồng con, những người thân về Phật
pháp nhiệm mầu. Chị không vãng sanh thì ai thay cho chị làm gương bây giờ
đây?…
Tôi
nói rất là mạnh! Nói mạnh lắm!… Tôi nói tiếp:
– Mau mau tỉnh ngộ kịp thời… Nhất định niệm
A-Di-Đà Phật về Tây Phương Cực Lạc, không được chần chờ một phút giây nào hết.
Tôi
nói rất mạnh!… Không biết làm sao lúc đó tôi không kềm được, tôi nói mạnh
lắm! Rồi tôi mời chư vị đồng tu tiếp tục niệm Phật hộ niệm cho chị thêm bốn
tiếng đồng hồ nữa.
Thật
ra thì ngay cả đêm hồi hôm tôi nằm mà thấy bức xúc quá! Tôi không ngờ rằng một
người đã phát tâm rất là vững vàng, rất là mạnh mẽ, kiên cường đến nỗi mà tôi
nghĩ không có sự kiên cường nào qua được sự phát tâm dũng mãnh của chị, ấy thế tại
sao lại bị vướng như vậy?…
Suốt
đêm hồi hôm tôi nằm trằn trọc, không ngủ được. Tôi định chờ sáng ra tôi sẽ bắt
điện thoại gọi tiếp… Nhưng nghĩ lại, lúc này người ta đang bị rối rồi, mà
mình la một lần nữa thì thật là không nên! Cho nên tôi cố gắng dịu lại, chờ
thêm tin mới thử coi?…
Thì
một chuyện đã xảy ra bất khả tư nghì! Sau bốn tiếng đồng hồ niệm Phật tiếp, chị
đó lại chuyển đổi một trăm phần trăm. Thân tướng hồng hào mềm mại và hơi ấm
thoát ra tại đỉnh đầu… Một hiện tượng đã xảy ra thật bất khả tư nghì! Người
chồng là một người Thiên-Chúa giáo mà cũng quá cảm kích, phục xuống quỳ lạy ban
hộ niệm…
Cho
nên, mình thấy rõ rệt, pháp hộ niệm bất khả tư nghì! Quý vị cứ tưởng tượng đi.
Phật dạy: “Vạn pháp nhân duyên sanh”. Có nhân, có duyên sanh ra vạn
pháp. Chị đó từ một người không biết tu, gặp cái duyên bị bệnh, phát khởi tu,
đây chắc có lẽ là do trong nhiều đời nhiều kiếp đã tu, có nhân rồi, gặp cái
duyên là bị bệnh, hoảng kinh hồn vía, chạy cầu cứu lung tung… Gặp những người
hộ niệm người ta chỉ câu A-Di-Đà Phật. Rõ ràng là duyên. Nhờ cái duyên này mà
phát khởi niệm Phật, quyết lòng đi về Tây Phương. Đường đi về Tây Phương đã gặp
những người hộ niệm hướng dẫn cụ thể. Trước những giờ phút nằm trên giường bệnh
chờ chết, có vài trở ngại với gia đình không tự hóa giải được, nhưng mà nhờ
chúng tôi tới khuyên giải đã giúp chị hóa gỡ hầu như hoàn toàn, nghĩa là coi
như là buông bỏ hết không còn vướng mắc nữa.
Rõ
ràng đang thuận buồm xuôi gió đi về Tây Phương, đúng ra người này rất là thuận
duyên để thành tựu, không có trở ngại. Ấy thế mà trước những giờ phút tắt hơi
lại bị cái chướng nạn do người trong gia đình ép buộc phải đổi tờ di chúc làm
cho bức xúc. Vì sự bức xúc này mà đành bỏ con đường Tây Phương không chịu vãng
sanh, làm cho ban hộ niệm đó hoảng kinh hồn vía, không biết làm sao mà giải
quyết!…
Rõ
ràng cực lạc cũng trong một niệm, mà đọa lạc cũng trong một niệm.
Giả
sử như trong cảnh đọa lạc, hiện tượng thân xác nóng tại bụng tức là đang cảm
ứng tới những cảnh giới rất xấu trong tam ác đạo, nếu không có một người nào
vững vàng, biết hộ niệm hướng dẫn khai thị cụ thể, thì làm sao mà vực cái tâm
của người đó dậy để kịp hồi đầu đi về Tây Phương?…
Rõ ràng…
Một niệm giác ngộ đi về Tây Phương. Một niệm mê mờ đành phải chấp nhận
thương đau vạn kiếp!…
Cho
nên xin thưa với chư vị, pháp hộ niệm quá ư là tuyệt vời! Vi diệu không tưởng
tượng được!
Một
vị đó bây giờ dù có phát tâm như thế nào đi nữa, có giỏi như thế nào đi nữa,
nhưng gặp phải những cảnh nghịch duyên, bức xúc trước khi ra đi thì làm sao mà
thành đạo đây?… Làm sao mà giải thoát đây?… Vậy mà, chỉ cần một câu khai
giải, chỉ cần một người hộ niệm vững có thể cứu vãn vấn đề. Phương pháp hộ niệm
đã cứu người này vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Tổ
Ấn-Quang nói: “Cứu một người vãng sanh Tây
Phương công đức vô lượng vô biên, hơn hẳn gieo duyên cho vạn người tu hành”.
Cho
nên ở tại đây đã gặp được cái cơ hội niệm Phật, chúng ta đã biết giảng giải với
nhau về phương pháp hộ niệm, về cách khai thị. Xin chư vị trân quý cơ hội này
để chúng ta cứu nhau, cứu bà con chúng ta, cứu anh em chúng ta, cứu đồng tu
chúng ta, mà sau cùng cứu chính mình nữa.
Gặp
một buổi hộ niệm xin đừng bỏ qua. Bỏ lỡ một dịp hộ niệm cứu người vãng sanh
thành đạo uổng lắm! Sau này nghe người ta kể lại, dù kể rành mạch đến đâu đi
nữa thì mình không thể nào cảm nhận đúng mức được đâu! Mà chỉ cần tham gia, có
chứng kiến sự việc thì tự nhiên mình biết, mình hiểu, tự nhiên mình thực hành
một cách đúng đắn, hộ niệm thật vững vàng, chính xác, cứu người thoát nạn trong
tầm tay.
Nguyện
mong chư vị quyết lòng niệm Phật cứu người vãng sanh.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 26)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Trong
chương trình nói về “Khai Thị – Hướng Dẫn” cho bệnh nhân, chúng ta đã đi được một nửa
đoạn đường. Mỗi lần chúng ta nghe được một tin vãng sanh, tự nhiên mình thấy có
một nguồn an vui, sung sướng! Hơn nữa chuyện vãng sanh này chúng ta có đóng góp
công sức vào đó, dù nhỏ hay lớn cũng làm cho mình thấy vui và niềm tin vãng
sanh càng được vun bồi…
Có
một điều đáng nói trong cuộc vãng sanh ngày hôm kia là một điều hơi bất cẩn của
Diệu Âm! Biết rõ rằng người bệnh đó hồi nào tới giờ chưa biết tu, gia đình lại
là Thiên-Chúa giáo, ấy thế mà dám tuyên bố trước rằng xác suất của vị này được
vãng sanh lên tới chín mươi lăm phần trăm.
Rõ
ràng đây là một điều hơi bất cẩn! Nhưng cũng rất may mắn là sau cùng kết quả vị
này đã vãng sanh thật, để lại những thoại tướng bất khả tư nghì! Như vậy mình
đoán mò nhưng vẫn đúng, kết quả nằm trong số chín mươi lăm phần trăm đó, còn
chừa lại năm phần trăm là dành cho những gì sơ suất!…
Tại
sao Diệu Âm lại dám mạnh miệng nói người này có xác suất chín mươi lăm phần
trăm vãng sanh?
Xin
thưa, vì “Tín-Nguyện-Hạnh”.
Thường
thường thì người ta chú ý nhiều về thời gian tu tập lâu, về công phu hành trì
tốt, về kiến thức Phật học cao… Trong khi đó thì người vừa mới vãng sanh cách
đây hai ngày lại hoàn toàn không có những chuyện đó!
Một
người đi theo học Phật chỉ đâu khoảng ba tháng. Suốt cả một cuộc đời sống trong
một gia đình Thiên-Chúa giáo, ấy thế mà cuối đời lại gặp được cơ may, đã phát tâm
niệm Phật cầu về Tây Phương, và Diệu Âm dám mạnh miệng đoán rằng người này có
thể chín mươi lăm phần trăm sẽ được vãng sanh…
Tại
sao vậy?… Xin thưa thật, tại vì người này đã có đủ “Tín”, đủ “Nguyện”, đủ “Hạnh”. Dù rằng trước đó người này sống
như thế nào mình không biết, nhưng cuối đời có cơ duyên gặp được người khuyên
nhủ, họ tự nhiên đã phát tâm niệm Phật với “Tín-Nguyện-Hạnh” một cách đầy đủ,
vững vàng.
Như
vậy, muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, thì một người phải bảo đảm ba điểm “Tín-Nguyện-Hạnh”
đầy đủ. Đây là yếu tố được vãng sanh, chứ không thể khoe công phu giỏi như thế
này, kiến thức tốt như thế kia… mà dành phần chắc chắn vãng sanh được đâu!
Không phải! Có nhiều người tu rất giỏi, tu rất lâu… Nhưng hỏi rằng, có được
vãng sanh hay không? Nhiều khi thật sự không dám trả lời! Vì sao vậy? Vì xét
kỹ, người này không có đủ Tín, không có đủ Nguyện, không có đủ Hạnh!
Ví
dụ, chúng ta đang niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh-Độ. Tôn chỉ của Pháp môn niệm
Phật là Tin tưởng, Nguyện
vãng sanh và Niệm câu A-Di-Đà Phật. Nếu mình thấy rằng,
pháp môn niệm Phật này quá đơn giản, không xứng đáng với cái trí tuệ thông minh
của mình, thì xin tùy duyên!… Có người ở đây thì giả vờ niệm Phật, về nhà thì
thêm cái này một chút, thêm cái kia một chút… Tại sao thêm vậy? Tại vì lòng
tin vào câu A-Di-Đà Phật quá yếu!
Khi
biết một người không dám mạnh mẽ tin tưởng vào câu A-Di-Đà Phật! Nếu hỏi rằng,
người này xác suất vãng sanh được bao nhiêu? Xin thưa rằng, không dám đoán!…
Phải
chuyên mới mạnh. Đi đường nào phải chuyên một đường thì mới dễ thành đạo được.
Đi hộ
niệm, “Hướng Dẫn – Khai Thị” chính là phải:
– Làm sao cho người bệnh đó phát khởi niềm tin
vững vàng.
–
Làm sao cho người bệnh quyết lòng tha thiết vãng sanh.
–
Làm sao cho người bệnh chuyên nhất niệm một câu A-Di-Đà Phật.
Mình
muốn cho người bệnh có niềm tin vững vàng mà chính mình không có niềm tin vững
vàng, xin nói thẳng rằng, dù chư vị tới khai thị, diễn nói một tháng đi nữa
cũng không dễ gì có cảm ứng đâu! Nhất định! Người hộ niệm có niềm tin không
vững, thì làm cho người bệnh cũng khó phát khởi niềm tin được! Tại sao? Tại vì
chính niềm tin của mình không vững, thì tư thái của mình cũng không vững! Sắc
mặt của mình cũng không vững! Lời nói của mình cũng không vững!…
Đã không
vững, dù có nói gì đi nữa thì từ trường của sự hồ nghi vẫn tủa ra và ảnh hưởng
không tốt đến người bệnh, làm cho người bệnh hồ nghi luôn! Đã hồ nghi rồi thì
thôi chịu thua, không có thể nào phát khởi tín tâm được! Phát khởi tín tâm
không được, thì không có cái nhân để hội tụ được thiện căn phước đức… Chính
vì thế, mình nói về khai thị hướng dẫn cho người bệnh, chứ thật ra là để củng
cố cho chính mình vậy.
Thế
thì, nếu chư vị có “Tin” thì
phải tin cho vững. Tin rằng lời Phật dạy không bao giờ sai.
– Chỉ
có là chúng ta nghĩ sai!
– Chúng ta hiểu sai!
– Chúng ta thực hành sai!
– Mình có cái sai trong đó mà không thấy đó thôi!
Ví
dụ như hôm trước, chúng ta nói rằng, một người đi theo con đường “Tự
Lực”, thì nhu
cầu tiên quyết của họ là phải phá nghiệp, phải đoạn cho hết nghiệp, phải diệt
cho sạch nghiệp gọi là “Đoạn Hoặc, Chứng Chơn”. Nếu
mà người đó không đoạn nghiệp hoặc, tức là nghiệp mà không sạch, tình mà không trụi
lủi, thì nhất định họ phải vướng lại trong lục đạo luân hồi. Vì thế, đối với họ
cái nhu cầu đầu tiên là phải diệt cho hết nghiệp. Chắc chắn phải tận diệt
nghiệp chướng!…
Còn
chúng ta đi con đường “Nhị Lực”, (Tức là
niệm Phật, cầu Phật tiếp độ vãng sanh Cực Lạc), nếu vừa nghe những vị đó đưa ra
vấn đề phải tận diệt nghiệp chướng, ta thấy lý luận đó quá đúng, ta cũng bắt
chước theo để tìm cách quyết diệt cho hết nghiệp chướng, thì chúng ta đi lệch
đường rồi! Tại sao vậy? Vì nhu cầu chính của người niệm Phật là “Tín-Nguyện-Hạnh”
chứ không phải đoạn nghiệp.
Ví
dụ cho dễ hiểu, muốn đi từ Hà Nội vào Sài Gòn, có người nói rằng phải bước đi
từng bước, từng bước,… Có như vậy thì đoạn đường sẽ ngắn lại, và sau cùng ta
mới có thể tới đích. Đúng không? Đúng!…
Bước
đi như vậy, ta phải tránh hố này, dọn đường nọ… Phải phá tất cả những hầm hố
chông gai. Ta phải san bằng hết những chướng ngại trên đường đi. Đúng không?
Đúng!…
Còn
đối với tôi, tôi nói, tôi không bước một bước nào theo con đường đó hết, mà tôi
sẽ mua một chiếc vé máy bay. Tôi ngồi trên máy bay, tôi ngã ngửa ra trên chiếc
ghế nệm để nghỉ. Anh trải qua nào là núi này sông nọ, hầm này hố nọ, anh phải
tự san bằng hết tất cả những thứ đó, còn tôi thì không cần. Tôi đang đằng mây,
lướt gió, tôi không gặp phải những chướng ngại như anh. Anh tự bước đi thì anh
phải giải quyết tất cả những hầm hố, chông gai đó. Còn ở đây tôi đã leo lên
chiếc máy bay rồi, tôi không cần san bằng những thứ đó làm chi. Tất cả đều sẽ
đi đến Sài Gòn, là một điểm, nhưng rõ ràng phương tiện khác nhau.
Cái phước
báo của người tự lực đi bộ chính là trí huệ sắc bén, đầu óc thông minh, ý chí
kiên cường. Cái phước báo của người đi trên máy bay, chính là có chút tiền bạc.
Có tiền bạc, đó là phước báo của tôi. Anh muốn đi bộ là do sức khỏe của anh
tốt, đó là phước báo của anh. Anh khỏe mạnh, anh mới đi được như vậy. Anh có
thể tới đích đó, nhưng anh cũng nên coi chừng!… Đường đi quá dài, nhiều khi
anh đành phải ngã quỵ trong một lùm cây nào đó ở đèo Hải Vân!… Anh ngã quỵ
khi chưa tới đích!
Còn
tôi thì sao?… Dù sức khỏe tôi yếu, nhưng tôi mua một chiếc vé máy bay. Tôi lên
máy bay, tôi ngồi đàng hoàng… Chiếc máy bay sẽ chở tôi tới đó.
Người
nào muốn đi máy bay thì hãy mua vé máy bay. Chúng ta chỉ cần bỏ tiền ra là đủ,
không cớ gì phải lo san bằng những hầm này hố nọ làm chi! Rõ ràng chúng ta bay
qua trên những hầm hố đó. Còn người nào muốn đi bộ, thì bắt buộc họ phải toan
tính cẩn thận để san bằng tất cả những chướng ngại trên đường đi!…
Như
vậy, xin hỏi rằng một người ở dưới đất đang đi từng bước, từng bước thì làm sao
họ thấy được những cảnh thù thắng ở trên mây. Còn một người bay trên mây thì
tại sao bắt họ phải xóa tan những thứ gai góc ở dưới đất làm chi? Rõ ràng là
như vậy. Đúng là như vậy.
Xin
thưa với chư vị, “Thiện Căn – Phước Đức – Nhân Duyên”
tất cả ai cũng có cả, tiền bạc chúng ta cũng đều có cả, nhưng người nào khôn
khéo biết dùng niềm tin sâu sắc để gom hết tất cả những thiện căn, phước đức
trong nhiều đời nhiều kiếp lại mà mua một chiếc vé máy bay. Có chiếc vé máy bay
thì hãy lên máy bay mà đi. Còn nếu niềm tin cạn cợt thì không gom tụ được thiện
căn, phước đức đâu. Nhiều khi tiền bạc vẫn có nhiều quá rồi, nhưng nó đang nằm
rải rác khắp nơi. Oan uổng hơn nữa, nhiều khi đã gom đủ tiền, nhưng lại lý luận
rằng, một vật bằng sắt làm sao có thể bay lên không được? Sự suy tư này nghe
qua có vẻ vững chắc quá, nên quyết định dùng số tiền đó mua sắm lương thực dự
trữ để tự lực bước đi… Thôi! Cũng đành chịu khổ vậy!…
Hôm
qua mình nói chuyện “Vạn Pháp Nhân Duyên Sanh” có liên quan đến
vấn đề này. Nhất định chúng ta phải sáng suốt biết lựa con đường nào dễ thành
tựu mà đi!…
Trở
lại chuyện tại sao một vị đó hồi giờ chưa biết tu hành gì nhiều, nhưng khi gặp
lời khuyên, người đó quyết lòng đi, nhất định đi, họ không còn tha thiết gì hơn
nữa cả, mình dám đoán trước sự vãng sanh lên đến chín mươi lăm phần trăm?
Dễ
hiểu thôi! Vì họ có Tín-Nguyện-Hạnh
đầy đủ. Trong đó niềm tin là khởi đầu tất cả.
Như
vậy, chúng ta có tu hành, tu nhiều hơn họ, ngày nào cũng có đi tu… Nhưng có
chắc chắn được vãng sanh không? Xin tự mình hỏi lại rằng, niềm tin đã vững vàng
chưa?
Nếu niềm tin đã vững vàng, thì một câu A-Di-Đà Phật hoàn thành tâm
nguyện đi về Tây Phương Cực Lạc.
Nếu
tin không vững, thì thường phải thêm cái này một chút, thêm cái kia một chút…
Có nghĩa là chúng ta tự tạo thêm chướng ngại cho chính mình, làm cho đường về Tây
Phương Cực Lạc sẽ còn xa vời vợi!…
Vì
niềm tin không đủ, nên phát khởi thiện căn phước đức không được. Từ đó
tâm hồn cứ chập chờn, chập chờn nửa ở nửa đi, làm cho đường đạo tự nhiên bị
nhiều trở ngại! Trở ngại chính vì tại tâm này đã thiếu hẳn niềm tin!…
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ
(Tọa Đàm 27)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Hướng dẫn về Tây Phương, thật ra có lẽ tất cả chúng ta ở đây đều
nắm vững rồi. Hôm nay Diệu Âm xin tổng kết lại những điểm chính trong cách
hướng dẫn bệnh nhân.
Thật ra, mình nói hướng dẫn
bệnh nhân, chứ đúng ra là hướng dẫn đồng tu, tại vì đừng bao giờ đợi cho đến
khi bệnh rồi mới hướng dẫn, đây là điểm đầu tiên chúng ta xin nhắc nhở. Tuyệt
đối đừng bao giờ để cho đến lúc sắp lâm chung rồi mới mời ban hộ niệm, lúc đó
muốn hướng dẫn cũng không hướng dẫn được. Phải lo càng sớm càng tốt.
Trong lúc chúng ta tu như vầy phải
lo chuẩn bị trước. Về “Tín”, về “Nguyện”, về lập “Hạnh”
phải lo trước. Những chuyện liên quan đến tiền bạc, tài sản cũng nên lo trước
đi. Đừng để như trường hợp của chị ở trên Perth, tất cả đều đã sắp sẵn, khá gọn
gàng, nhưng sau cùng chỉ một chút sơ ý, vì người nhà không biết đạo gây điều
phiền não mà suýt nữa là chị phải chịu đọa lạc. Cho nên phải lo liệu trước,
điều này rất quan trọng.
Trong phần “Khai Thị” cho
người bệnh, mấy ngày qua chúng ta có đi hộ niệm mấy lần, mình thấy rõ rệt rằng,
nói là “Khai Thị”, chứ thật ra là tới tâm sự, nói chuyện với người
bệnh một cách hết sức tự nhiên. Có nhiều lúc mình nói rất bình thường, vui vẻ,
thoải mái, cầm tay, vỗ vai như tâm sự với nhau. Đó là cách khai thị tự nhiên,
giống như nói chuyện cho vui. Tư thế của người hộ niệm lúc nào cũng nên vui vẻ,
thoải mái.
Như hôm qua mình nói, điểm quan
trọng nhất chính là “Niềm Tin” của người hộ niệm phải vững.
Khi mà có lòng tin vững vàng, tín tâm của mình vững vàng, thì tự nhiên những
lời nói của mình sẽ vững vàng. Tư tưởng và lời nói của người hộ niệm vững vàng
dễ xóa tan đi những mối nghi ngờ và sự khổ đau của người bệnh.
Ví dụ như thấy người bệnh đang
trong cơn đau đớn, thì mình hãy làm sao biến sự đau đớn thành cái hạnh phúc cho
họ mới là hay. Chứ không nên đến nói như thế này:
– Chị
đau lắm phải không? Thôi ráng lên, ráng niệm Phật nhờ Phật gia trì là hết đau
nghe chị.
Nếu mình nói một câu như vậy,
thì vô tình mình đã làm sai nguyên tắc hộ niệm. Dù người đó có bắt đầu niệm
Phật, nhưng họ cứ cầu A-Di-Đà Phật giúp cho hết đau, cái tâm của họ cứ chìm vào
trong những cơn đau đó… Nghĩ tới cơn đau thì không cách nào hết đau được! Mà khi
tâm họ đã lạc vào trong cơn đau rồi, không còn cách nào có thể vãng sanh Tây
Phương được!
Do đó, thay vì nói vậy, thì
mình nên nói:
– Chị
đau lắm phải không? Đây thật ra là một bài pháp hết sức quý giá đó chị. Phật
nói đời là khổ! Cái khổ đau này chưa thấm thía gì đâu chị! Nếu trong cơn đau
này mà chị không về Tây Phương được, lỡ bị đọa lạc thì chị sẽ còn đau đớn nhiều
hơn gấp vạn lần! Xuống dưới cảnh địa ngục mình bị tra tấn thống khổ không thể
tả được đâu! Bây giờ, đau đớn này là Phật điềm chỉ cho chị đó. Hãy quyết lòng
lên, càng đau chứng tỏ là mình sắp buông xả báo thân, mình sắp về với Phật rồi.
Mừng lên chị! Càng đau càng niệm Phật. Quyết lòng đi về Tây Phương.
Mình nói những lời vững vàng
như vậy thì tự nhiên người bệnh được vực lên. Càng đau người ta thấy càng phải
vững.
– À! Đau như vậy mà mình
chịu không nổi. Nếu giả sử như qua cơn đau này mà mình không về Tây Phương
được, thì mình sẽ còn bị đau đớn gấp bội, chịu sao nổi!
Nghĩ vậy, từ cơn đau đớn này họ
vực khởi lên niệm Phật. Quý vị để ý coi, nếu một người biết khai thị giỏi, một
người biết hộ niệm giỏi, làm cho những người bệnh đau quằn quại trên giường,
nhưng họ không có than đâu à. Họ đau đớn đến quặn người lại, đau đến uốn người
lại, nhưng miệng họ vẫn niệm “A… Di… Đà… Phật”. Lạ lắm! Nghĩa là họ đã quyết lòng đi vãng
sanh. Khi tâm của họ đã mạnh như vậy rồi, mình mừng vô cùng. Đây là những người
rất dễ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Trong những băng đĩa hộ niệm,
quý vị có thể nghiên cứu những cách điều giải, cách khai thị của chị Thu Hương ở
ngoài Đà Nẵng. Chị đó có phương pháp hộ niệm khá hay, có cách khai thị rất vững.
Xin thưa thật rằng, tôi cũng học tập ở chị đó, chứ không phải là tôi giỏi lắm
đâu. Tôi hướng dẫn cho chị hộ niệm, nhưng mà tôi học cách khai thị của chị.
Cách khai thị của chị mạnh. Nhờ mạnh và vững như vậy mới vực cái tâm người ta
lên được.
Khi khai thị cho người bệnh,
chớ nên hỏi người bệnh nhiều quá. Nhưng trong lúc nói chuyện với nhau, đôi khi
ta cũng cần phải hỏi. Nhưng phải nhớ một điều này, lỡ mình hỏi qua mà chỉ cần
một giây sau, hai giây sau mà người bệnh trả lời không được, thì người hộ niệm
phải lo trả lời cho người bệnh liền, phải giải quyết liền cho họ, đừng để họ bị
lúng túng. Nếu làm cho họ lúng túng, thì một là có thể người ta mắc cỡ, buồn
phiền; hai là làm cho tâm người ta bị rối trong những vấn đề đó.
Mong chư vị khi hướng dẫn cho
người bệnh đừng nên đặt ra quá nhiều vấn đề. Đừng nên hỏi bệnh nhân quá nhiều.
Thứ nhất vì sức khỏe của họ yếu lắm, họ cất tiếng trả lời mình không phải dễ
đâu! Giả sử nhiều khi mình sơ ý buông một câu hỏi mà vừa thấy người bệnh ấp a,
ấp úng… thì ngay lập tức mình phải trả lời cho họ liền. Chú ý đừng bao giờ để
cho họ vướng mắc bất cứ một cái gì hết.
Ví dụ như trước đây, tôi đã gặp
một ban hộ niệm đang hộ niệm cho một ông già. Ông già đó thường quên, ngay tuổi
tác của mình ông cũng quên luôn. Ban hộ niệm thấy vậy cứ gặp ông thì hỏi: Bác
ơi! Tuổi bác bao nhiêu?… Hỏi
thử cho vui! Bữa thì ông nói bẩy mươi tám, bữa sau thì ông nói năm mươi tám…
Hỏi cho vui để cùng cười đó mà! Thấy vậy, tôi ý kiến liền. Tôi nói:
– Chư vị không được đùa giỡn
như vậy! Nếu mà ông cụ đã quên cái tuổi của mình, thì cứ để ông cụ quên luôn
đi! Tại sao phải nhắc cho ông cụ nhớ đến cái tuổi làm chi?… Phải giúp
cho ông cụ nhớ câu A-Di-Đà Phật mới tốt.
Cứ nhắc hoài tới chỗ yếu tức là
làm cho ông cụ mắc cỡ! Thật ra, vì tâm trí của ông đã bị mệt rồi, đã mê rồi. Thành
ra, khi vừa gặp mình thì ông đã mắc cỡ rồi! Mỗi lần gặp nhau thì ban hộ niệm
hỏi tới tuổi ông ta. Một lần hỏi là một lần ông nói sai! Mỗi lần trả lời sai
thì bị cười. Bị cười thì mắc cỡ! Thế mà người hộ niệm cứ hỏi hoài. Tôi nói:
– Không bao giờ được quyền
làm như vậy! Làm như vậy, vô tình làm cho ông cụ đó bị vướng trong vấn đề
này, làm cho ông cứ nghĩ mãi đến cái tuổi của mình. Nghĩ mà không nhớ nổi, không biết là tuổi gì?… Tuổi gì?… Tuổi
gì?… Kẹt vào đây, sau cùng rất khó vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Trong vấn đề khai thị, nhiều khi
mình nắm tay người bệnh rất có tác dụng, nhất là những người thường bị chìm
trong những cảnh mộng mị, những cơn ác mộng. Nói chung, có thể là do oan gia
trái chủ, hay bị đau đớn, hoặc thấy này thấy nọ, những người thường bị giật
mình… mình nên nắm tay người bệnh làm cho họ tỉnh táo, tin tưởng. Nên nhớ, lúc
đó họ còn tỉnh mà, còn đang bệnh, chưa phải là chết đâu. Mình nắm tay người
bệnh để niệm Phật giống như “Truyền điện” vậy mà! Thật ra là truyền cái niềm
tin, truyền cái ý chí vững vàng để cho họ an tâm. Chúng ta có thể làm như vậy.
Nhắc với gia đình, nếu như
người bệnh nằm lâu quá thì cũng nên thường xuyên thay đổi tư thế nằm cho người
bệnh. Nên thường nhẹ nhàng xoa bóp, xoa cổ, xoa vùng vai, bóp tay, bóp chân…
Làm vậy người bệnh thích lắm, vừa để tránh lở lưng khi nằm lâu, vừa giúp cho
máu huyết lưu thông, vừa giúp người bệnh tỉnh táo.
Có thể cho người bệnh uống
thuốc bổ, hoặc những gì bổ dưỡng. Nên theo lời khuyên của bác sĩ mà áp dụng.
Nói chung những gì có thể giúp cho người bệnh khỏe lên, đều có thể cho người bệnh
dùng. Bóp tay, bóp chân, xoa đầu, xoa huyệt, v.v… đều có thể áp dụng được để
giúp cho người bệnh được tỉnh táo, thoải mái.
Nên nhớ, ngày giờ ra đi của mỗi
người đã có sẵn, chúng ta không thể nào bắt người ta phải chết đói, bắt người
ta phải chết khát! Không những như vậy, nếu bác sĩ nói, thứ thuốc này bổ dưỡng
giúp cho người bệnh khỏe lên, thì nên cho uống. Nếu người bệnh còn uống được
thì cứ cho uống. Uống thuốc đó làm cho sức khoẻ người bệnh tốt hơn, nhờ thế
người bệnh mới niệm Phật được, nhờ chất thuốc đó người bệnh không bị nhức đầu,
không bị chóng mặt… Người ta sẽ niệm Phật tốt hơn. Chuyện này không có gì
phải e ngại!…
Khi hộ niệm, nên có một ly nước
ở sát bên cạnh. Khi thấy người bệnh liếm liếm môi thì biết là họ đang khát nước,
phải nhỏ một chút nước liền. Khi nào người bệnh không uống được nữa thì thôi.
Đôi lúc người bệnh vì quá yếu không thể uống được, nhưng họ vẫn bị khát, ta nên
dùng miếng bông chấm nước quét quét lên môi. Nếu để ý mình có thể thấy được
người bệnh đang cố gắng mút mút giọt nước đó, nghĩa là họ bị khát nước!
Kinh nghiệm quan trọng lắm. Một
lần đi hộ niệm chúng ta học thêm một kinh nghiệm. Ví dụ như hôm trước chị Chín nói,
có lúc chị thấy trời đất tối mù mịt hết trơn làm cho chị sợ! Thì đây là những
điều mình cần phải chú ý. Thấy người bệnh lo sợ điều gì, mình giải điều đó ra
cho họ.
Có nhiều người sợ con rắn, có
nhiều người sợ con giun, có nhiều người sợ bóng đèn đỏ, v.v… mình cũng cần
phải chú ý tránh những hình tượng đó, đừng để họ gặp phải. Bên cạnh đó, hay
nhất là dụ dỗ, khuyến tấn, động viên tinh thần họ vững lên, đừng nên sợ những
chuyện đó nữa.
Xin thưa rằng, nếu một người sợ
bóng tối chẳng hạn, nhiều khi trong phòng thì đèn mở sáng trưng, nhưng riêng
người đó thì sống trong bóng tối! Lạ lắm!… Một người sợ con rắn thì đến những
giây phút sắp sửa lâm chung thường thấy rắn hiện ra! Những người ganh ghét một
người nào, thì khi sắp sửa nằm xuống thường hay thấy những người đó ứng hiện về
trước mặt!… Những chuyện này, ngày mai chúng ta sẽ mổ xẻ thêm cho tường tận
hơn.
Tốt nhất là bây giờ phải cố
gắng tập có những lời khai thị Vui vẻ! Vững vàng! Dứt khoát!
Có nhiều người khai thị cho
người bệnh mà nói nhanh quá! Nói giống như cái máy vậy! Không hay lắm! Hãy nói
chậm rãi. Nói nhẹ nhàng. Lâu lâu nên pha trò vui một chút, cầm tay chút… Rồi
khi người bệnh đó phát tâm vững vàng thì mình nên vỗ tay khen thưởng họ. Đây
chỉ là những phương tiện thiện xảo, thật ra là những thủ thuật thôi chứ không có
gì là đặc biệt hết, nhằm giúp cho người bệnh vui vẻ lên, giúp cho họ thấy cái
chết như là một ân huệ. Nhờ vậy mới thoát được sự khủng bố mà an lành niệm Phật
cầu nguyện vãng sanh, giải thoát.
Tóm lại, tất cả chúng ta ở đây
ai cũng có khả năng khai thị được rồi. Trong những lần hộ niệm tới mong chư vị
lần lượt đứng ra đảm trách điều hành các cuộc hộ niệm, để khi chính trong gia
đình mình nếu gặp một trường hợp phải hộ niệm, mình có thể đứng ra xử lý một
cách gọn ghẽ, đừng để sơ suất mà chính người thân của mình bị thiệt hại vì sự sơ
ý trong vấn đề khai thị này.
Mong
chư vị phát tâm cứu độ chúng sanh.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 28)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Cái
điểm tối quan trọng mà chúng ta cần lưu ý về “Khai Thị” trong
pháp hộ niệm là làm sao gây được “Tín Tâm” vững vàng cho bệnh
nhân. Gây được cái tín tâm vững vàng cho họ thì coi như tất cả những gút mắt
sau đó sẽ được hóa giải dễ dàng.
Ngày
hôm qua, trên Internet có một vị hỏi như thế này:
– “Cha tôi đã già rồi, bây giờ tụng kinh nào để
cho một người già được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc?”…
Diệu
Âm trả lời rằng, không có tụng kinh nào để cho một người được vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc hết, chỉ có niệm câu A-Di-Đà, với Tín-Nguyện-Hạnh
đầy đủ thì được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Cách
đây gần bốn tháng, khi Diệu Âm đi qua tây Úc, thì có duyên gặp một vị bị ung
thư, chính là Phật tử Đặng Hồng Khanh. Nhờ chư vị giới thiệu, Diệu Âm tới thăm,
gặp chị này đang ngồi trên cái ghế bành, ôm chiếc gối, mặt thì xanh mét, nói
không ra lời, và đang trong cơn đau đớn! Chị bị ung thư! Chị đó cũng có hỏi:
– Bây
giờ tôi phải trì tụng kinh nào để được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc?
Thì
Diệu Âm cũng nói là:
– Chỉ có một câu A-Di-Đà Phật niệm ngay từ bây
giờ, cho đến ngày chị tắt hơi ra đi, thì chị có hy vọng vãng sanh về Tây Phương
Cực Lạc, chứ không có kinh nào giúp cho chị vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc hết.
Chị
đó, như mình đã biết qua, là một gia đình Thiên-Chúa giáo, nhưng chính chị còn
giữ được niềm tin Phật giáo. Nhờ vậy nên có cơ may gặp người khuyên nhủ, chị phát
khởi lòng tin vững vàng và quyết thề niệm một câu A-Di-Đà Phật để vãng sanh.
Xin thưa thật, nếu lúc đó mà chị đó còn đòi hỏi tụng cái này, tụng cái nọ, niệm
cái này, niệm cái nọ… thì chắc rằng sau đó Diệu Âm không dám can đảm bỏ năm
ngày công phu ở đây đi qua bên đó, cách xa bốn ngàn cây số để hộ niệm cho chị
ta đâu.
Khi đi
hộ niệm cho chị, mình mới thấy cái lòng tin của chị vững như tường đồng, vách
sắt. Mình thì nói qua đó khai thị cho chị, nhưng thật ra chính chị đó đã khai
thị cho mình. Nhờ niềm tin vững vàng nên chị ta chuyên nhất… Hồi giờ chưa
biết tu, bây giờ gặp phải một câu A-Di-Đà Phật, chị cứ vậy mà niệm, quyết lòng
đi. Chính chị đã đạt được một thành quả bất khả tư nghì! Đây chính là một lời
khai thị sắc bén cho chúng ta.
Không
biết là khi nghe đến những chuyện này, trong đồng tu chúng ta có vị nào phát
khởi niềm tin vững vàng vào câu A-Di-Đà Phật hay không? Vì đây là cái mấu chốt
để cho chúng ta san bằng tất cả những ách nạn mà mình có thể gặp phải.
Thường
thường cái tâm của chúng ta nó nhảy lăng xăng giống như một con khỉ! Cái ý của
chúng ta nó chạy khắp nơi giống như con ngựa! Phật gọi là “Tâm Viên Ý Mã”.
Sở dĩ tâm viên ý mã là vì ta thiếu một niềm tin! Thiếu niềm tin thì cái tâm của
chúng ta không có chỗ định, cái ý của chúng ta không có chỗ dựa, tâm ý thường phân
vân, chao đảo!
Ngài
Liên-Trì Đại Sư khi ngộ ra được đường đạo, Ngài nói như vầy: “Tam
tạng thập nhị bộ, ai muốn ngộ cứ ngộ. Tám vạn tứ thiên hạnh, ai muốn hành cứ
hành. Còn ta thì một câu A-Di-Đà Phật”. Ngài đã nói như vậy. Ba
tạng kinh điển, mười hai phần giáo, ai muốn ngộ thì cứ nghiên cứu mà ngộ đi.
Tám mươi bốn ngàn pháp môn tu, ai
muốn tu thì cứ tu đi. Còn Ngài thì một câu A-Di-Đà Phật, bốn chữ, Ngài thành
đại Tổ Sư.
Không biết rằng khi nghe lời khẳng định của Ngài, chư vị
có ngộ ra đường vãng sanh Tây Phương Cực Lạc chưa?
Có nhiều người tu…
– Thấy người ta niệm Phật, mình cũng tới niệm Phật.
– Thấy vị kia tu Thiền, thì
mình cũng lo kiếm một câu thoại đầu để trì giữ.
– Thấy vị nọ trì Chú, thì
mình cũng nhào vô trì Chú.
– Thấy người nọ tu Khổ
Hạnh, thì mình cũng bắt chước ôm bình bát…
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói: “Việc việc không
xong, sự sự không thành. Đây là điều
đáng thương nhất của người học Phật!” Nhất là thời mạt pháp này.
Ngài nói một câu A-Di-Đà Phật…
– Bao gồm ba tạng kinh điển trong đó.
– Bao nhiêu tế hạnh cũng
bao gồm trong đó.
– Hàng ngàn công án cũng
bao gồm trong đó.
– Tất cả tông phái cũng bao
gồm trong đó luôn.
Một vị đại Tôn Sư nói như vậy đó. Khi nghe Ngài nói vậy,
không biết mình giữ vững niềm tin vào câu Phật hiệu A-Di-Đà hay chưa?…
Ngài Tịnh-Không nói: Có nhiều người ưa lý luận, có
nhiều người ưa nói cao siêu, có nhiều người thích nghiên cứu đủ các pháp. Diễn
giảng thì hay lắm! Nhưng chúng ta biết rằng nhất định người đó không phá
được nghiệp hoặc. Mà không phá được nghiệp hoặc, thì nhất định phải theo nghiệp
thọ báo. Bây giờ đây thì nói hay lắm, được nhiều người khen, nhưng coi chừng sẽ
thua một bà già lão lão thật thật niệm Phật. Bà già đó một đời vãng sanh về Tây
Phương thành đạo. Khi thành đạo rồi thì bà đó mới trở về đây, cứu độ những
người ưa nghiên cứu, tâm ý mông lung, đi không có đường. Ngài nói như
vậy!…
Khi chúng ta nghe như vậy, không biết là ngộ được chưa?
Nếu còn chưa ngộ, thì hãy lấy cái gương của chị Đặng Hồng Khanh ở bên Perth mới
vừa vãng sanh đây. Chị đó thật sự là một người hoàn toàn không biết gì cả, chỉ
biết rằng mình bị ung thư, đã đến con đường cùng rồi, chỉ cần khi nghe một câu
A-Di-Đà Phật, không còn tha thiết cái gì khác nữa, lão lão thật thật niệm câu
A-Di-Đà Phật. Nhất định như vậy. Sau cùng chị vãng sanh bất khả tư nghì!
Tất cả những chuyện này là bài pháp tuyệt vời, là một sự
khai thị tuyệt vời để cho chúng ta khẳng định đường đi, để cho chúng ta nhất
định được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Một là tất cả. Tất cả là một.
Nhiều người ưa nghiên cứu khắp nơi, muốn tìm hiểu đủ thứ,
muốn tất cả những thuật ngữ nào cũng đều hiểu cho thấu đáo… Nhưng tại sao
không hiểu được một câu hết sức đơn giản mà Phật đã nói cho chúng ta: “Một là tất cả. Tất cả là một”.
Tại sao không chịu hiểu câu này? Nếu muốn ngộ, hãy ngộ
ngay câu này đi, thì tự nhiên ta thấy đường thành tựu đang ở ngay trước mắt.
Không xa!…
“Một” là sao?… Là chuyên nhất một đường mà đi. Một câu danh hiệu A-Di-Đà Phật
mà niệm thì sau cùng chư vị sẽ có “Tất Cả”. Còn nếu sơ ý đi theo đường “Tất Cả” để
trở về “Một”, thì xin thưa thẳng rằng, nhiều khi mình tu suốt đời, tu
đến vô lượng kiếp nữa cũng chưa chắc gì đạt được một phần ngàn của cái “Tất
Cả” mà Phật đã nói đâu!… Xin hỏi, muốn được tất cả, mà không đạt được tất
cả, thì mình sẽ đạt được cái gì?… Chắc chắn sẽ tiếp tục trong vô lượng kiếp
nữa để tu hành! Mà phải tinh tấn tu hành nhé, chứ không phải tiến-lùi,
tiến-lùi… mà đạt được đâu!…
Tất cả đều có đạo lý của nó. Nếu chúng ta quyết định một
câu A-Di-Đà Phật mà đi, tức là chúng ta đi con đường “Một” để được “Tất
Cả”. Làm sao để được?… Niệm một câu A-Di-Đà Phật thì ta vãng sanh về Tây
Phương Cực Lạc. Vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thì ta thành đạo. Thành đạo thì
ta có tất cả. Nếu bây giờ ta muốn có “Tất Cả”, thì ở tại cõi ta bà này
nhất định cái tất cả mà chúng ta tìm được đó, xin thưa thẳng rằng: Huyễn
Mộng! Vô Thường! Không có gì là thật cả! Vậy xin hỏi rằng, làm sao chúng ta
có thể trở về được cái “Một” để thành tựu?…
Cho nên, “Một” chính là một câu “A-Di-Đà Phật”. Thành
tựu tại cõi Tây Phương là trở về cái Chân Tâm Tự Tánh của mình. “Hà kỳ tự tánh, bổn lai cụ túc”.
Đúng là trở về được cái Chân Tâm thì ta có “Tất Cả”.
Một câu A-Di-Đà Phật mà đi. Thành tựu Vãng Sanh thì sẽ có
tất cả vậy.
Nam Mô A Di Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 29)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Hôm
nay tiếp tục trở lại chuyện hộ niệm. Hôm trước chúng ta có nói đến chỗ người
bệnh đang trong cơn hấp hối. Thường thường trong cơn hấp hối, thì người bệnh
thở dốc, tức là người ta không thở bằng mũi nữa, mà phải há miệng ra để thở.
Người ta thở từng cơn, từng cơn một, chứ không thở liên tục đều đặn như chúng
ta và một lần họ thở như vậy có vẻ khó lắm! Nhìn thấy mình biết liền.
Trong
lúc người ta thở như vậy, có nhiều người kéo dài khoảng chừng vài phút, có
nhiều người ba bốn chục phút, cũng có nhiều người phải trải qua ba bốn giờ…
Người
hộ niệm chúng ta thấy như vậy là bắt đầu phải khai thị, hướng dẫn cho họ biết
liền. Thường thường là người trưởng ban hộ niệm nên nhắc nhở cho người bệnh
biết là họ sắp sửa rời bỏ báo thân rồi, nên nói với họ:
– Bác hãy bình tĩnh, vui vẻ, mừng lên, vì đây là
cơ duyên mà bác đã chờ trong bao nhiêu ngày tháng qua, bây giờ vững vàng, tin
tưởng, nhiếp tâm lại, niệm Phật theo đồng tu.
Nhắc
nhở cho họ là luôn luôn nghĩ đến A-Di-Đà Phật, niệm A-Di-Đà Phật, tất cả những
cảnh giới gì hiện ra trong lúc đó, cứ tự nhiên, không cần để ý đến, cứ lo niệm
Phật.
Trong
lúc này, nếu thấy người bệnh nằm sát mé giường quá, thì mình lo sửa giùm cái
thân người ta trước đi. Nhẹ nhàng. Nằm với cái giường của bệnh viện cho mượn
thì đơn giản lắm, không sao. Còn nằm cái giường riêng ở nhà, nếu mà họ nằm sát
mé quá, thì lúc tắt hơi ra đi có thể họ ưỡn mình hay sao đó, đôi lúc lỡ lọt
xuống dưới giường, thì cũng kẹt lắm! Cho nên, trong giờ phút này, nếu mình nghĩ
rằng người bệnh có thể sớm ra đi, thì nên nhẹ nhàng chuyển họ vô giữa giường.
Trong lúc chuyển nên nhắc nhở cho họ quyết tâm tranh thủ từng hơi thở để niệm
Phật. Có thể khai thị như vầy:
– Bác
Trần văn X ơi! Cố gắng niệm Phật theo chúng con nhé.
Lúc này
chúng ta không nên niệm Phật theo âm điệu nữa, mà nên niệm từng tiếng, từng
tiếng thật rõ ràng. Diệu Âm đề nghị có hai cách niệm có thể ứng dụng được trong
lúc đó:
Một
là nếu họ thở quá chậm, thì cứ một chu kỳ họ hít vô rồi thở ra thì ta niệm “A.. Di.. Đà.. Phật”. Rõ ràng. Đừng nên niệm nhanh
quá, cũng đừng nên niệm theo âm điệu “A-Dí-Đà Phật. Á-Dí-Đà Phật”nữa.
Không tốt lắm.
Có những người hắt
hơi ra mà nhanh hơn một chút, thì ta có thể niệm như vầy: Mỗi một câu hắt hơi niệm một tiếng “A”, rồi một câu hắt hơi niệm một tiếng “Di”, một câu hắt hơi niệm một tiếng “Đà”, một câu hắt hơi niệm một tiếng “Phật”… Nương theo hơi thở người ta. Hai cách này là hay nhất vì người
bệnh có thể nương theo mình mà niệm theo được.
Ví
dụ như, nếu họ thở hơi ra: “Hà-à… Hà-à…” (Cỡ hai giây một cái hắt hơi ra) thì
cứ một lần hắt hơi mình niệm cho họ một tiếng “A…”, rồi
một tiếng “Di…”, rồi một tiếng “Đà…”, rồi
một tiếng “Phật…”. Tất cả đều niệm thật là đều, thật là mạnh như
vậy, để cho người đó niệm theo.
Cũng
có những người bệnh, người ta thở chậm lắm, thì mình cũng nên nương theo hơi
thở mà niệm trọn câu. Người ta hít vô rồi thở ra một cái, ta niệm “A.. Di..
Đà.. Phật”, “A.. Di.. Đà.. Phật”. Tại
vì chậm nên thời gian đủ cho người ta niệm bốn chữ. Có thể lấy hai cách này mà
ứng dụng.
Trong
khi đồng tu tiếp tục niệm mạnh, thì người trưởng ban hộ niệm chắp tay lại thành
tâm khấn nguyện, cầu xin chư vị hữu duyên trong pháp giới. Nói chung, nếu là
những vị thuận duyên, thì mình khấn nguyện, khuyên họ nên thành tâm niệm Phật
để trợ duyên cho Phật tử Trần văn X… Nếu là chư vị oan gia trái chủ, nói
chung là những vị nghịch duyên, thì mình cũng khấn nguyện với chư vị:
– Cầu
xin chư vị đừng nên cản trở con đường vãng sanh của Phật tử này. Ngưỡng mong
chư vị xóa bỏ tất cả hận thù, cùng nhau kết duyên lành với người này, giúp đỡ
cho người này vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Thì đây là công đức vô lượng vô
biên để cho chư vị được an lành, nhờ công đức này mà chư vị cũng được thiện lợi
sau này.
Tổng
quát, trong giờ phút này cần khuyên nhắc người bệnh niệm Phật. Cứ chừng mười
lăm hay hai mươi phút thì người trưởng ban hộ niệm nên nhắc cho người bệnh:
– Bác
Sáu ơi! Cố gắng tranh thủ từng giây niệm Phật. Kiên cường, vững mạnh nhé. Có tụi
con đang ở chung quanh Bác hộ niệm đây. Vững vàng!… Có quang minh chư Phật
đang phổ chiếu tại đây. Mau mau nhiếp tâm niệm niệm Phật để theo A-Di-Đà Phật
về Tây Phương Cực Lạc.
Nên
nhớ cho kỹ là phải luôn luôn nhắc đến câu “A-Di-Đà Phật”, đừng nên nói
chữ Phật không. Nói trổng trổng sẽ không tốt! Người hộ niệm thường chắp tay,
khẩn cầu A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ. Khi khẩn cầu Phật tiếp độ xong, thì liền
sau đó nên khẩn cầu chư vị pháp giới cùng hộ niệm. Đây là nhiệm vụ của người
trưởng ban hộ niệm.
Trong
những giờ phút này, nên khuyên con cháu, thân nhân trong gia đình đồng lạy
Phật. Nên dành một chỗ nhỏ nhỏ để lạy Phật. Nếu phòng chật quá thì có thể ra
phòng ngoài lạy cũng được, không sao. Ví dụ như mình hộ niệm trong phòng này, và
người nhà lạy Phật ở phòng kế bên cũng được, không sao. Nói với tất cả người
trong gia đình cùng lạy Phật, cầu Phật phóng quang tiếp độ. Đây là những điều
nên làm.
Người
trưởng ban hộ niệm trong những giây phút này phải chú tâm theo dõi động mạch cổ
của người bệnh, vì có thể người ta ngưng hơi thở bất cứ lúc nào. Nếu mà người
ta ngừng thở, ví dụ như họ đang thở hắt hơi… hắt hơi như vầy, rồi người ta
ngưng lại khoảng chừng một phút, mình chưa vội gì quyết định, vì nhiều khi
người ta ngừng thở ba mươi giây, rồi họ tiếp tục thở lại, lạ lắm! Lúc đó mình
vẫn tiếp tục nhắc:
– Bác
Sáu ơi! Bác Chín ơi!… Giờ phút ra đi đã sắp tới rồi. Hãy kiên cường, dũng
mãnh, vui vẻ lên, niệm Phật theo chúng con. Quyết đi theo A-Di-Đà Phật. Nhớ
nhé! Giờ đây chỉ còn niệm A-Di-Đà Phật. Quyết buông hết tất cả.
Nói
những lời đại ý giống giống như vậy. Khi thấy người đó ngưng hơi thở, cỡ chừng
hai phút, tức là biết chắc đã buông báo thân rồi, thì lúc đó người trưởng ban
phải khai thị cho họ, nói lớn một chút:
– Bác
Trần văn X… (Hay là) Phật tử Trần văn X, pháp danh Y, giờ phút xả bỏ báo thân
đã đến rồi. Thân xác vô thường thật sự đã bỏ rồi, giờ phút này là tối quan
trọng để đi về Tây Phương Cực Lạc, nhất định tất cả mọi hiện tượng gì xảy ra
trong lúc này đừng để ý tới. Nhiếp tâm lại niệm A-Di-Đà Phật, theo quang minh
của A-Di-Đà Phật về Tây Phương. Phật tử nhìn đây là ảnh tượng của A-Di-Đà. Chỉ
được theo A-Di-Đà Phật, vị giống như ảnh tượng này để về Tây Phương. Ngoài ra
không được theo bất cứ một vị nào khác nào hết.
Mình
nói rõ ràng. Lúc đó hãy niệm “A.. Di..
Đà.. Phật” mạnh lên. Tất cả niệm niệm đều đều như vậy.
Niệm mạnh lên! Có thể trong giờ phút này mà có được khoảng chừng hai mươi
người, ba mươi người cùng nhau niệm Phật rất là tốt.
Khai
thị xong rồi, thì đứng lên nhẹ nhàng chuyển cái ghế ra xa một chút. Cẩn thận
đừng để gây ra tiếng động. Thật ra, khi người bệnh bắt đầu thở dốc, thì mình đã
chuẩn bị chuyển những cái ghế ra xa một chút, chỉ còn có một người đại diện
đứng gần hơn để khai thị nhắc nhở mà thôi. Những chiếc ghế cách xa người lâm
chung cỡ hai thước, hay một thước rưỡi cũng được, tùy theo cái phòng. Đừng nên
ngồi sát bên thân xác quá không tốt. Cần giữ một khoảng cách tối thiểu và chúng
ta thành tâm bắt đầu niệm Phật.
Trong
những giờ phút này, những người hộ niệm có thể đứng lên chắp tay niệm Phật cho
có lực mạnh hơn. Cỡ chừng mười lăm phút, thì người trưởng ban hộ niệm lại tiến
đến gần bên một chút, cúi xuống nhắc lại thêm một lần nữa, nói không cần lớn
lắm.
– Phật
tử Trần văn X, nên nhớ rằng, thật sự đã buông xả báo thân rồi. Nhất định không
được lưu luyến cái thân. Nhất định không được lưu luyến gia đình con cháu. Nhất
định phải nhiếp tâm lại niệm câu A-Di-Đà Phật. Giai đoạn này vô cùng quan
trọng. Đừng sơ ý, đừng phân tâm mà lỡ luống qua cơ hội này thì ngàn vạn kiếp
sau bị khó khăn! Quyết tâm đi về Tây Phương. A-Di Đà Phật đang phóng quang tới
đây, mau mau theo A-Di-Đà Phật để về Tây Phương Cực Lạc nhé.
Nói rõ ràng như vậy
rồi tiếp tục niệm Phật. Khi niệm Phật khoảng chừng được ba mươi phút, thì ra
dấu tất cả mọi người ngừng lại một chút để mình khai thị nhắc nhở tiếp. Sau lần
nhắc nhở này mình có thể đổi cách niệm theo
tông điệu thường niệm để mọi người cảm thấy thoải mái hơn, dễ nhiếp tâm hơn, vì
niệm mạnh như khi vừa tắt hơi bị tổn sức nhiều, niệm lâu không nổi.
Ngày
mai chúng ta sẽ tiếp tục nói thêm về việc phải làm gì trong khoảng thời gian
hấp hối và tắt hơi, chương trình khai thị sẽ đi vào cụ thể hơn, để chúng ta
giúp người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 30)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Hồi
sáng này, Diệu Âm có được một người ở bên Đức điện thoại qua, Diệu Âm có hỏi thử
bên đó mấy giờ rồi? Vị đó nói bây giờ là mười hai giờ khuya. Diệu Âm mới hỏi,
tại sao anh thức khuya vậy? Thì anh đó nói rằng, hằng đêm, tôi phải thức đến
một giờ sáng để chờ nghe những bài nói chuyện về hộ niệm của anh gửi lên
Internet.
Nghe
nói như vậy làm cho Diệu Âm rất là cảm động! Vị đó là một người phát tâm hộ
niệm khắp Âu Châu. Anh ta đã có những thành tựu rất đáng kể trong những năm
qua. Tinh thần của anh khá khiêm nhường và đã học hỏi về hộ niệm rất cặn kẽ. Diệu Âm nghĩ rằng vị này chắc chắn sẽ là một người hộ
niệm lừng danh trong tương lai. Tất cả những người hộ niệm giỏi ở Việt Nam nổi
tiếng hiện giờ, hầu hết đều có cái đức hạnh này. Thật sự là đáng quý.
Hộ
niệm để cứu huệ mạng của một người, không phải là đơn giản. Nhiều người sơ ý
tưởng là dễ nên vô tình cứ vấp phải những lỗi hết sức là đơn giản nhưng đối với
phương pháp hộ niệm lại là tối quan trọng, vì cứ một lần sơ suất như vậy là một
người mất phần vãng sanh. Nếu không thay đổi mà tiếp tục như vậy thì chắc rằng sẽ còn có người bị nạn vì sự sơ suất của
mình.
Cho
nên khi hộ niệm, xin chư vị cố gắng chú tâm vì đây là pháp cứu cả huệ mạng của
một người chứ không phải chỉ cứu một người hết bệnh. Cứu huệ mạng rất là quan
trọng!…
Trở
lại chuyện khai thị cho những người trong những lúc hấp hối, tắt hơi. Khi mà
mình thấy một người đang trong cơn hấp hối, tức là họ có thể ra đi bất cứ giây
phút nào, thì người trưởng ban hộ niệm cũng cần phải chú ý nhạy bén đến điểm
này, là coi thử người thân trong gia đình, có người nào dễ rơi nước mắt hay
không? Có người nào dễ cảm động hay không?
Trong
lúc hộ niệm, nếu thấy có người ưa khóc, ưa mủi lòng thì chúng ta phải chú ý,
trong những giây phút đó phải cố gắng tìm cách kéo người đó ra khỏi hiện
trường. Nên nhớ cho, ban đầu thì người ta hứa với mình là họ vững lắm, nhưng
khi thấy người thân vừa tắt hơi, nhiều khi họ cầm lòng không được. Vì quá đau
khổ, có thể họ nhào vô ôm lấy cái thân, hoặc là kêu khóc lên… Đây là điều tối
kỵ trong pháp hộ niệm.
Mình
đã biết rằng trong những giây phút hấp hối, tắt hơi, điều tối kỵ cho người ra
đi là bị đụng chạm vào thân thể, bị con cái khóc la kêu réo, làm cho tâm thần của
người ra đi bị dao động. Nếu một người chưa biết tu, chưa từng được hướng dẫn
qua hộ niệm, gặp phải những cảnh ngộ này thì chắc chắn rất khó có thể cứu được
họ.
Một
ví dụ như ở bên Perth, người đó đã được khai thị, được hướng dẫn rất cụ thể,
rất vững, dù rằng người đó hồi giờ chưa biết tu. Thật ra là Diệu Âm đã gặp
trước vị này trong những ngày qua bên Perth, có nói chuyện qua và cũng giải tỏa
rất nhiều, tinh thần chị đó cũng rất vững. Nhưng trước những giờ phút ra đi,
chỉ cần một sự phiền não xảy ra, như mình đã thấy, một
chút nữa là chị có thể phải chịu cảnh đọa lạc! Khi đọa lạc rồi… Chỉ nghĩ tới
thôi mà cũng muốn rợn tóc gáy!… Vì thế, khi hộ niệm, chúng ta phải hết sức
sáng suốt và nhạy bén trong vấn đề này.
Những
người hộ niệm mà có tâm từ bi quá cao, quá lớn, nhiều khi cũng không tốt! Ví dụ
như có người hộ niệm cho bệnh nhân, khi thấy bệnh nhân có những chướng ngại, mất
vãng sanh, thì chính người hộ niệm lại khóc, lại than, lại có những động tác tỏ
ra vô cùng bức xúc, đau khổ!… Xin thưa thẳng rằng, hiện tượng này cũng không
tốt! Tại vì tâm trạng này có thể ảnh hưởng đến người ra đi, mà sau cùng cũng có
thể ảnh hưởng đến chính mình nữa. Đây là điều không tốt!
Khi đi
hộ niệm, một người được vãng sanh là do phước phần của họ, mà không được vãng
sanh cũng là do phước phần của họ. Riêng nhiệm vụ của mình là nghiên cứu cho
thật kỹ, áp dụng cho thật đúng, đừng có để xảy ra sự sơ suất, đó là tròn nhiệm
vụ của mình rồi, chứ không phải là hộ niệm cho bất cứ một người nào thì người
đó cũng được vãng sanh hết.
Nên
nhớ, chỉ khi người bệnh có đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh thì mới được vãng
sanh. Những người bệnh mà không có “Tín”, không có “Nguyện”,
không có “Hạnh” đầy đủ
thì đó là do phước phần của họ. Thiện căn phước đức của họ không đủ đó là duyên
phần của họ, chứ không phải mình. Mong chư vị chú ý chỗ này để tránh những
chuyện không tốt xảy ra cho người bệnh và làm cho tâm hồn của mình bị phiền
não, âu sầu. Đây là điều cũng không hay.
Trở
về vấn đề khai thị, hướng dẫn cho người bệnh trong những giây phút buông xả báo
thân. Hôm qua thì mình nói tới chỗ là trong ba mươi phút sau khi người bệnh
buông bỏ báo thân, tức là lúc đó mình nói tất cả mọi người ngưng lại để mình
khai thị cho người bệnh một chút. Thì thường thường Diệu Âm hay nói như thế
này:
– Phật tử Trần văn X…, pháp danh Y… bây giờ đã
ba mươi phút xả bỏ báo thân. Trong giờ phút này thật sự là một bài pháp rất là
thấm thía cho Phật tử. Rõ ràng là mình đã bỏ cái báo thân, là mình đã bỏ cái
cục thịt nhơ bẩn vô thường của thế gian, nhưng chính Phật tử còn đang sống, còn
đang nghe… Như vậy rõ ràng Phật tử không có chết. Trong giờ phút này mà còn ở
tại đây tức là bị trở ngại! Hãy mau mau nhiếp tâm lại, một câu A-Di-Đà Phật mà
niệm, quyết lòng theo A-Di-Đà Phật…
Khi nói
tới đó, mình thường chỉ tay về hướng ảnh tượng đức A-Di-Đà.
– Phật
tử phải nhiếp tâm lại niệm Phật để theo A-Di-Đà về Tây Phương Cực Lạc. Nhất
định đừng chao đảo, đừng luyến lưu, đừng phân tâm, đừng để bất cứ một điều gì
chi phối mà quên lãng con đường về Tây Phương.
Nói
cho rõ ràng, sau đó thì mình mời:
– Bây giờ xin Phật tử nhiếp tâm lại, niệm Phật
đi theo A-Di-Đà Phật.
Nói
đại khái như vậy…
Từ
lúc tắt hơi đến giờ phút này mình niệm “A..
Di.. Đà.. Phật” khá mạnh.
Thường thường cách niệm này dễ làm cho người hộ niệm bị khan cổ lắm nên niệm lâu không được. Cho nên mình trở lại cách niệm bình thường,
ví dụ như cách niệm bốn chữ năm câu, (cách niệm với địa chung), cách này rất là
hay, nó có cái lực mà tất cả mọi người đều niệm nhanh và niệm mạnh được. Vậy thì
mình có thể bắt lại cách niệm này: “A-Dỉ-Đà Phật,… A-Di-Đà Phật…”, bắt
mạnh lên, chậm một chút nhưng mạnh lên, thì tất cả mọi người đều hùa nhau cùng
niệm theo rất là mạnh.
Thường
thường trong vòng khoảng chừng hai tiếng đầu từ khi tắt hơi, nếu là những người
mà trước đó đã được khai thị vững vàng rồi thì chúng ta không cần phải khai thị
nhiều nữa, cỡ chừng ba mươi phút mình nhắc một chút là được. Nhưng với một
người hồi giờ chưa biết hộ niệm, ít được khai thị, thì có thể là từ mười lăm
hay hai mươi phút, người trưởng ban nên hướng dẫn một lần. Trong lúc hướng dẫn
như vậy thì mình mời các vị đồng tu cứ niệm Phật đều đều, còn mình thì chấp tay
lại khai giải với bệnh nhân.
Ví
dụ như Diệu Âm đưa ra những cách khai thị mẫu:
– Nam
Mô A-Di-Đà Phật, hương linh Trần văn X… Đời này vô thường, sống tạm, ta lìa
báo thân thì về Tây Phương thành đạo. Phật dạy: Chân tâm tự tánh của ta là
Phật, là Phật thì mau mau giác ngộ, bỏ hết tất cả những cái gì vô thường, theo
A-Di-Đà Phật để thành đạo. Nếu ngay từ bây giờ mà không ngộ ra, còn luyến lưu
chuyện này, luyến lưu chuyện nọ, thì vô lượng kiếp phải chịu trầm luân. Đây là
một cơ hội vô cùng quý giá quyết định vạn kiếp trong tương lai, nhất định phải
sáng suốt, nhất định phải buông vạn duyên xuống để niệm câu A-Di-Đà Phật đi về Tây Phương. Trong những
giây phút này, tuyệt đối không để ý gì đến những cảnh giới chung quanh. Nhiếp
tâm lại, đừng có ngại, có chúng tôi bảo vệ đây, có chúng tôi niệm Phật, có
quang minh của Phật ở tại đây, niệm A-Di-Đà Phật, tất cả đều được an toàn theo
A-Di-Đà Phật về Tây Phương.
Cứ
nhắc
nhở đại khái như vậy. Cỡ chừng hai mươi phút,
mình phải nhắc lại nữa. Người khai thị là người trưởng ban luôn luôn theo dõi
từng chút từng chút sự chuyển biến trên khuôn mặt người ra đi. Nếu một người
đang vướng cái gì đó mà khai thị đúng chỗ, thì có thể mình thấy ngay hiện tượng
là nét mặt của họ chuyển liền, chuyển lạ lắm. Có nhiều trường hợp chuyển rất
nhanh.
Khi thấy
những trường hợp chuyển nhanh như vậy thì mình mừng, an tâm hơn, vì mình đã
khai đúng chỗ. Còn khi thấy hiện tượng xấu, mình khai giải mà không chuyển biến
nhiều lắm, thì có thể cứ để mọi người hộ niệm tiếp tục niệm Phật, còn mình lặng
lẽ gọi người thân nhân ra chỗ xa xa để hỏi thêm, nhiều khi có thể phát hiện
thêm những chướng ngại khác.
Thôi
thời gian cũng đã hết rồi. Ngày mai, chúng ta sẽ tiếp tục nói về giai đoạn này,
rất là quan trọng để cứu người. Mong chư vị cố gắng lắng nghe để khi đối diện
với thực tế, chúng ta sáng suốt cứu người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 31)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Mình bỏ một cái thân
thì giống như mình liệng một chiếc áo, rồi mình thọ một cái thân khác cũng
giống như mình mua một chiếc áo mới. Nếu hiểu được chút đạo ra thì rõ ràng chỉ
là như vậy, chứ không có gì khác mấy…
Người không hiểu đạo
khi bỏ một cái thân thì họ tiếc rẻ, đau buồn!… Vô tình chiếc áo rách nó gói
cả cái huệ mệnh của mình, mình phải chịu đau khổ! Mình mạnh dạn liệng cái áo cũ
để lấy cái áo mới, thì mình không làm con rệp nấp trong cái áo cũ đó, mà mình
hưởng sự thoải mái trong một cái áo mới tốt hơn…
Nếu chúng ta biết tu
thì mỗi đời ta có mỗi cái thân tốt đẹp hơn. Nếu không biết tu, đời này ta làm
người, nhưng khi bỏ chiếc áo người này ta lại mặc chiếc áo thú vật, chiếc áo
ngạ quỷ, chiếc áo địa ngục… vô cùng đau khổ! Người biết niệm Phật thật sự thì
khi liệng chiếc áo của lục đạo luân hồi này ta đi lượm chiếc áo của chư Thánh
Chúng, của chư Phật, màu sắc óng ánh, có quang minh, có trí huệ. Tốt hơn nhiều.
Cho nên người mà biết
đạo một chút thì đứng trước cái chết họ an nhiên tự tại. Vì an nhiên tự tại như
vậy nên họ thành đạo dễ lắm.
Ngày hôm qua chúng ta
nói về hộ niệm, thì hộ niệm là một cái pháp cứu độ huệ mạng của chúng ta, chứ
không phải là giải quyết cái chuyện bệnh hoạn hay nhằm vá chấp chiếc áo cũ.
Mình biết hộ niệm thì mình thấy được con đường vãng sanh trước mắt, mình thực
hiện dễ dàng. Người thân của mình mà biết hộ niệm thì mình hộ niệm cho người
thân của mình rất dễ. Nếu người thân của mình không biết hộ niệm, thì xin thưa
thật, khi mà sự cố đã xảy ra cho người thân, mình hộ niệm cho họ cũng khó khăn
vô cùng!
Chính vì vậy mà trong
những thời gian qua Diệu Âm tha thiết rằng, làm sao chúng ta phải vận động phương
pháp hộ niệm cho rộng rãi để nhiều người biết cách hộ niệm, có được vậy thì ta
sẽ cứu được nhiều người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Một bằng chứng cụ thể
là cách đây chưa tới hai tuần một vị ở tại tây Úc, trước đó không biết gì cả,
lại là một gia đình Thiên-Chúa giáo, ấy thế mà khi gặp phải bệnh ung thư mới
hoảng kinh hồn vía lên! Trong lúc than thở u buồn như vậy, vô tình lại gặp được
những người hộ niệm, người ta hướng dẫn cho niệm Phật. Khi Diệu Âm tới đó cũng
may mắn gặp được và khuyên bảo. Chị đó đã quyết lòng niệm Phật, bốn tháng thôi,
một câu A-Di-Đà Phật mà đi, ngày ngày thèm muốn được vãng sanh về Tây Phương
Cực Lạc, vậy mà được thành tựu khá tốt… Dù cho trong lúc xả bỏ báo thân vì
gia đình sơ ý đã tạo ra một cảnh oan uổng làm cho chị phiền não! Nhưng có lẽ
nhờ thời gian bốn tháng huân tu câu A-Di-Đà Phật, quyết lòng vãng sanh, nên
trước cái ách nạn như vậy chỉ cần mình nhắc một câu thì tự nhiên người đó giật
liền mình, nhớ lại niệm câu A-Di-Đà Phật… Ấy thế mà ra đi để lại thân tướng
bất khả tư nghì.
Vãng sanh có nghĩa là
người đó đã liệng một chiếc áo cũ, chiếc áo cũ ung thư tàn tạ! Rồi lượm một
chiếc áo mới, chiếc áo mới của chư đại Thánh Chúng trên cõi Tây Phương Cực Lạc.
Thưa thật với chư vị, đọa
lạc hay cực lạc nó nằm ngay tại cái tâm này. “Ngộ!” Ta đi về Tây Phương. “Mê!” Thì chư vị cứ kiểm lại
coi, nhất định đời này xả cái thân này rồi, lượm lại cái thân người không được
đâu!… Chắc chắn!… Cho nên chúng ta cần phải ngộ! Ngộ cấp thời để kịp tự cứu
lấy ta và cứu lấy người thân của ta.
Hôm nay xin tiếp tục chương
trình của ngày hôm qua, chúng ta khai thị nhắc nhở cho người đã tắt hơi được
một tiếng đồng hồ. Thường thường thì trong một tiếng đồng hồ, nhu cầu nên khai
thị hướng dẫn cho họ từng mười lăm phút một. Hôm qua chúng ta đã nói tới nửa
giờ đầu, cứ khoảng chừng mười lăm phút thì ít ra gì người trong ban hộ niệm nên
nhắc nhở thần thức của người ra đi một lần nữa:
–
Hương linh Trần Văn X ơi! Mau mau định tâm lại, đừng phân vân nữa, niệm
A-Di-Đà Phật nhé, nhất định theo A-Di-Đà Phật về Tây Phương Cực Lạc.
Nói
rõ, nói chậm, nói ngắn trong khi mọi người đang tiếp
tục niệm Phật. Tức là mình đã nhắc nhở nhiều rồi nhưng vẫn sợ người đó còn chao
đảo, còn phân vân, còn do dự điều gì đó. Hễ còn một niệm do dự thì không được
vãng sanh. Mình cố gắng làm sao cho người chết đó giật mình ngộ ra một cái, họ
nhiếp tâm lại niệm Phật thì tự nhiên liền cảm ứng đến quang minh của A-Di-Đà
Phật.
Chư vị nên nhớ cho, trong
những lúc đó những vị hộ niệm chung quanh họ đang niệm Phật mạnh lắm. Nhờ niệm
Phật mạnh như vậy nên quang minh của A-Di-Đà Phật đang phủ tràn nơi đó, sát bên
cạnh người bệnh chứ không đâu xa hết, chỉ cần giờ phút nào người chết giật mình
tỉnh ngộ, nhiếp tâm niệm câu A-Di-Đà Phật thì tự nhiên tiếp xúc với quang minh
của A-Di-Đà Phật, nhất định một niệm tất sanh.
Nhưng nếu họ chờn
vờn, họ so đo, họ phân vân, họ cứ lo nghĩ: “Tại sao ta như thế này? Tại sao ta như thế
nọ?… Tại sao ta lại ở đây?”…
Người ta ở trong cái cảm giác hình như không biết là thật hay là hư? Cho
nên ta cần phải xác định là:
–
Hương linh Trần Văn X ơi! Đã bỏ báo thân rồi, không còn lý do gì để mà chần
chừ do dự. Phải định cái tâm lại đừng phân đo nữa. Niệm A-Di-Đà Phật với đại
chúng, theo A-Di-Đà Phật về Tây Phương Cực Lạc…
Nói mạnh một câu này.
Nhiều khi chỉ cần một lời khai thị như vậy mà họ được vãng sanh. Vãng sanh thì tự
nhiên thoại tướng chuyển biến liền.
Đến khoảng chừng một
tiếng đồng hồ thì có thể mình cho đại chúng ngưng lại một vài phút, ta bắt đầu nhắc
nhở nữa. Đó là cái khoảng thời gian một tiếng đầu:
–
Nam Mô A-Di-Đà Phật. Hương linh Trần Văn X ơi! Giờ phút này nhất định hương
linh phải nhớ cho rõ, đã xả bỏ báo thân một tiếng đồng hồ rồi. Thân xác này
không còn lệ thuộc vào Phật tử Trần Văn X nữa đâu. Mau mau tỉnh ngộ. Giờ này
nhất định phải niệm câu A-Di-Đà Phật cấp kỳ, không được chần chờ nữa! Một niệm
giác ngộ niệm câu A-Di-Đà Phật, theo A-Di-Đà Phật thành đạo Vô Thượng. Còn nếu
mê mờ tham chấp thân xác, còn mê mờ nghĩ đến đứa con, còn mê mờ nghĩ đến gia
đình, tiền bạc… thì vạn đời vạn kiếp sẽ bị đọa lạc, khổ đau! Trong bao nhiêu
ngày tháng qua ta chờ cái giờ phút này để đi về Tây Phương, thì không cớ gì mà
bây giờ phải chần chừ, lo nghĩ. Niệm A-Di-Đà Phật, quyết lòng theo A-Di-Đà Phật
đi về Tây Phương.
Nói như vậy! Thật
mạnh! Sau đó có thể tất cả chư vị cùng chắp tay lại nguyện cầu Phật tiếp độ.
(Nên đọc từng bốn chữ một cho được đều):
Đệ
tử chúng con,
Thành
tâm cầu nguyện.
A-Di-Đà-Phật,
Quán-Âm
Thế-Chí.
Đại
từ đại bi,
Phóng
quang tiếp độ.
Hương
linh Trần Văn X
Pháp
danh là Y.
Vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc.
Mình có thể cùng đọc
câu đó cũng được rồi bắt đầu niệm: “A-Di-Đà Phật…” Nhưng cũng nên nhớ
là sau những lúc khai thị cho người bệnh thì người trưởng ban luôn luôn phải
chắp tay lại thầm khẩn nguyện chư oan gia trái chủ liền:
–
Nam Mô A-Di-Đà Phật. Ngưỡng mong chư vị trong pháp giới hiện hữu nơi đây
đừng nên chống phá hương linh Trần Văn X, mà nên kết duyên lành với hương linh
để hộ niệm cho hương linh Trần Văn X sớm được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc,
công đức này vô lượng vô biên. Xin chư vị vì vấn đề liễu đoạn sanh tử, mong chư
vị phát tâm Bồ-Đề cùng với chúng tôi niệm A-Di-Đà Phật, hộ niệm cho hương linh
sớm vãng sanh về Tây-Phương-Cực-Lạc, nhờ công đức này chư vị cũng được vãng
sanh về Tây-Phương.
Cũng xin nhắc nhở
rằng, biết hộ niệm thì cũng biết tự hộ niệm. Chúng ta nên dự phòng hết. Nghĩa
là đặt mình vào trong trường hợp đến ngày xả bỏ báo thân. Nếu thường ngày mà
mình nghe được những lời khai thị hướng dẫn về hộ niệm này, thì đến lúc đó chỉ
cần nhắc sơ: “Anh Trần Văn X ơi!… Mau mau niệm Phật”. Vừa nghe đến thì mình giật mình liền, mình tỉnh ngộ liền, mình
niệm Phật nhanh lắm. Còn giả sử như khi lâm chung mà không được khai thị, thì
nhờ trong đời đã được sự khai thị trước mà có kinh nghiệm sẵn, nên khi xả bỏ
báo thân, mình cũng dễ biết được đạo lý, dễ giật mình tỉnh ngộ. Mình không còn
chờn vờn, không cỡi gió đi mây nữa. Thần thức của mình không còn lảng vảng lảng
vảng, không còn bị ngỡ ngàng nữa. Cái tâm mình đã định lại rồi…
Vì thế, thông thường
một người đã biết hộ niệm trước, thì ta hộ niệm cho người đó dễ được vãng sanh
lắm. Còn người không biết gì về hộ niệm, thì khi họ lâm chung ta hộ niệm cho họ
rất là khó!
Quý vị đừng nên nghĩ
rằng, chúng ta cứ niệm Phật như thế này rồi sau cùng dễ vãng sanh. Không có
đâu! Chắc chắn không dễ như vậy! Chính Diệu Âm này đã có một số kinh nghiệm về
hộ niệm cho những người đã tu qua nhiều Phật Thất, mười mấy cái Phật Thất, hai
chục cái Phật Thất vậy đó, tu được mấy chục năm qua, có ăn chay trường… nhưng
sau cùng rồi không được vãng sanh. Lý do có lẽ vì trong suốt thời gian niệm
Phật đó, không có người nào giảng giải cho họ cái đạo lý vãng sanh, họ không
biết qua phương pháp hộ niệm vãng sanh!…
Vấn
đề thiếu sót là: Họ không bao giờ được giảng giải về Niệm Phật – Hộ Niệm – Vãng
Sanh là như thế nào?… Lúc xả bỏ báo thân cần được trợ duyên như thế nào?…
Cho nên trong lúc tu
hành thường thường có những cái vọng tâm khởi ra nhiều quá! Có người thì ham lý
này luận nọ! Có người thì nghiên cứu sách này sách nọ! Có người thì cầu mong
chứng đắc này chứng đắc nọ!… Những cái ý niệm này nó sẽ biến thành những
chủng tử tiêm vào trong đầu óc của họ. Khi mà nằm xuống thì nào là bị đau khổ,
rồi nạn oan gia trái chủ, nào là những cảnh giới chập chờn thay đổi liên tục…
làm cho tâm họ rối đi, không cách nào định được! Trong khi đó những người biết
hộ niệm thì họ đã đoán biết trước những chướng nạn này, người ta giảng giải
thẳng vào cái chỗ này.
Ví dụ, trước khi mình
chưa bị bệnh thì họ đã dặn là khi ra đi phải theo A-Di-Đà Phật nhé. Lúc bệnh
xuống họ dặn phải niệm A-Di-Đà Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, đừng bao
giờ niệm A-Di-Đà Phật mà cầu hết bệnh nhé. Vì sao vậy? Vì niệm A-Di-Đà Phật để
cầu cho hết bệnh thì cái chủng tử “Hết Bệnh” nó nhập vào trong tâm của mình. Lúc đó mình sẽ nghĩ rằng mình chỉ
bệnh sơ thôi, chứ chưa phải là chết đâu. Tâm mình cứ nghĩ đến cơ may hết bệnh.
Oan gia trái chủ trùng trùng điệp điệp, sẽ nương theo cái tâm sợ chết của mình,
mà cài mình vào những cạm bẫy làm cho mình lạc đường!…
Chính vì thế, tại sao
những người biết hộ niệm lại được vãng sanh dễ dàng?… Người ta có thể vãng
sanh dễ dàng hơn những người tu giỏi nữa là khác. Tại vì từng điểm, từng điểm
quan trọng trong pháp hộ niệm họ đã nắm vững, rõ ràng, cụ thể rồi… giống như
một với một là hai, hai với hai là bốn vậy. Pháp hộ niệm đã hướng dẫn họ vững
vàng như vậy, nhờ thế khi ứng dụng đến họ được vãng sanh bất khả tư nghì. Thật
sự như vậy.
Mong chư vị quyết
lòng củng cố về kiến thức hộ niệm, về ý niệm hộ niệm, về phương thức hộ niệm
cho vững để chúng ta cứu người vãng sanh, cứu chính chúng ta vãng sanh về Tây
Phương thành đạo Vô Thượng…
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
HƯỚNG
DẪN – KHAI THỊ
(Tọa
Đàm 32)
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Buổi chiều hôm nay
Diệu Âm có liên lạc với một người bệnh ung thư cũng sắp ra đi ở Tuy Hòa. Sau một vài mươi phút nói chuyện thì người bệnh này
đã quyết thề niệm một câu A-Di-Đà Phật để vãng sanh.
Ở
tại đó chưa có ban hộ niệm, nhưng nghe nói hôm nay có hẹn Diệu Âm gọi về nói
chuyện về Hộ Niệm, nên có khoảng mười mấy người tới nghe. Sau khi nói chuyện
xong, Diệu Âm mời các vị đó mỗi tuần bỏ ra một vài buổi tới niệm Phật hộ niệm
cho người bệnh được không? Tất cả mọi người đều nói: “Được! Chúng tôi sẵn
sàng”. Sẵn cơ hội đó tôi kêu gọi thành lập một Ban Hộ Niệm tại chỗ luôn. Quý vị
mừng quá, vỗ tay. Ấy thế mà mấy năm qua tại nơi đó muốn thành lập ban hộ niệm
mà thành lập không được.
Tôi
có hỏi người bệnh:
– Trong thời gian qua chị nghe kinh nào?
Chị
nói:
– Tôi không
có nghe kinh nào hết. Nhưng có một vị đạo hữu hai tuần nay đem biếu bộ tọa đàm
“Hộ Niệm Là Một Pháp Tu” của Diệu Âm. Tôi đang nghe cái đĩa đó.
Tôi
nói:
– Tốt!
Nhưng bắt đầu từ hôm nay chị nên giao cái đĩa đó cho chồng của chị, con của chị
và ban hộ niệm họ nghe, riêng chị không nên nghe, tại vì nếu chị nghe như vậy
thì tôi sợ rằng chị không có đủ thì giờ để niệm câu A-Di-Đà Phật.
Chị
đó nói:
– Nhưng
mà cái băng này hay quá.
Tôi
nói:
– Vì
hay cho nên chị mới thích. Vì thích nên chị mới tham. Vì tham nên chị mê những
đoạn băng này mà coi chừng câu A-Di-Đà Phật bị hững hờ không nhập vào tâm được.
Tôi nói tọa đàm này là để cho những người không biết hộ niệm, chưa biết hộ
niệm, chưa tin vào phương pháp hộ niệm họ nghe. Người ta nghe để biết cách hộ
niệm cho chị. Chớ bây giờ chị đang nằm trên giường bệnh, bác sĩ nói còn một vài
tháng nữa là chết, thì còn thời gian đâu nữa mà chị nghe những lời này. Chính
những lời tôi nói mà tôi cũng cấm chị nghe. Chị có quyết thề với tôi là chỉ
niệm một câu A-Di-Đà Phật, nửa đêm thức giấc đau mình, chị cũng phải niệm câu
A-Di-Đà Phật, không than không thở gì hết, quyết lòng nguyện vãng sanh.
Tôi
nói chuyện với chị xong, rồi tôi khuyến tấn tiếp, chị sắp sửa được về Tây
Phương gặp A-Di-Đà Phật rồi, hãy mừng đi, vỗ tay lên... Chị vỗ tay.
Người chồng cũng ủng hộ trong tinh thần đó.
Tôi
nói tiếp:
– Được
rồi! Ban hộ niệm của quý vị khỏi cần tới tôi hướng dẫn. Tôi sẽ giới thiệu chị
Thu Hương ngoài Đà Nẵng vào trực tiếp hướng dẫn cho chư vị.
Sau
đó tôi bắt điện thoại gọi chị Thu Hương… Chị Thu Hương là người hộ niệm rất
là tuyệt vời ở Việt Nam. Chị đã hộ niệm được trên một trăm người đã vãng sanh
bất khả tư nghì, có nhiều người còn ngồi được để vãng sanh, có những người niệm
Phật tới giờ phút chót vãng sanh nữa. Chị là người rất cứng rắn trong điều lệ
hộ niệm. Giả sử như vị ung thư đó mà tham cái này, tham cái nọ, còn nghiên cứu
cái này nghiên cứu cái nọ, còn muốn đọc này đọc nọ… Khi chị tới hỏi một vài
tiếng mà người bệnh không buông bỏ thì có thể chị rút lui liền lập tức. Tính
tình của chị cứng lắm. Trải qua hằng trăm cuộc hộ niệm rồi, chị đã nắm khá vững
những yếu tố nào được vãng sanh, yếu tố nào sẽ bị trở ngại.
Chính
vì vậy, những lời tọa đàm của Diệu Âm này chẳng qua là nói với những người có
niềm tin yếu về chuyện vãng sanh, nói với những người mà niềm tin không vững
rằng pháp hộ niệm có thể giúp người vãng sanh. Cho nên những cuộc tọa đàm này
là mong cho nhiều người có duyên nghe được những lời này mà giật mình tỉnh ngộ.
Còn những người đã quyết lòng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thì còn thì giờ
đâu mà nghiên cứu, còn thì giờ đâu mà nghe cái này nghe cái nọ, còn thì giờ đâu
mà đọc cái này đọc cái nọ! Đọc một cái gì là một chủng tử đi vào trong tâm của
mình. Đọc nhiều thứ quá thì câu A-Di-Đà Phật nhất định không sáng suốt trong
tâm của mình được.
Nên
nhớ, bây giờ đây mình có thể lý luận. Nhưng khi nằm xuống rồi quý vị mới thấy
rằng không còn lý luận được nữa đâu. Chủng tử A-Di-Đà Phật mà yếu thì nhất định
những chủng tử khác sẽ mạnh, nó sẽ lấn hết tất cả. Bên cạnh đó, nghiệp chướng,
oan gia trái chủ sẽ thừa cơ lồng vào thì chịu thua! Lúc đó không có cách nào có
thể cứu vãn được!
Cho nên, nếu người bị
bệnh ở Tuy Hòa chỉ cần vững tâm như vậy, tôi có thể dám mạnh dạn bảo đảm rằng
chín mươi lăm phần trăm vãng sanh. Còn bây giờ mà không chịu nghe, đối với chị
Thu Hương, thì vấn đề này chị xử lý cứng lắm. Thường gặp bệnh nhân chị hỏi
rằng: “Chị có thề với tôi là trì giữ một câu A-Di-Đà Phật không?”. Không quyết định
thì chị rút về liền, chị thẳng thắn như vậy. Vì cái kinh nghiệm của những người
hộ niệm quý giá vô cùng, còn mình ngồi đây nói chẳng qua là sự lý luận theo
sách vở, hoàn toàn chưa chứng nghiệm một cái gì hết.
Hiểu được như vậy,
mình muốn đi về Tây Phương Cực Lạc thì cần phải “Tịnh niệm tương kế, tự đắc
tâm khai”. Tâm mình tự nó sẽ khai ra… Nhất định như vậy. Đây
mới chính là sự hiểu biết đúng đắn của mình
đó, còn tất cả những gì ở ngoài đưa vô chẳng qua là thứ đối trị với những người
không tin mà thôi.
Ba điểm
“Tín-Nguyện-Hạnh”
là tông chỉ. Muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc mà cửa ải “Tin”
này cứ chập chờn chập chờn thì…
– Làm sao có thể thâm nhập vào đường đạo?…
– Làm sao mà phát nguyện được tha thiết?…
– Làm sao mà niệm câu A-Di-Đà Phật được chí
thành?…
Chính
vì thế, nghiệp chướng phá không nổi! Mà muốn phá, phá cũng không xong!
Hôm
nay chúng ta nói thêm về “Khai Thị – Hộ Niệm”. Thật ra
là chỉ để khai thị cho những người có niềm tin quá bạc nhược! Vì người sắp chết
đó niềm tin không đủ, nghiệp chướng sâu nặng, nên mình phải tìm phương tiện gỡ
lần, gỡ lần, gỡ lần cho họ. Chứ nếu như niềm tin đã vững vàng, thì chúng ta cứ
một câu A-Di-Đà Phật mà niệm, không còn xen cái gì khác. Bảo đảm lúc đó khỏi
cần khai thị nữa, chỉ cần nói, “Anh Hai ơi! Niệm Phật đi”, là tự
nhiên người bệnh niệm leo lẻo. “Quyết tâm nghe anh Hai…”. Thế thôi, khỏi cần gì
khác.
Chứ
còn người mà khuôn mặt chập chờn chập chờn, nửa đỏ nửa xanh, mộng này mị nọ…
Thành ra mình đành phải cứ khai, khai, khai hoài là