“ĐỂ XỨNG ĐÁNG LÀM NGƯỜI NỮ TU”
CINDY RASICOT phỏng vấn Tỳ kheo ni DHAMMANANDA
Diệu Liên Lý Thu Linh
Tỳ kheo ni DHAMMANANDA, là vị ni Thái Lan đầu tiên được thọ đại giới theo hệ phái nguyên thủy. Bà thọ giới sa di vào 6 tháng 2, 2001 tại Tích Lan, vì không thể thọ giới ở quê hương, nơi có khoảng 300,000 tăng sĩ, nhưng không có phụ nữ được thọ giới. Ba năm trước đó, dòng tỳ kheo ni đã được thiết lập lại ở Tích Lan, sau khi bị xóa bỏ gần cả ngàn năm. Sự thọ giới của Dhammananda đã làm dấy lên những cuộc tranh cãi gay gắt trong cộng đồng tại Thái Lan, sự chống đối của các tăng sĩ và sự chế diễu từ các ngành truyền thông bảo thủ. Mặc dù bị chống đối, bà đã trở lại Tích Lan năm 2003 để thọ đại giới làm tỳ kheo ni.
Theo lời kể của Dhammananda, lịch sử của ni đoàn Thái Lan có thể chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn một xảy ra vào năm 1928, khi một nam nhân tên Narin Klung tìm cách cho hai con gái được thọ giới. Hai phụ nữ trẻ này bị bắt giam, không cho vận y áo người tu, sau đó, Tăng thống Thái ra lệnh cấm tăng sĩ được trao giới cho người nữ. Lệnh đó, là Luật Tăng Đoàn 1928, vẫn được tăng đoàn sử dụng trong việc từ chối chấp nhận tỳ kheo ni.
Làn sóng thứ hai bắt đầu vào năm 1956, khi mẹ của Dhammananda, bà Voramai, thỉnh cầu sư phụ của mình để được thọ giới. Bà không muốn trở thành một maeji. Maejis là những nữ cư sĩ thọ tám giới, mặc áo trắng, nguyện sống độc thân và sống một cuộc sống khổ hạnh. Phần lớn những người phụ nữ này đã, và vẫn còn, bị thiệt thòi trong xã hội Thái Lan; nhiều người không được đến trường, không nhận được sự hỗ trợ tài chính nào. Họ thường cư trú trong chùa, hoặc đền thờ, nơi họ dọn dẹp và nấu ăn cho các sư. Thay vào đó, Voramai chọn mặc y màu vàng và tự gọi mình là nakbuad, “người được thọ giới”. Năm 1960, bà thành lập Songdhammakalyani, một tu viện cho người nữ, nơi Dhammananda giờ là trụ trì.
Vào năm 1971, Voramai đến Đài Loan, nơi bà được thọ giới trọng. Lúc đó, vì không thể được thọ giới theo truyền thống Nguyên thủy Thái Lan, nên bà thọ giới theo dòng Dharmaguptaka, trở thành tỳ khưu ni Thái Lan hiện đại đầu tiên, với pháp hiệu Ta Tao Fa Tzu. Trong trường hợp của bà, vì tăng đoàn và xã hội Thái xem như bà xuất gia theo Đại thừa hơn là theo Nguyên thủy, nên họ không phản đối mạnh mẽ.
Dhammananda xem chính sự xuất gia của mình là khởi đầu của làn sóng thứ ba. Hai mươi năm sau khi bà xuất gia, có gần ba trăm phụ nữ được thọ giới đầy đủ ở Thái Lan, trải dài qua bốn mươi hai tỉnh thành.
Cuộc phỏng vấn sau đây cho thấy Dhammananda là một tu sĩ có nhiều đóng góp cho xã hội, một nhà hoạt động môi trường, nhà giáo, một nữ quyền, và một huấn luyện viên. Quyết định xuất gia của Dhammananda, cũng như những đóng góp về mặt học thuật và tâm linh của bà, tạo ảnh hưởng lớn cho sự hoạt động của các nhà nữ quyền Phật giáo hiện nay ở Thái Lan, nhất là khi người ta thấu hiểu mức độ mà phụ nữ Thái bị phân biệt đối xử vì tôn giáo của họ. Bà đã giải thích cuộc hành trình của mình như sau: “Tôi đã chu du khắp thế giới để con cháu tôi được hãnh diện về người mẹ/bà đã dọn đường để họ có thể đường hoàng bước tới với tư cách là một người nữ tu”.
CINDY RASICOT: Đầu tiên làm thế nào bà biết mình muốn xuất gia?
DHAMMANANDA: Tôi đã tham gia trên truyền hình, tổ chức một chương trình giảng Pháp nổi tiếng hàng tuần trong sáu năm. Trước mỗi chương trình, tôi phải dành hàng giờ để trang điểm – đánh mắt, gắn mi giả, tô móng tay, chọn trang phục phù hợp, đại loại những thứ đó. Phải thú nhận, tôi cũng thích làm đẹp. Rồi một ngày, khi tôi nghiêng người, soi gương để kiểm tra hình ảnh phản chiếu của mình trong gương, lúc đó Chatsumarn, hỏi tôi bằng tiếng Anh, “Bà còn tiếp tục làm những thứ này trong bao lâu nữa?” Tôi sững người. Vâng, tôi phải tô son, trét phấn đến bao lâu nữa? Tôi phải sống cuộc sống thế tục này bao lâu nữa? Thật là một thử thách bất ngờ đối với bản thân khiến tôi phải quyết định.
Đó là khoảnh khắc khi tôi quyết sống đời xuất gia; đó là năm 1999. Năm 2000, việc đầu tiên tôi làm là đi Đài Loan để thọ giới bồ tát của cư sĩ. Khi đã thọ bồ tát giới, ta không còn quan tâm đến bản thân mình nữa -ta phải phụng sự người, chăm lo cho xã hội và cho thế giới. Tôi muốn thực hiện cam kết đó trước khi xuât gia.
Vào thời điểm đó, bà đã lập gia đình hơn ba mươi năm và có ba người con trai đã trưởng thành. Đó có phải là một quyết định khó khăn đối với bà khi phải rời bỏ gia đình?
Một câu hỏi thú vị – Vâng, tôi đã có gia đình, nhưng vào thời điểm đó trong cuộc đời, tôi chỉ muốn hai điều: độc thân và ăn chay. Khi tôi nói với chồng rằng tôi muốn ly hôn, anh ấy không tức giận mà chỉ bối rối. Anh ấy nói, “Không sao, nếu em muốn được thọ giới, nhưng tại sao lại phải ly hôn?” Lý do vì chồng tôi ở trong quân đội, ông không muốn bị mất mặt; ông không muốn cảm thấy hổ thẹn với mọi người.
Bà sẽ khuyên một phụ nữ trong hoàn cảnh tương tự như thế nào: đã kết hôn, có con cái, nhưng khao khát muốn xuất gia, trở thành tỳ kheo ni?
Thứ nhất, nếu bạn đã chọn làm mẹ – bạn phải hoàn thành vai trò đó một cách đầy đủ. Hãy chắc rằng con bạn đã có thể tự lo. Hãy chắc rằng chúng đã trưởng thành, đã vững chải. Được như thế rồi bạn mới nên nghĩ tới chuyện xuất gia.
Nếu bạn còn trẻ và muốn xuất gia, thì phải xem xét điều gì quan trọng hơn, lập gia đình hay xuất gia? Bạn phải chọn. Điều này rất quan trọng vì một khi bạn đã có gia đình, không dễ từ bỏ nó. Bạn phải có trách nhiệm với chồng con. Hãy giải quyết việc đó trước. Trong trường hợp của tôi, các con ủng hộ quyết định của tôi. Chúng hoàn toàn trưởng thành — chúng muốn tôi được quyền tự do lựa chọn những gì tôi muốn làm với phần còn lại của cuộc đời mình. Lúc đó, một người con của tôi đã can thiệp và thuyết phục chồng tôi, nên cuối cùng anh đồng ý ly hôn. Đến cuối năm 2000, cuộc ly hôn của tôi kết thúc, và tôi cũng đã từ bỏ công việc ở trường đại học. Tôi đã được thọ giới sadi theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy vào tháng 2 năm 2001.
Bà xuất gia ở Sri Lanka. Sau khi trở về lại Thái Lan, thì chuyện gì đã xảy ra?
Khi đi thọ giới, tôi chỉ có một mình. Tôi không muốn có chuyện ồn ào khi trở về Thái Lan. Tôi chỉ muốn an dưỡng âm thầm trong một tu viện nào đó. Nhưng về sau, tôi được mời xuất hiện trên truyền hình, trên một kênh bảo thủ, thuộc sở hữu của quân đội. Vào ngày tôi được phỏng vấn, cả hai chương trình đều bị hủy vào phút cuối vì họ nói rằng cuộc phỏng vấn có thể có “ảnh hưởng không mong đợi đối với xã hội”. Việc hủy phỏng vấn gây ra nhiều phản ứng đối lập.
Tôi thực sự bị các phương tiện truyền thông áp lực. Tôi đã nhận được những lá thư đầy thù hận và email với lời lẽ không lịch sự. Cả hai năm trời, tôi không đụng đến báo chí vì chiến dịch truyền thông quá hung bạo. Tôi đã sống sót, nhưng tôi nhận ra rằng tôi đang đứng một mình, chơ vơ giữa đồng. Không ai bảo vệ tôi hoặc lên tiếng ủng hộ tôi. Mặc dù vậy, tôi có niềm tin lớn lao rằng giáo pháp sẽ bảo vệ tôi.
Bà là một người tiên phong trong việc hồi sinh dòng nữ tu theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy. Tại sao điều này lại quan trọng đối với bà?
.
Tôi nhìn lại cuộc đời của mẹ tôi. Bà là vị tỳ kheo ni đầu tiên ở Thái Lan và là trụ trì của tự viện này. Nhưng dòng truyền thừa của bà là từ Đài Loan. Để tiếp tục dòng truyền thừa này, bạn phải rất uyên thâm tiếng Trung Quốc, do đó dù mẹ tôi được thọ giới, nhưng bà không được đào tạo. Do đó, bà không thể huấn luyện những người phụ nữ khác để họ được thọ giới; bà không thể tiếp nối truyền thống.
Tôi cũng đã cân nhắc việc được thọ giới ở Đài Loan, nhưng ở tuổi của tôi, tôi không thể học tiếng Trung đủ để thành thạo ngôn ngữ này. Tôi cũng cân nhắc việc thọ giới theo truyền thống Tây Tạng — tôi có mối liên hệ sâu sắc với Phật giáo Vajrayana vì tôi đang phiên dịch các tác phẩm của Đức Dalai Lama. Nhưng theo truyền thống đó phụ nữ cũng không được thọ giới đầy đủ.
Tôi biết tôi thực sự muốn giúp phát triển ni đoàn. Tại sao? Bởi vì Đức Phật đã thành lập tứ chúng gồm: nữ cư sĩ, nam cư sĩ, Tỳ khưu và Tỳ khưu ni. Việc đó giống như một chiếc ghế có bốn chân. Bạn có thể nói rằng ở đất nước tôi một chân ghế – các nữ tu được thọ giới đầy đủ – bị thiếu. Tôi cần phải mang chân ghế thứ tư này về.
Bà thường nói Đức Phật là nhà nữ quyền đầu tiên. Bà có thể nói rõ thêm về điều đó?
Vâng. Như bạn biết đấy, những lời vàng của Đức Phật ban ra trong thời điểm Đức Phật cho phép phụ nữ được xuất gia: Ngài đã tuyên bố rằng người nữ cũng có thể được giác ngộ. Không có tôn giáo nào khác trước Phật giáo đã nhận ra rõ ràng tiềm năng tâm linh của phụ nữ. Tuyên bố đó vô cùng quan trọng…
Nữ quyền có ý nghĩa gì đối với bà?
Điều đó có nghĩa là người phụ nữ có thể làm bất cứ điều gì mà tiềm năng cô cho phép. Và nếu bị ngăn trở, không được làm những gì cô muốn, thì cô phải đối mặt với người cản đường. Đức Phật đã cho phép chúng tôi được xuất gia. Đó là di sản của chúng tôi. Tôi không đấu tranh cho sự bình đẳng; tôi đấu tranh cho quyền lợi của mình.
Bà nghĩ thế nào với sự khác biệt giữa giới luật dành cho tăng (patimokkha) với 227 quy tắc, và ni với 311 quy tắc? Bà có nghĩ là trong tương lai các quy tắc đó có thể được xem xét lại?
Không. Theo Phật giáo Nguyên thủy, bất cứ điều gì được Đức Phật ban ra, chúng tôi chấp nhận điều đó như thế. Tôi không thấy có gì sai với các con số này; nếu bạn thực sự nghiên cứu chúng, bạn sẽ thấy sự khác biệt rất nhỏ nhoi. Thí dụ, một số quy tắc bên tăng được tính là một, nhưng khi áp dụng cho phía bên ni thì được chia nhỏ ra thành tám quy tắc. Tám quy tắc hay một quy tắc – đây không phải là vấn đề lớn đối với chúng tôi. Đôi khi, vì không có thời gian để đi vào chi tiết, tôi chỉ đơn giản nói, “Vâng, vì Đức Phật tin rằng chúng tôi có thể giữ nhiều quy tắc hơn!”
Qua hai mươi năm, sự chống đối của tăng đoàn Thái Lan đối với sự xuất gia của người nữ có thay đổi không?
Có ạ – giờ, họ im lặng. Ngoài ra, Sangharaja hiện tại [trưởng tăng đoàn Thái Lan] và nhiều vị sư biết cá nhân tôi.
Tôi mong rằng – tỳ khưu ni đi đúng hướng. Nếu họ không gây ra bất kỳ vấn đề nào, thì cuối cùng tăng đoàn sẽ chấp nhận họ, thậm chí quý sư còn sẽ có động thái hỗ trợ họ.
Bà có nghĩ rằng Đạo luật 1928, cấm người nữ xuất gia sẽ bị thu hồi?
Đạo luật đó không hợp lệ và không tuân theo tinh thần của hiến pháp; do đó, về mặt pháp lý, nó không hợp lệ. Tuy nhiên, theo văn hóa Thái, khi một sắc lệnh được hoàng gia ban ra, rất khó để vô hiệu nó. Nhưng từ quan điểm pháp lý nghiêm ngặt, chính phủ có thể làm điều đó. Tăng đoàn không thể thu hồi nó, nhưng ít nhất, họ không nên trích dẫn hay ủng hộ nó.
Điều đó gây trở ngại cho tăng đoàn Thái Lan. Nhưng nếu họ không cản trở sự có mặt của ni đoàn, thì sẽ phù hợp với luật pháp hơn.
Thái độ của người Thái đối với nữ tu đã thay đổi như thế nào trong hai mươi năm qua?
Bây giờ khi các nữ tu xuất hiện nơi công cộng, mọi người không còn cảm thấy khó chịu nữa. Họ coi đó là một phần của cuộc sống hàng ngày. Họ không đặt nhiều vấn đề như trước đây. Vì vậy, các nữ tu có mặt ngày hôm nay, hai thập kỷ sau tôi – họ thoải mái hơn nhiều. Bây giờ sai trái hay không là do chính các nữ tu. Họ phải chân thành trong tâm nguyện của mình và không biến việc đi tu thành việc ‘kinh doanh’. Người cư sĩ đặt niềm tin nơi các tu sĩ; chúng tôi không được lợi dụng niềm tin đó. Điều đó rất quan trọng— chúng tôi đã thấy nó xảy ra trong tăng đoàn. Không nên để nó xảy ra trong ni đoàn
Làm thế nào để tránh biến việc tu hành của người nữ thành việc kinh doanh?
Chúng tôi cố gắng hết sức để đào tạo và giáo dục các nữ tu. Chúng tôi chất vấn họ: “Tại sao muốn xuất gia?” Ý định xuất gia, ngay từ đầu, phải là ý định đúng đắn. Có người xuất gia đơn giản vì họ nghĩ rằng đó là một cách để kiếm tiền; nếu họ bắt đầu với loại ý tưởng đó, thì tất nhiên họ sẽ không thể tiếp tục tu hành. Nhưng nếu họ có một ý định rõ ràng và muốn được xuất gia để thực hiện mong muốn của Đức Phật, thì họ đang đi đúng hướng.
Ví dụ, ngay bây giờ, vì Covid-19, chúng ta đã phải chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế. Chính phủ đã phát động chương trình hỗ trợ người nghèo. Người nữ tu sẽ tự hỏi có nên nộp đơn xin hỗ trợ hay không vì đối với chính phủ, họ là người dân, do đó họ có đủ điều kiện để được giúp đỡ.
Nhưng giờ bạn là tu sĩ, bạn đã được mọi người ủng hộ. Còn đây là chính quyền đang cố gắng giúp đỡ người nghèo. Đừng lợi dụng lòng tốt của họ; đừng cố gắng trục lợi. Tôi có thể đưa một thí dụ.
Bạn biết rồi đấy, người Thái thích tạo công đức bằng cách mang tiền đến cúng dường cho các sư phải không? Ở tu viện của chúng tôi, người ta không phải mang tiền đến để tạo công đức. Tôi đã thiết lập nơi đây như một ngôi chùa sinh thái, vì vậy chúng tôi nói với Phật tử rằng họ có thể mang tiền nếu muốn, nhưng họ cũng có thể mang rác để tạo công đức. Vì vậy, bây giờ họ mang rác, và chúng tôi phân loại tất cả để tái chế.
Chúng tôi cũng chỉ cho họ cách tái chế và tái sử dụng các mặt hàng. Chúng tôi cắt áo sơ mi cũ ra nhiều mảnh, rồi dệt chúng thành thảm; tôi đã dệt bốn hoặc năm tấm thảm và tặng chúng cho các thí chủ.
Chùa này được cung cấp năng lượng mặt trời. Chúng tôi sử dụng năng lượng sạch. Chúng tôi chăm sóc môi trường. Mỗi tháng chúng tôi bán tái chế của mình trở lại cho các nhà máy.
Lúc nào chúng ta cũng có thể tái chế, ngay cả hơi thở của mình. Khi bạn hít thở không khí trong lành, nuôi dưỡng bản thân và khi bạn thở ra, hãy gửi năng lượng tràn đầy tình thương yêu và chăm sóc cho người.
Thông điệp của bà dành cho các bạn đồng hành trên đường tu, đặc biệt người nữ là gì?
Chỉ điều này: đừng nghĩ rằng bạn không thể làm điều gì đó. Bạn chỉ cần làm cho nó xảy ra bằng cách bắt đầu. Và mọi người khác sẽ góp tay
Diệu Liên Lý Thu Linh
7.2021
(Lược dịch theo “To Walk Proudly as Buddhist Women” , Buddhadharma, Summer 2021)
Bài đọc thêm:
Sự Phục Hồi của Hội Chúng Tỳ-Khưu-Ni trong Truyền Thống Nguyên Thủy (Tỳ Kheo Bodhi)
.
Discussion about this post