Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”; lại nói “ sanh tử việc lớn, vô thường mau chóng”.
Những lời cảnh tỉnh này, Thế Tôn đã hết lời khuyên bảo, từng giây từng phút đang nhắc nhở chúng ta, đều là muốn chúng ta phải nhận rõ chân tướng sự thật, nắm chắt cơ duyên hy hữu khó gặp này, ở ngay trong một đời này hiểu rõ việc lớn. Trên “ Kinh Pháp Hoa” nói rằng: “ Phật vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời”.
Vì sao gọi là việc lớn? Sanh tử là việc lớn, có thể nói việc này ngòai Thế Tôn ra, không người nào có thể làm được. Những nhân sĩ thông minh tài trí thế gian, họ có năng lực sanh đến trời sắc giới, trời vô sắc giới, nhưng không cách gì vượt qua ba cõi, liễu thóat sanh tử. Cho nên, Thế Tôn xuất hiện ở thế gian, giúp đỡ chúng sanh giải quyết việc lớn này.
Liễu thóat luân hồi, siêu việt mười pháp giới, làm Phật làm tổ, mỗi người đều có thể làm được, vấn đề là chính mình có chịu làm hay không? Như nhà Nho đã nói “ người người đều có thể làm Nghêu Thuấn”. Nghêu Thuấn là đại thánh đại hiền của Trung quốc, mọi người đều có thể làm được. Phật pháp cũng là như vậy, người người đều có thể làm Phật, làm Bồ Tát, vấn đề là bạn có chịu làm hay không, then chốt quan trọng chính ngay chỗ này.
Nếu như bạn bằng lòng làm, liền có thể làm được; bạn không chịu làm, chư Phật Như Lai cũng không thể giúp được. Thế nào gọi là làm được? Khổng Lão phu tử nói: “ Khắc niệm tác thánh”. Phật nói còn rõ ràng hơn, niệm là vọng niệm; hay nói cách khác, bạn có thể khắc phục được vọng niệm, bạn chính là Phật, bạn chính là Bồ Tát.
Ở trong Phật pháp nói: vọng tưởng chấp trước đều là vọng niệm. Vọng niệm vi tế gọi là vô minh, vọng tưởng ; vọng niệm thô trọng gọi là chấp trước. Vọng thì không phải là thật. “ Khởi Tín Luận” nói rằng: “ chân tâm vốn có”, vốn có thì nhất định có thể hồi phục; “ vọng tâm vốn không”vốn không thì đương nhiên có thể đọan trừ, buông bỏ. Còn chúng ta thì đáng nên đoạn mà không đoạn, đáng nên buông bỏ thì không chịu buông bỏ, vậy thì không còn cách nào.
Phật dùng ngàn vạn lời giáo huấn nhiều lần, chính là nhắc nhở chúng ta phải giác ngộ, giúp cho chúng ta nhận rõ chân tướng sự thật, hy vọng chúng ta ở ngay trong một đời này, thóat ly khổ hải sanh tử, viên thành Phật đạo. Đây là bổn nguyện của tất cả chư Phật, ngoài việc này ra, Phật không mong cầu thứ gì.
Thế Tôn dạy bảo đệ tử, phải chọn nơi “A Lan Nhã” mà tu hành mới có thể thành tựu được đạo nghiệp. “A Lan Nhã” là tiếng phạn, ý nghĩa chính là chổ tịch tịnh. Đạo tràng tu hành thời xưa, đều là xây dựng nơi núi sâu không có dấu chân người. Bởi vì phàm phu đều bị ảnh hưởng hoàn cảnh, có thể không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh, thì không phải là phàm phu. Do đó, chọn lựa hoàn cảnh tu hành rất là quan trọng!
Nói lời thành thật, người hiện tại tu phước báo nhân thiên thì dễ, nếu muốn liễu thóat sanh tử, ra khỏi ba cõi thì rất khó. Hiện tại hoàn cảnh bên ngoài mê hoặc đối với chúng ta, hơn gấp ngàn lần vạn lần so với người xưa, lại thêm vào phiền não tập khí sâu nặng của chúng ta nữa, thì không khỏi bị mê hoặc, nếu muốn thành tựu đích thực là rất khó. Cho dù tu hành ở núi sâu, bởi vì giao thông thuận tiện, cũng đã biến thành điểm tham quan, du khách lui tới rất đông.
Tôi lần đầu tham quan cung Ung Hòa Bắc Kinh, trụ trì nói với tôi: “bình quân mổi ngày có 5 ngàn người đến tham quan, chủ nhật ngày nghĩ có đến hai vạn người”. Tất cả mọi người xuất gia đều phải ra ngoài tiếp đãi, sức cùng lực kiệt, có thời gian thì vội vàng nghĩ ngơi một lát, ngay đến thời gian tu hành cũng không có. Đây là đạo tràng của thời hiện đại, chúng ta phải nhận biết rõ ràng.
Các đồng tu có thể học giáo, giảng kinh hoằng pháp, cũng là phước báo trời người. Nhưng giả như không giữ tốt giới luật, phước báo này sẽ đến đường súc sanh đường ngạ quỷ mà hưởng. Nếu ở trong hoàn cảnh này, có thể khắc phục vọng niệm của chính mình, công phu của bạn sẽ vượt xa người xưa, những sự lý này, chúng ta đều phải thông hiểu.
Phật pháp thường nói: “ cảnh tùy tâm chuyển”, “ tâm tưởng sự thành”, chân thật đem liễu thóat sanh tử xem thành một việc lớn ngay trong đời này, Phật Bồ Tát nhất định sẽ giúp đỡ chúng ta, vì chúng ta làm tăng thượng duyên. “ Phật thị môn trung, hửu cầu tắc ứng”, then chốt vẫn là ở chính mình, nên gọi là cảm ứng thông nhau, chính mình có cảm, Phật Bồ Tát liền có ứng, sự thật và phương pháp lý luận của cảm ứng, chúng ta phải thấu triệt, hơn nữa còn phải giới thiệu cho nhiều người khác.
Vì đại chúng rộng lớn trong xã hội mà nói, chưa chắc họ có ý niệm liễu thóat sanh tử, nhưng đối với việc cầu phước báo trời người, cầu phước báo hiền tiền, thì rất có hứng thú. Chúng ta có trí tuệ, có năng lực, phải nên giúp đỡ tất cả chúng sanh đạt đến chỗ mong cầu. Phật độ chúng sanh ứng cơ nói pháp, chúng ta phải có năng lực quán cơ, cũng phải có năng lực ứng cơ.
Chúng ta sống ở thế gian này là vì tất cả chúng sanh, không phải vì chính mình. Nếu như nói vì chính mình chính là hy vọng ngay trong một đời này thóat khỏi sanh tử thành Phật đạo. Nếu muốn thóat sanh tử thành Phật đạo bao gồm tất cả thế xuất thế gian pháp cần phải buông bỏ. Buông bỏ không phải là không làm gì cả, mà là buông bỏ vọng tưởng ở trong tâm, hồi phục tâm thanh tịnh của tự tánh, đây mới là chân đế của sự buông bỏ, quyết không thể hiểu sai chân thật nghĩa của Như Lai.
Mọi việc phải tùy duyên, có duyên thì giúp đỡ chúng sanh, không duyên thì đừng phan duyên, duyên chín muồi rồi, tận tâm tận lực vì chúng sanh phục vụ, chính là bố thí cúng dường. Nội tài, ngoại tài đều phải bố thí; nội tài chính là dùng năng, lực trí tuệ, chuyên cần của chính mình vì tất cả chúng sanh phục vụ.
Khi duyên chưa đủ, quyết không cưỡng cầu, nhưng nhất định phải có đại nguyện độ chúng sanh, cũng chính là nói nhất định phải có nguyện vì chúng sanh phục vụ. Chúng sanh nơi đây có thể tiếp nhận, chính là duyên đã chín muồi rồi, chúng ta phục vụ trước; nơi nào chưa chín muồi, thì đợi duyên chín muồi thì hãy nói. Nhất định phải tận tâm tận lực, phước huệ song tu. Phật Bồ Tát xem thấy chúng ta thật có tâm ý như vậy, có lẽ sẽ giúp chúng ta xây đạo tràng, thành tựu đạo nghiệp.
Làm thế nào để cảm ứng với Phật Bồ Tát, tâm bức thiết vì sanh tử, kỳ vọng ngay trong một đời này thóat sanh tử, ra khỏi ba cõi, thì liền cảm ứng Phật Bồ Tát đến giúp đỡ. Chỉ có tâm chân thật vì sanh tử, duyên chín muồi rồi, Phật Bồ Tát mới đến giúp đỡ, thật gọi là “ Phật thị môn trung, bất xã nhất nhân”. Còn chân thật vì thóat sanh tử, ra khỏi ba cõi, quyết định quyết tâm thành tựu chính mình, thành tựu Phật pháp, lợi ích chúng sanh, bạn hữu đồng tu không cần nhiều. Năm xưa Thế Tôn sau khi thị hiện thành đạo, độ 5 anh em Kiều Trần Như ở vườn Nai, sáu người hiệp thành một tăng đòan, thì có thể thành tựu rồi.
Chúng ta ở Âu Châu xem thấy một Tăng đòan Tiểu Thừa, chỉ có mười mấy pháp sư, có người ở Âu Châu, có người Thái, người Pháp, người Anh, người Việt Nam, đến từ rất nhiều quốc gia khu vực khác, cùng tu hành với nhau. Đạo tràng này khiến cho tôi nghĩ đến câu nói “ chăm chỉ làm đạo”, cho nên tinh thần của họ khiến tôi bội phục không thôi. Họ chính mình khai sơn, mở lộ, tạo phòng ốc, mỗi người một gian thất bằng gỗ, làm một gian nhà lớn để thờ Phật, hòan tòan do chính họ tự làm, không có thuê người. Trên núi có nước, có điện, không có điện thọai, báo chí, tạp chí, hòan tòan cách biệt với thế giới bên ngoài, chân thật là mỗi ngày thiên hạ đều thái bình, xã hội mỗi ngày đều an định.
Chúng ta chính mình phải nỗ lực, muốn cầu cảm ứng thì nhất định phải vì thóat sanh tử, nếu không thì đời này sẽ bị luống qua. Khi huởng phước, không tránh khỏi tạo nghiệp, tạo nghiệp nhất định đọa vào ba đường. Do đó, người chân thật có trí tuệ, không cầu phước báo trời người, nhất định cầu vãng sanh.
Lần trước chúng ta thăm viếng giáo hội Hồi giáo, có sự phản hồi rất tốt. Vậy thì do đây mà biết, mọi người trong xã hội không phân chủng tộc, không phân quốc gia, không phân tôn giáo tín ngưỡng, mọi người đều khát vọng xã hội an định phồn vinh, thế giới hòa bình. Việc này chứng minh cho cách nghĩ cách làm của chúng ta là chính xác, vì vậy phải càng tinh tấn nổ lực hơn, đem đa nguyên văn hóa, tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, họp tác lẫn nhau, nổ lực mà thúc đẩy, cùng sống trong sự nghiệp vinh quang.
Những việc này chính là Phật sự, Phật sự là sự nghiệp giác ngộ chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Những gì chúng ta đã làm chính là giúp đỡ tất cả chúng sanh mở rộng tâm lượng, yêu chính mình, càng yêu người khác hơn, yêu gia đình của chính mình, càng thương yêu xã hội hơn, tiêu trừ tất cả hiểu lầm, mâu thuẩn, xung đột dị kỷ, để đạt đến mục tiêu cùng tồn tại hòa bình. Chúng ta thúc đẩy việc này, nhất định phải xây dựng trên nền tảng “ tâm chân thành, tâm bình đẳng, tâm chánh giác”, đây mới là Phật sự, mới là sự nghiệp của Bồ Tát.
Đối với bản thân chúng ta mà nói, thì cần phải có cảnh giác cao độ. Quán trường Hàn từ lúc sanh bệnh đến vãng sanh, thần chí rõ ràng, việc này rất khó được. Bà hiện thân nói pháp, nói với chúng ta, con người khi lúc lâm chung, ngay đến trở mình cũng còn không có sức, cần phải có người khác giúp. Việc này khiến chúng ta nghĩ đến, người phước báo thế gian có lớn hơn, quyền thế có to hơn, khi lâm chung, vẫn cứ phải bị người khác xếp đặt, không cách gì thoát khỏi hiểm cảnh. Phật nói với chúng ta, lúc này là thời khắc then chốt quan trọng nhất của cả một đời người, vấn đề là ở đời sau thọ sanh đến cõi nào.
Duyên của Quán trưởng Hàn thù thắng, có hơn 30 vị xuất gia, dùng tâm chân thành thanh tịnh niệm Phật giúp cho bà, hộ niệp cho bà, cho nên từ lúc bà bị bệnh cho đến lúc vãng sanh, chúng ta xem thấy rất nhiều điềm lạ. Thứ nhất “ Kinh Địa Tạng” nói, khi người sắp mạng chung, sẽ xem thấy thân bằng quyến thuộc thời quá khứ, những thân bằng quyến thuộc này không phải là thật, đều là oan gia trái chủ của mình, biến hiện giống như người thân thích trong nhà để mê hoặc chúng ta, để báo thù chúng ta, việc như vầy thì rất nhiều. còn quán trưởng Hàn từ lúc bị bệnh đến vãng sanh, không có loại hiện tượng này, đó là hộ niệm của chúng ta có tác dụng.
Thứ hai, bà hai lần thấy Phật A Di Đà, một lần thấy Liên Trì Hải Hội, cho nên khẳng định bà vãng sanh Tịnh Độ. Thị hiện của bà chính là nhắc nhở cho chúng ta, bà có phước báo, khi lâm chung có được chăm sóc như lý như pháp, chánh tín như vậy, đây là hồi báo mà 30 năm bà đã hộ trì chánh pháp. Sau đó, mổi lần tôi giảng kinh đều hồi hướng cho bà, tôi mỗi niệm không quên, cái ân đức năm xưa ba đã chăm sóc thành tựu cho tôi.
Chúng ta quay đầu nhìn lại chính mình, cái ngày đó cũng sắp đến gần, đến lúc đó nếu chính mình không có duyên phận phước báo như thế này, thì phải làm sao? đây là một việc lớn duy nhất trong đời của chúng ta, có thể dự bị lo liệu trước hay không. Từ xưa đến nay có không ít người niệm Phật, đã làm mô phạm cho chúng ta, đã vì chúng ta làm ra điển phạm, chính là khi lâm chung không có bệnh khổ, không cần người chăm sóc, biết trước giờ ra đi, tự tại vãng sanh, chúng ta quyết định phải đi con đường này mới đáng tin, mới an toàn.
“ Cảnh Trần Hồi Ức Lục” ghi chép rằng; pháp sư Đế Nhàn có một người học trò niệm Phật vãng sanh, trước khi xuất gia là một thợ vá nồi. Người này cả một đời rất là khổ cực, trung niên xuất gia, không biết chữ, cũng chưa nghe qua kinh điển, cái gì cũng không biết. Pháp sư Đế Nhàn chỉ dạy ông một câu “ Nam Mô A Di Đà Phật”, nói với ông rằng: “ ông cứ như thế mà niệm, niệm mệt rồi thì nghĩ, nghĩ khỏe rồi thì niệm tiếp, niệm lâu sẽ có nhiều chổ tốt”, ông là người dân quê chất phác, không có vọng tưởng tạp niệm, rất nghe lời, cứ như thế mà niệm.
Niệm như vậy được ba bốn năm, ông đã thành công, không có bệnh khổ, biết trước giờ chết, sau khi vãng sanh còn đứng ba ngày, đợi pháp sư Đế Nhàn đến lo hậu sự cho ông, pháp sư Đế Nhàn khen ngợi ông rằng: “xem như ông đã không uổng phí xuất gia, ông như vầy ngay đến đại pháp sư giảng kinh nói pháp, phương trượng trụ trì, đại lão Hòa Thượng, đều cũng không bằng ông”. Đây là sự thật.
Ở Đài Loan, “Đoàn niệm Phật Liên Hữu Đài Bắc”, việc vãng sanh của cư sĩ Lý Tế Hoa, cũng là một tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Cư sĩ Lý cũng là biết trước giờ ra đi, trước lúc vãng sanh ở trong pháp hội vì mọi người khẩn thiết khai thị, sau khi giảng xong từ biệt với mọi người, “ tôi phải đi về nhà”. Thính chúng cho là ông đã mệt rồi, muốn về nhà nghĩ ngơi, nào ngờ ông ngồi ở sôpha phòng khác của Đoàn niệm Phật Liên Hữu, ngồi mà vãng sanh, hai thí dụ ở trên, một vị là người xuất gia, một vị là người tại gia, họ có thể làm được, chúng ta cũng có thể làm được, chúng ta phải học tập. Chỉ có dùng phương thức này, mới thật an toàn, không bị người xếp đặt. Khi bị người xếp đặt, nếu duyên không thù thắng, thì nhất định bị chướng ngại.
Cho nên, sau khi hiểu rõ được đạo lý và chân tướng sự thật, trước phải nghĩ xem chướng ngại chúng ta là cái gì? phải trừ bỏ đi chướng ngại này, chúng ta cũng có thể tự tại sanh tử, chúng ta làm đến được cái điểm này, chính là “ sở tác dĩ biện” mà trong Phật pháp đã nói, những việc chính mình phải nên làm, thì đã làm xong rồi, sau đó yên tâm mà đi làm việc lợi ích chúng sanh. Việc của chính mình nếu làm chưa xong, có thể xả mình vì người, đương nhiên là việc tốt.
Thế nhưng cái đã làm đều là phước báo, vẫn cứ không ra khỏi sáu cõi. Nếu như chính mình “những việc gì đáng làm đã làm xong”, thì nhất định nắm chắc được phần vãng sanh, lại giúp đỡ tất cả chúng sanh làm rất nhiều sự nghiệp, đó là công đức chân thật, không thể chịu báo trong Tam giới. Cho nên, nhất định phải nhắc nhở chính mình, không luận giờ nào nơi nào, cho dù ở trong tình huống nào, chính mình phải nắm chắc phần vãng sanh, tránh khỏi tất cả bệnh khổ, sự dày vò của tất cả mọi người. Nếu muốn làm đến cái điểm này, nhất định phải “ nhìn thấu, buông bỏ”.
Trong “ Địa Tạng Kinh Khóa Chú” luận quán nói rằng: “ nhất niệm tự tánh, thể nguyên khạm tịch”. Quả thật mỗi niệm tương ưng với thể tánh tịch lặng, tất cả tác dụng có thể tương ưng với tâm tánh, thì nắm chắc phần vãng sanh. Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư nói rõ ràng hơn “ vốn dĩ không một vật, làm gì nhiễm bụi trần”, hai câu này là nói tâm thanh tịnh và tâm bình đẳng. Tâm thanh tịnh không nhiễm, tâm địa thanh tịnh, không hề dính mắc, trong lòng “ vốn dĩ không một vật”. Dùng tâm thanh tịnh một lòng niệm Phật, thì việc này liền có thể làm xong.
Nhất định phải thấu hiểu, tất cả pháp thế xuất thế gian đều là giả, thân thể của chúng ta cũng là giả. Nên gọi là “ mượn giả tu thật” vãng sanh thế giới tây phương Cực Lạc là thật, ngoài việc này ra đều là giả, chúng ta phải nhận biết rõ ràng.
Nhất định phải thấu hiểu, tất cả pháp thế xuất thế gian đều là giả, thân thể của chúng ta cũng là giả. Nên gọi là “ mượn giả tu thật” vãng sanh thế giới tây phương Cực Lạc là thật, ngoài việc này ra đều là giả, chúng ta phải nhận biết rõ ràng.
Pháp Sư Tịnh Không
Cẩn Dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
(http://tinhkhongphapngu.com)
Người gửi bài: Nguyễn Thành Chiến
HOÁ GIẢI LÒNG OÁN HẬN SÂU NẶNG
HT. Tịnh Không
1
Hóa giải vì cuộc sống hạnh phúc trên bình diện toàn cầu
Đối với người tu tịnh độ, hóa giải xung đột vô cùng quan trọng. Trong các kinh điển, Thế Tôn đã giới thiệu thế giới cực lạc là thế giới hòa bình, bình đẳng, nơi các bậc thượng thiện tụ hội.
Nếu tâm không bình đẳng, giờ phút nào cũng mang nỗi oán hận, nhất định sẽ chướng ngại việc vãng sinh. Người vãng sinh tâm phải thanh tịnh, các tổ sư vẫn thường nói “Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, hay nói cách khác, tâm không thanh tịnh, thì bất luận người đó dụng công thế nào, có niệm hàng vạn danh hiệu đức Phật cũng không thể vãng sinh:
“Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn
Đau mồm rát họng chỉ uổng công”
Cho nên, phải xem việc này là việc lớn để lo liệu. Không nên cho rằng việc niệm Phật cầu vãng sinh không liên quan tới an định xã hội và hòa bình thế giới. Trước khi vãng sinh, giải thoát trở thành kẻ đại tự tại thì trước tiên chúng ta phải làm cho xã hội an định. Được như vậy, mới chắc chắn có thể vãng sinh tịnh độ, cùng Phật đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, và đồng hạnh. Chúng tôi đã hai lần tham gia hội nghị hòa bình của Liên Hiệp quốc, đặc biệt lần ở Cang Sơn Nhật Bản, cảm xúc rất sâu sắc về vấn đề này.
Theo Phật pháp, mỗi người đời đời kiếp kiếp đều có chủng tử oán hận trong A Lại Da thức. Người người cùng ở với nhau, luôn cảm thấy không vừa mắt, điều này ai cũng có thể kiểm nghiệm, bất luận thấy người nào, việc gì cũng đều không vừa lòng, đều thấy không vui. Đó là oán hận tích lũy từ vô lượng kiếp, nếu đồng thời bộc phát ra, thế giới này sẽ bị hủy diệt như các tôn giáo phương Tây từng dự đoán. Ngày tàn chính là toàn thế giới bị hủy diệt, trở lại từ đầu.
Xã hội thế gian vào thời kỳ có nhiều người tu tập, nhờ vậy mà bạo phát không xuất hiện. Nhưng tương lai khó ai biết trước. Một số ghi chép gần đây trên internet cho biết, cậu bé bảy tuổi đầu thai đến thế giới này sau khi mãn một kiếp ở hỏa tinh. Tuổi tác tuy rất nhỏ, nhưng trí tuệ, năng lực hơn hẳn các nghiên cứu sinh đại học. Cậu cho biết, quả địa cầu này vào mấy trăm vạn năm trước đã từng bị hủy diệt, chìm xuống đáy biển. Nơi đó hiện giờ chính là Ấn Độ Dương. Các nhà khảo cổ học không thể kiểm chứng được vì sự việc xảy ra quá lâu trong khi năng lực nghiên cứu hiện tượng lịch sử chỉ có thể thực hiện trong khoảng vài nghìn năm, như nổi bật nhất là sự kiện của cách đây 5000 năm, một mảng đại lục chìm vào đáy biển Đại Tây Dương.
Một mảng đại lục chìm xuống Ấn Độ Dương hàng trăm vạn năm đến nay mới được tiết lộ bởi cậu bé bảy tuổi này. Có thể hiểu oán khí nhiều đời cùng lúc bạo phát mà nhà Phật vẫn nói “Cảnh tùy tâm chuyển”. Cũng vậy, nếu mỗi người đều có lòng oán hận, thế giới này ắt sẽ hủy diệt. Ngược lại, mỗi người đều hoan hỉ, đều có tâm yêu thương, thế giới trở thành cực lạc. Ta bà và cực lạc thực ra không hề khác biệt.
Thế giới cực lạc không phải do Phật A Di Đà tạo, ta bà của chúng ta cũng không phải do thượng đế, vua Diêm La làm chủ tể, mà kinh Phật nói chính nơi tâm chúng ta làm chủ. Tâm khởi niệm thiện, thế giới mọi thứ đều thiện, người người đều thiện, không có gì bất thiện, thế giới này chính là Hoa Tạng, là cực lạc. Đức Phật thường nói “Tất cả pháp do tâm tưởng sinh”, người thế gian cũng thường nói “Tâm nghĩ sự thành”. Ta nghĩ đến thế giới cực lạc thì thế giới cực lạc liền hình thành; ta nghĩ thế giới này an định, mọi người đối xử bình đẳng, hòa thuận với nhau, không chỉ mình ta nghĩ mà mọi người cùng nghĩ, chắc chắn sẽ thành tựu. “Tâm nghĩ sự thành” thế tại sao chúng ta lại không chịu nghĩ tốt?
Hóa giải xung đột gia đình
Hiện tượng không hoà thuận trong gia đình rất phổ biến, vợ chồng bất hòa, xung đột thường xảy ra. Nguyên nhân do đâu? Do quan niệm mình đúng, người khác không đúng; cả hai đều nhìn thấy không đúng của đối phương thì làm sao có thể hòa thuận. Trước khi kết hôn, chúng ta thường nhìn người yêu với con mắt lý tưởng hóa, mọi thứ thuộc về người đó đều đẹp, đều vừa mắt, nhờ vậy mới có thể đi đến kết hôn. Đó là trạng thái tâm lý trước hôn nhân.
Tuy nhiên, nếu vĩnh viễn nghĩ đối phương là đúng, là tốt, khi có mâu thuẫn, chúng ta dành phần sai về mình, cam kết sửa đổi thì gia hòa vạn sự hưng. Ghi nhớ cái tốt của người mới có thể hòa thuận, có thể hóa giải xung đột, và thực sự xúc tiến an định hòa bình. Gia đình là tế bào của xã hội, là tổ chức cơ bản nhất. Nhà nhà hòa thuận thì xã hội hòa thuận, đất nước giàu mạnh. Mọi người đều phản tỉnh, đều biết khuyết điểm ở chính mình.
Nói người khác sai chính là sai lầm to lớn. Ngày nay, đa số chúng ta phạm phải sai lầm này. Người khác làm gì có sai lầm, đạo lý này hiếm người hiểu được, chỉ có Phật Bồ Tát hiểu. Vì sao nói người khác thảy đều không có lỗi? Vì sai ở ngay chính chúng ta.
“Cảnh tùy tâm chuyển”, tâm là tâm của chính mình, bên ngoài là cảnh giới tùy theo tâm mình mà thay đổi. Bên ngoài bất thiện do tâm ta bất thiện, chính ta chuyển cảnh giới thành bất thiện. Khi tâm thiện rồi, cảnh giới bên ngoài chẳng phải thiện hết rồi sao? Cho nên hãy nghĩ lại xem sai là do đâu, sai ở chính mình do phiền não tập khí khởi hiện hành.
Giới-Định-Huệ không khởi hiện tiền, đức Phật thường giảng trong đại kinh “tất cả chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai”, trí tuệ đức tướng của chúng ta không thể hiện bày, do tham sân si mạn, tự tư tự lợi,… khởi hiện hành làm cho con người xảy ra xung đột, còn nếu là trí tuệ đức hạnh tướng hảo thì sẽ không xảy ra xung đột lẫn nhau. Vì chính tâm chúng ta không tốt, trong tâm có tự tư tự lợi, có danh vọng lợi dưỡng, có tham sân si mạn, có năm dục sáu trần, nên sai lầm lớn là ở chính mình. Trong kinh giáo đại thừa đức Phật thường nói: “trong tự tánh thảy đều không có”. Đại sư Huệ Năng là người khai ngộ, trong đàn kinh ngài cũng nói “vốn dĩ không một vật, chỗ nào dính bụi trần”.
Trong tâm thanh tịnh, trong chân như bổn tánh của chính mình không hề có thứ gì, trong sạch thuần khiết, chỉ có trí tuệ, đức tướng. Mê mất đi tự tánh của chúng ta, đem trí tuệ biến thành phiền não, đem đức năng biến thành ác trược, việc xấu nào cũng làm, đem tướng hảo biến thành thô xấu, biến thành đời ác năm trược, biến thành ba cõi sáu đường, do đâu mà ra? Do chính chúng ta biến hóa ra. Tự mình biến ra, tự mình hưởng thọ, thì còn có thể trách ai.
Cho nên nói sai là hoàn toàn sai ở chính mình. Thực tế hiện tại mọi người đều sai, cả thế gian đều sai. Do đó người giác ngộ rất khổ, người giác ngộ không thể cứu nổi thế gian. Tuy nhiên người giác ngộ có thể cứu chính mình, chúng sinh mê hoặc cùng với người giác ngộ bất hòa, người giác ngộ có thể hòa thuận với chúng sinh mê hoặc, vì người giác ngộ không tranh với họ.
Họ muốn tiền, chúng ta đưa tiền, muốn danh đưa danh, muốn thứ gì, ta cho thứ đó. Chúng ta không mong cầu thì không xảy ra xung đột. Vì cả hai cùng tham cầu nên mới xảy ra xung đột. Người mê cho rằng nếu không tranh thì không được, người trí hiểu rõ nhường nơi này, thì lại được ở nơi kia, có khi còn được nhiều hơn cái đã cho. Càng xả càng được nhiều, không cần phải cầu. Đó là đạo lý đức Phật đã dạy nhưng đáng tiếc, chúng sinh lại không tin.
2
Cầu vãng sinh tịnh độ, thực hành xả bỏ
Chúng tôi đã giảng điều này hàng trăm lần ngàn lần, nhưng không có người nghe thấu, không có người chịu làm theo. Chúng tôi vẫn phải giảng hàng vạn lần, ai nhập tâm, y giáo phụng hành thì sẽ được lợi ích.
Nhiều năm giảng như vậy, chỉ được số ít, khoảng ba hoặc bốn người làm theo. Họ không tranh tài mà có thể xả tài.
Không luận làm sự nghiệp gì, họ đều kiếm được tiền, trong khi người khác lỗ vốn. Ở đây cư sĩ Phó là một trong số ít những người đó, họ cứ xả ra, làm tài thí, pháp thí, vô úy thí, liều mạng mà làm. Ở Đài Loan cũng có một hai người, ứng dụng trong suốt mười mấy năm, nói với chúng tôi rằng thật hiệu nghiệm, Phật không gạt chúng ta. Bản thân chúng tôi cũng đã ứng dụng qua 50 năm, thực chứng hiệu nghiệm.
Người thế gian hy vọng được nhiều tiền của, hy vọng được thông minh trí tuệ, được khỏe mạnh sống lâu, mà không nghe lời đức Phật thì làm sao đạt được sở nguyện. Mỗi ngày tâm không bình, tâm oán hận, thì chẳng những không đạt được, mà mạng càng ngày càng bị tổn hại. Sau khi chúng tôi từ Nhật Bản trở về, nghĩ đến câu nói của Lão tử: “Hòa đại oán, tất hữu dư oán, an khả dĩ vi thiện”, có nghĩa “hóa giải xung đột sâu nặng”, là yếu tố mỗi người chúng ta đều phải có. Gia đình xung đột, vợ chồng xung đột, rộng hơn nữa là xã hội, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo xung đột, nên hóa giải xung đột là vô cùng cần thiết.
Không hóa giải thì phiền phức, đời đời kiếp kiếp oan gia đối đầu, không hề ngừng dứt, đôi bên đều thống khổ. Trong tâm thanh tịnh của chúng ta không có xung đột, nên chỉ cần xuất hiện xung đột nhỏ thì liền chướng ngại việc vãng sinh. Khi sắp vãng sinh, oan gia trái chủ tìm đến bên thân chúng ta để báo thù, không để chúng ta vãng sinh, đó cũng chính là ma chướng mà chúng ta thường nói đến.
Hôm qua, chúng tôi gặp một người đến từ Malaysia, người này bị ma dựa. Đây là trường hợp nghiêm trọng nhất trong rất nhiều người bị ma dựa, chúng tôi liền khuyên họ nên hóa giải, không hóa giải đời đời kiếp kiếp đôi bên đều chịu khổ, dày vò lẫn nhau. Thế gian này bao gồm cõi trời và nhân gian đều loạn. Nhân gian không dễ ở, cõi trời không dễ đi, tốt nhất vẫn là thế giới cực lạc. Thế giới cực lạc có thể đến được, vạn người tu vạn người được.
Không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật mà mười phương ba đời chư Phật thảy đều khuyên bảo chúng ta cầu sinh Tịnh Độ, nếu không tin tưởng, còn hoài nghi, thì đó là ngu si tột đỉnh, là Nhất Xiển Đề, người không có thiện căn mà kinh đã nói. Do đó chúng ta tiếp nhận lời khuyên bảo của tất cả chư Phật, ngay trong đời này nhất định phải sinh Tịnh Độ. Đã quyết tâm sinh Tịnh Độ thì còn có thứ gì không thể xả bỏ. Mọi thứ đều xả bỏ, không còn so đo với người, sống được một ngày trên thế gian thì cứ hoan hỉ với mọi người.
“Hằng thuận chúng sinh tùy hỉ công đức”, chúng sinh muốn thứ gì, tất cả đều tùy thuận, thì khi lâm chung chúng ta mới đi được. Nhất là những người trung niên trở lên, phải xem việc này là việc lớn trong đời. Khi đến bảy mươi tuổi thảy đều buông bỏ hết. Bản thân chúng tôi, một đời này cũng chỉ hướng đến hai từ “buông xả”, lời khuyên này hoàn toàn không dư thừa, vì lời thừa là tạo khẩu nghiệp, gây ra chướng ngại.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, 79 tuổi nhập Niết Bàn, tính theo tuổi ta là 80 tuổi. Thực tế thế gian này còn rất dài, nhưng bản thân chúng tôi đang đứng trước ngưỡng tuổi này nên cũng đã nghĩ đến lúc sắp ra đi. Khi chúng ta có quan niệm chuẩn bị này thì mới có thể buông bỏ, mới có thể không tranh với người. Ai cần danh, ta cho danh, cần lợi ta đưa lợi, muốn cả địa cầu này, chúng ta đều nhường tất. Sau đó hân hoan vui vẻ ra đi, chúc phúc cho người ở lại sống tốt và hòa thuận.
Đại sư Ấn Quang dạy người cầu sinh Tịnh Độ bằng cách dán chữ “Chết” lên trán để hàng giờ hàng phút tâm niệm mình sắp phải ra đi, đừng nên tranh giành, đấu đá. Cuộc đời như giấc mộng, rỗng không. Sáu trăm quyển kinh Đại Bát Nhã mà đức Phật giảng trong suốt hai mươi hai năm luôn lặp đi lặp lại câu “tất cả pháp không, sở hữu hết thảy đều không”. Khi thật sự thông hiểu, minh tường, tâm sẽ định, không còn tranh đua. Tâm định khai trí tuệ, việc xuất thế gian sẽ dễ dàng tường tận, đọc kinh cũng dễ dàng liễu ngộ.
Chúng ta không những phải xả cả địa cầu này, xả cả cõi dục, cõi vô sắc, mà còn phải xả luôn mười pháp giới. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật tất cả đều phải xả. Rời mười pháp giới mới có thể đến được Nhất Chân Pháp Giới, đây chính là sự buông bỏ mà Đại sư Chương Gia đã dạy chúng tôi. Vì sao chúng ta không ra khỏi được mười pháp giới? Vì chúng sinh sáu cõi không thể thoát khỏi luân hồi, họ không chịu xả luân hồi, đó là sai lầm.
Trong pháp giới vốn dĩ không có những thứ này. Những thứ này là từ vọng tưởng, phân biệt chấp trước biến hiện ra, nên chúng uyển tưởng, không có gì là chân thật. Chúng ta lấy giả cho là thật, cái thật thì lại hoàn toàn không biết. Rất đáng thương. Hiện tại chúng ta tuy ở trong vòng lẩn quẩn của sáu cõi, nhưng nếu muốn giúp chúng sinh cũng trong vòng lẩn quẩn, thì chúng ta phải thật sự hy sinh cống hiến bằng cách y giáo phụng hành. Hãy là tấm gương cho người noi theo.
Đời sống của bản thân chúng tôi rất thoải mái, nhiều hạnh phúc, bởi vì chúng tôi buông bỏ được. Trước lời hủy báng, chúng tôi cảm kích và thật tâm tán thán. Vì sao tán thán? Vì người hủy báng chính là ân nhân giúp ta tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng nếu không thể tiêu, về sau cũng phải tiêu ở ba đường ác. Ba đường ác từ nghiệp chướng của chúng ta mà biến hiện ra. Ác nghiệp ác chướng nhất định phải tiêu, không tiêu không thể kiến tánh.
Ba đường thiện cho chúng ta tiêu phước. Phước cũng phải tiêu, ác cũng phải tiêu. Sáu cõi không gì khác đó là tiêu nghiệp. Đến ba đường thiện để tiêu nghiệp thiện, ba đường ác để tiêu ác nghiệp. Tâm thanh tịnh không có ác cũng không có thiện, gọi là “chân thiện”. Trong kinh, đức Phật gọi “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, ám chỉ người thiện ác đều không có, đó là chân thiện. Vì vậy không nên nhầm lẫn, thiện ác chỉ là tương đối trong sáu cõi luân hồi. Khi trở thành Phật Bồ Tát thì thiện đó là “thuần thiện”.
“Thanh tịnh bình đẳng giác”
Ngày nay số người hoằng pháp, người tu hành quá ít. Người hoằng pháp phải thật tu, không chỉ chuyên tâm học kinh giáo mà còn phải dấn thân phục vụ thì mới có thể dạy người, giáo hóa chúng sinh. Thân phận xuất gia và tại gia là như nhau, hoàn toàn bình đẳng. Năm xưa Thế Tôn còn tại thế đã thị hiện cho chúng ta xem: một vị là Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện Phật xuất gia, một vị là cư sĩ Duy Ma thị hiện Phật tại gia. Đó là hai vị Phật đồng thời ở thế gian.
Hai vị này địa vị bình đẳng, không hề khác biệt. Tại gia và xuất gia có thể thành Phật như nhau, có thể hoằng pháp lợi sinh, phổ độ chúng sinh như nhau. Kinh Duy Ma Cật, các đệ tử lớn của Thế Tôn: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp,… nhìn thấy cư sĩ Duy Ma liền đảnh lễ ba lạy, nhiễu quanh phía hữu ba lần.
Điều đó cho thấy, do chúng ta si mê hoặc điên đảo, có phân biệt, chấp trước, khi vừa xuất gia mặc áo tu sĩ thì liền xem thường người tại gia. Thật sai lầm! Cho nên người xuất gia ngày nay tạo tội nghiệp nặng hơn thời trước. Nhiều vị tu hành không bằng người tại gia do không hiểu được đạo lý này, cho rằng khi vừa mặc y áo vào thì trở thành bậc bề trên, hơn tất cả, không ai có thể so sánh được.
Tâm ngạo mạn đã sinh thì tội nghiệp này sẽ rất nặng, chướng đạo bám theo. Phật pháp là bình đẳng, kinh Vô Lượng Thọ nói “thanh tịnh bình đẳng giác”, không bình đẳng với người là một sai lầm. Chúng ta phải cảm tạ Phật Bồ Tát đã thị hiện như tấm gương để chúng ta xem thấu.
Chúng ta nghe kinh đều biết, không tu mười hạnh Phổ Hiền thì không thể viên thành Phật đạo. Thứ nhất “Lễ kính chư Phật”, chư Phật đó chính là tất cả chúng sinh, là quá khứ Phật, hiện tại Phật, và vị lai Phật. Chúng sinh là vị lai Phật, muỗi kiến đều là Phật. Ai không đồng tình ý niệm này thì “Lễ kính chư Phật” không cách gì tu được. Chỉ trừ riêng ta là một phàm phu, tất cả đều là Phật, tình dữ vô tình đều là Phật, nghĩ như vậy mới có thể tu hạnh Phổ Hiền.
Chúng ta không vừa mắt cái này, thấy khó chịu cái kia thì làm sao có thể thành tựu “thanh tịnh bình đẳng giác” ở hiện tiền. Hạnh Phổ Hiền chính là “thanh tịnh bình đẳng giác”. Đã tu hạnh Phổ Hiền thì trong gia đình cũng không còn cảnh bất hòa xảy ra, vì đã xem người nhà của mình đều là Phật, đều là Bồ Tát, chỉ mình ta là phàm phu, nghiêm cung kính cẩn họ thì oan kết gì cũng đều được hóa giải.
Xung đột chỉ phát sinh khi ta cảm thấy mình được, người khác không được, xem thường họ. Do đó câu nói của Lão tử “Hòa đại oán tất hữu dư oán”, tu hạnh Phổ Hiền thì dư oán không còn, oan kết được triệt để hóa giải gọi là “lễ kính”, cung kính tất cả. Thường ngày chúng ta bái sám đều mở sám văn chỉ biết tụng niệm làu làu nhưng không ứng dụng hành trì, vẫn còn vừa mắt cái này, ghét bỏ cái kia, như thế là gạt mình gạt người. Trên gạt Phật Bồ Tát, dưới gạt tất cả chúng sinh, giữa gạt chính mình, làm gì có công đức. Sám hối như vậy không được hiệu quả gì, tâm không chuyển đổi không bằng niệm câu A Di Đà Phật.
“Xưng tán Như Lai”, vậy đối với tất cả chúng sinh chúng ta có phải xưng tán không? Chư Phật từ trên tướng mà nói, không có phân biệt, cho dù chúng sinh là thiện hay ác, đều bình đẳng lễ kính. Nhưng xưng tán Như Lai thì có khác biệt. Như Lai từ nơi “Tánh” mà nói, tương ưng với tánh đức là thiện, cần xưng tán; không tương ưng với tánh đức là bất thiện, bất thiện thì không nói, không hủy báng, cũng không tán thán.
Bồ tát Phổ Hiền đối nhân xử thế tiếp vật như vậy, ai tạo ác lớn, ngài không nói một câu; ai tạo việc thiện dù rất nhỏ, ngài liền tán thán. Chúng ta nên theo đó mà ứng dụng. Mỗi ngày chúng ta tụng “Nhất giả lễ kính chư Phật, Nhị giả xưng tán Như Lai, Tam giả quảng tu cúng dường…”, chúng tôi thấy thế thường hay cảm thán rằng “ngày ngày gạt Phật Bồ Tát”. Thời khóa sớm tối, sáng sớm gạt một lần, buổi tối lại gạt tiếp lần nữa. Mỗi ngày đều đặn gạt không thiếu một thời. Như vậy phỏng có công đức gì? Cho nên phiền não ngày một nhiều hơn, năm sau nhiều hơn năm trước, trí tuệ không khai mở, ngu si càng tăng.
3
Thực làm, sống mẫu mực, bền bỉ hóa độ chúng sinh
Lão cư sĩ Hạ Liên dạy chúng ta không gì khác hơn chỉ một câu nói “thật làm”, Phật dạy thế nào thì ta làm như thế đó, không nên quản việc người. Người khác có làm hay không không liên quan đến chúng ta Người khác là tâm luân hồi, tạo nghiệp luân hồi, nếu chúng ta giống họ, vậy chẳng phải tiếp tục tạo nghiệp luân hồi, tiếp tục hướng vào ba đường ác mà đi. Chúng ta nhất định phải y theo giáo huấn của kinh luận.
Phật dạy chăm chỉ nỗ lực hành trì. Bắt đầu từ tam phước, sáu phép hòa, mười nghiệp thiện mà làm. Làm không được thì các thứ khác không cần phải nói. Về già tự suy xét mình đã làm được hay chưa? Tam phước: “Hiếu thân tôn sư, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp” đã làm được chưa? chưa được thì phải học, “sống đến già, học đến già, học không hết”, nỗ lực mà học.
Phải bắt đầu từ gia đình, người học Phật là người mô phạm cho người khác, là mô phạm cho cả gia đình, là gia đình tốt nhất trong tất cả gia đình trên thế giới. Chúng ta học Phật mà không cảm hóa được người nhà thì việc học Phật đó không thành công. Cuộc đời chúng tôi đều gửi nơi nhà người, bản thân không có đạo tràng, đều ở nhờ người khác, phải nghe người khác, thực tập “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”.
Sau khi rời Singapore, hiện tại ở Châu Âu xây dựng một đạo tràng nhỏ, trong đó khoảng vài chục người ở. Hiện tại chúng tôi đang dạy họ, khuyên họ đối đãi bình đẳng, hòa thuận với nhau. Nếu họ không hòa thì đạo tràng đó chúng tôi xin tặng cho họ, tự mình sẽ đi tìm nơi khác. Vì họ không hòa thuận, xem như giáo học của chúng tôi thất bại triệt để, còn mặt mũi nào xuất hiện nơi đó nữa.
Tặng họ nơi đó để báo ân Phật tổ, báo ân Quán Trưởng Hàn, người tiếp nhận họ vào. Sau khi bà vãng sinh, những người này đã không có chỗ để đi. Chúng tôi sẽ lo cho họ được an ổn, giao phó rồi sẽ tự đi tìm chòi tranh nhỏ, đạm bạc tình đồng đạo, cuối đời cùng nhau tu học.
Cho nên chúng tôi rất mong muốn áp dụng giáo huấn của Đại sư Ấn Quang vào thời đại này, đạo tràng chỉ nên nhỏ, không vượt quá hai mươi người, không hóa duyên, không làm pháp hội, không làm kinh sám Phật sự, mọi người chỉ cùng ở với nhau chăm chỉ niệm Phật, một lòng một dạ cầu sinh Tịnh Độ. Người thực sự hữu duyên, có thể buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, cùng tu học với nhau.
Chúng tôi ở thế gian này, nhiệm vụ chân chính là giảng kinh thuyết pháp, đem kinh điển giảng giải tường tận, giới thiệu đến mọi người, cho nên việc giảng kinh không thể gián đoạn. Chúng tôi muốn lập chòi tranh nhỏ, một tịnh xá nhỏ, trong đó có một góc thu hình, hiện tại thể lực có thể giảng bốn giờ mỗi ngày, chúng tôi sẽ tiếp tục giảng trong đạo tràng nhỏ này. Sau đó thu đĩa, giao đến khắp nơi để mọi người cùng xem. Đó là báo ân Phật, báo ân chúng sinh. Tu hành là việc của chính mình, hiện tại phải nỗ lực, không nên giải đãi. Vì khi giải đãi, thì việc vãng sinh bị chướng ngại, cho nên việc gì cũng phải thật làm.
Truy nguồn gốc của xung đột để tìm cơ sở hóa giải
Sau khi từ Nhật Bản trở về, chúng tôi đã viết ra bức hoành gồm hai câu của người xưa: “Đồ tri hòa kỳ đại oán, nhi bất tỉnh kỳ đại oán chi sở do hưng”, có nghĩa là chúng ta chỉ biết hóa giải tranh chấp, xung đột nặng nề mà không biết được cội gốc của tranh chấp xung đột ở nơi đâu. Câu thứ hai là “Tuy hòa chi dĩ chí công, nhi bất miễn hữu dư oán”, có nghĩa là dùng công bình, công chánh để hòa giải. Bức này in xong sẽ tặng đến mọi người.
Tình huống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, ngoài mặt đã hóa giải nhưng trong lòng vẫn còn oán hận, vịêc này sẽ khó. Oán hận của chúng ta sinh ra từ tình chấp, cảm tình chấp trước. Tình chấp do mê mất đi bổn tánh. Trong bổn tánh không có tình chấp, mê mất đi bổn tánh mới sinh tình chấp. Cái tình này chính là phân biệt, chấp này chính là chấp trước mà kinh giáo Đại thừa gọi là tám thức, 51 tâm sở.
Trong tám thức, A Lại Da là khởi tâm động niệm, Mạt Na là chấp trước, thức thứ sáu là phân biệt, cũng là tình chấp. Sau khi mê mất đi tự tánh, đem tự tánh biến thành tám thức, gọi là tình chấp. Trong A Lại Da gom chứa từ vô lượng kiếp đến nay kết thành chủng tử. Vì vậy cái dư oán này không thể hóa giải. Tự tánh vốn không mê vọng, làm gì có oan kết. Cho nên muốn hóa giải oán kết, mỗi người đều phải tu phá phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, đến cảnh giới báo độ của chư Phật, “thật báo trang nghiêm độ của Chư Phật”. Đây gọi là giải quyết triệt để cứu cánh viên mãn, việc này tương đối khó.
Ngoài ra còn phương pháp khác, đó chính là mang nghiệp vãng sinh, sinh đến thế giới Tây phương cực lạc, thì vấn đề này cũng được giải quyết cứu cánh viên mãn. Cho nên câu nói của Lão tử, chúng ta biết, ngay trong một đời này, nếu không sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc thì rất khó hóa giải. Vì cái tình kết trong A Lại Da thức không thể khai mở.
Chúng ta xung đột với tất cả chúng sinh trên thế gian, phiền phức rất lớn, đời đời kiếp kiếp khổ không nói ra lời. Chúng ta có thể đi đến thế giới Tây Phương cực lạc, sau khi đi sẽ trở lại, thừa nguyện tái lai, giúp đỡ những chúng sinh khổ nạn. Tình kết mê đã quá nặng, là gốc của khổ nạn, chúng ta đến giúp đỡ, làm người hòa giải. Chư Phật Bồ Tát ứng hóa ở mười pháp giới không gì khác hơn là làm người hòa giải.
Cho nên câu thứ nhất này, “Đồ tri hòa kỳ đại oán, nhi bất tỉnh kỳ đại oán chi sở do hưng”, ý tứ sâu sắc vô cùng, cho thấy việc học Phật nếu không thành tựu thì không thể giải quyết được vấn đề của chính mình.
Vua Thương Thang, một bậc thánh nhân đã từng nói “Vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung”, người trong thiên hạ có tội, tội đó do ta. Bởi vì ông là quốc vương, nhân dân có tội, cũng vì quốc vương không dạy tốt. Chúng ta thể hội ý này, quay đầu nhìn lại gia đình mình. Một người trong gia đình không tốt, thì chính ta có tội, không thể trách cha mẹ, anh chị em.
Giác ngộ mà không thể cảm hóa được người nhà thì có tội, lỗi ở chính mình. Thánh nhân không giống người thường. Người thường quy đúng về ta, quy lỗi cho đối phương, như vậy là đại tội, không tội nào nặng hơn. Người lãnh đạo bất cứ đoàn thể nào, đoàn thể không tốt thì người lãnh đạo có tội. Trách nhiệm của người lãnh đạo gói gọn trong ba chữ: “Quân, Thân, Sư” Chỉ cần làm tròn ba chữ này, công đức vô lượng.
Quân là lãnh đạo, kế hoạch chiến lược, dẫn dắt. Thân là chăm lo, nuôi dưỡng. Sư là giáo dục, nếu giáo dục không tốt, chúng ta không thể giải quyết vấn đề đời sống của nhân dân, không thể lãnh đạo, tội lỗi sẽ rất nặng. Lời nói của vua Thang rất có đạo lý, người lãnh đạo các cấp trong xã hội nên hiểu ý này. Ngoài ra Trang tử, là một dân thường cũng nói “dĩ đắc vi tại nhân, dĩ thất vi tại kỷ”
Trong hội nghị ở Cang Sơn chúng tôi đã dẫn hai câu nói trên, nếu chúng ta làm công tác hòa bình thì phải chuyển đổi quan niệm, người khác đều đúng, lỗi lầm là chính mình. Nói người khác sai là ta sai, người khác đúng là ta đúng. Những người tham dự sau khi nghe rất cảm khái và cho rằng quá khó. Khó cũng phải làm. Đây chính vì thế giới an định hòa bình mà cống hiến.
Chỉ nói trên miệng, kêu gọi hòa bình, kêu gọi an định, thì hòa bình an định không thể được thực hiện. Người làm công tác hòa bình cần ưu tư điều này. Trung quốc có một thánh nhân là vua Thuấn, vua Thuấn nhìn thấy mọi người đều đúng, chỉ có mình sai, cho nên mỗi ngày phản tỉnh, mỗi ngày thay đổi, tự làm mới, trở thành đại thánh nhân.
Cuối cùng, tất cả chúng ta hãy đồng khích lệ lẫn nhau. Người xưa nói “nhiên tắc thánh nhân, thường thọ thiên hạ chi trách” là người tốt, học thánh hiền, đi con đường chánh pháp, ắt sẽ có nhiều người đố kỵ, hủy báng, nhục mạ, chúng ta phải chịu trách cứ của thiên hạ, không nên phát khởi oán hận trách cứ người khác thì oán hận từ vô lượng kiếp mới có thể hóa giải được.
Pháp Sư Tịnh Không
Cẩn Dịch : Vọng Tây Cư Sĩ
Biên Tập : PT. Giác Minh Duyên
(http://tinhkhongphapngu.com)
Người gửi bài: Nguyễn Thành Chiến
HT. Tịnh Không
1
Ngày nay, tuy đời sống vật chất phong phú nhưng lại thiếu kém về mặt tinh thần, tâm linh trống rỗng, không nơi nương tựa. Trong khi thời xưa, đời sống tinh thần lại có phần sung túc hơn. Nguyên nhân do đâu? Và làm thế nào để cải thiện? Giáo dục cổ nhân
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “nhân dữ cầm thú cơ hy”, con người là động vật, cầm thú cũng là động vật. Con người và cầm thú khác biệt nhau chính ở giáo dục, hay nói cách khác, nếu con người không được giáo dục, đời sống sẽ không bằng cầm thú. Không ít người đã từng nghiệm chứng, cảm thấy mình là người nhưng không an nhàn tự tại.
Con người là vạn vật chí linh, điều đáng quý nhất là chúng ta có năng lực tiếp nhận sự giáo dục, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, biết cách sống hòa thuận với nhau và với những loài động vật khác, hòa mình cùng đại tự nhiên. Nếu không thông hiểu sẽ không thể đem bổn phận con người dấn thân một cách tốt đẹp. Được như vậy, cuộc sống mới có giá trị, có ý nghĩa; đời sống tinh thần mới được đầy đủ. Cách giáo dục của nhà Nho, cụ thể là Khổng Lão phu tử, các khóa mục cũng rất có thứ tự trong đó “đức hạnh” được xem là mối quan tâm hàng đầu.
Đức hạnh là yếu tố cơ bản để làm người, cũng chính là luân lý đạo đức mà chúng ta thường đề cập. Nếu vứt bỏ luân lý đạo đức, con người sẽ không khác gì loài động vật, mà cổ nhân thường ví von: “cầm thú mặc quần áo”. Thân tướng con người, mặc y phục con người, đội nón người,… nhưng tâm hạnh lại chẳng khác gì các loại động vật; đối với chân tướng của vũ trụ nhân sinh, không hề biết một tí gì. Nhà Phật gọi hiện tượng đó là “thọ báo”, người không những bị thọ báo mà còn tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, quả khổ không thể nào ước lượng được. Việc này chỉ cần tỉ mỉ quán sát, chúng ta có thể nhận ra và khẳng định. Do đó “giáo dục đức hạnh” là căn bản của giáo dục.
Thời xưa, bậc tiểu học, từ một đứa trẻ bảy tuổi rời khỏi cha mẹ phải theo thầy, sống chung với thầy. Thầy giáo không chỉ dạy học mà còn giáo dục ngay trong đời sống. “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”, thầy giáo là tiêu chuẩn sống, hình tượng sống. Học trò cùng sống với thầy phải hướng đến thầy để học tập. Học từ đời sống của thầy, học cách đối nhân xử thế. Tiểu học chú trọng đến giáo dục đời sống, dạy cách tưới nước quét nhà, dạy tôn kính sư trưởng, hiếu thuận cha mẹ, thương yêu anh em, dạy điều cơ bản của luân thường, dạy về “trung hiếu tiết nghĩa”, “ngũ luân bát đức”.
Nếu không đủ năng lực, học trò sẽ chỉ được yêu cầu thuộc ít bài hơn. Thiên tư bậc nhất một ngày có thể học thuộc khoảng 700 chữ. Thiên chất trung bình có thể học thuộc 400 chữ mỗi ngày. Sau khi đã thuộc bài, thầy giáo lại yêu cầu đọc 100 lần, 200 lần cho đến thông thuộc làu làu. Vì sao cách giáo dục thời xưa lại bắt đọc nhiều biến đến vậy?, tuổi thơ sức nhớ rất tốt, sau khi đọc như vậy sẽ ghi nhớ cả đời. Do đó giai đoạn tiểu học, các vị thầy lợi dụng năng lực ghi nhớ thiên chất để buộc học trò phải ghi nhớ những điều cần thiết. Điển tích văn chương của Cổ Thánh Tiên Hiền cũng đều dạy thuộc lòng ở giai đọan tiểu học.
Người Trung Quốc thường gọi là tiểu đại nhân. Không giống tuổi trẻ được giáo dục ở phương Tây ngày nay, hoạt bát, hồn nhiên, phương Đông giáo dục trẻ thơ như người lớn, cử chỉ đoan chính, một chút cũng không dám tùy tiện. Thế nên điều đó dễ phát sinh trí tuệ, mười ba tuổi vào thái học. Thái học thuộc giáo học Trung Quốc, tương đương đại học hiện nay. Phương pháp dạy thái học hoàn toàn là giảng giải, nghiên cứu, thảo luận. Thầy giáo dạy học sinh đi vào thực tiễn, không cần sách vở. Vì sao? vì những điều giảng nói, học sinh đều đã thuộc lòng. Thầy giáo chỉ nêu ra bộ sách nào, ví dụ “Lễ ký”, chương nào, dòng nào, các học trò đều có thể đọc ra được.
Thầy giáo dạy học không cần mang giáo trình, học trò nghe giảng cũng không cần ghi chép. Thầy trò có thể cùng đi du ngoạn, vừa đi vừa nghiên cứu thảo luận, sau ba tháng quay về thì môn học đó cũng đã hoàn thành theo cách thức “đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường”. Những vấn đề khó hiểu trong kinh điển được thầy giảng nghĩa. Nơi nào được đề cập trong kinh điển, thầy trò cùng đi đến để tham quan, khảo sát thực tế, học vấn chân thật.
2
Ngày nay, trong cuộc sống thường nhật, trong đối nhân xử thế, chúng ta thực tiễn áp dụng phương cách của người xưa, đó gọi là chân trí tuệ, chân học vấn.
Lịch sử đã có rất nhiều người tuổi chưa tròn hai mươi đã là đồng tử, tiến sĩ, cử nhân. Tiến sĩ, cử nhân năng lực thời bấy giờ được phân bổ đến địa phương, làm trưởng huyện thị, quan phụ mẫu địa phương, đưa ra những chính sách tối ưu. Những năm đầu dân quốc, chúng tôi biết một vị đệ tử của Phật môn, tên Trương Lân, có lẽ bây giờ ông đã tịch. Trương Lân làm huyện trưởng khi tuổi vừa tròn 19.
Giáo học cổ xưa Trung quốc khác với phương thức hiện tại ở chỗ chú trọng vào học vấn thiết thực, khóa mục đơn giản, dạy làm người, vì dân phục vụ. “Học nhi ưu tắc sĩ”, quốc gia bồi dưỡng nhân tài, tuyển chọn trưởng địa phương với tiêu chuẩn “hiếu liêm”. Phương cách tuyển cử thời xưa cũng không phải do toàn dân tuyển cử mà do quan viên địa phương tuyển cử.
Triều đại xưa ban thưởng rất cao cho các thị trưởng địa phương nếu có thành tích tiến cử nhân tài. Mão quan cũng biểu trưng cho khuynh hướng này. Mão các quan thị trưởng địa phương không giống như mão thông thường. Mão được thiết kế dạng bậc thang, phía trước thấp hơn một tầng, phía sau cao hơn một tầng, gọi là mão tiến hiền, với niềm hy vọng đời sau cao hơn đời trước một bậc. Mão Đế Vương có hình chuỗi ngọc, biểu thị tâm bình đẳng đối với toàn dân.
Quan thị trưởng địa phương là người thay quốc gia đề bạt nhân tài. Họ phải đi điều tra hiếu liêm, hiếu tử, trung thần xuất thân từ người con hiếu. Con người hiếu thuận cha mẹ nhất định sẽ trung thành với quốc gia, quan tâm nhân dân, tận tâm tận lực, liêm khiết không hề tham ô. Quốc gia tuyển chọn nhân tài dựa trên hai tiêu chuẩn: tận trung, gánh vác trách nhiệm; và liêm khiết, không tham ô. Khi được tiến cử, những người con hiếu thuận ấy lại được bồi dưỡng, giáo dục.
Vì thế đời sống tinh thần người xưa khá dồi dào dù đời sống vật chất tuyệt nhiên không quan trọng. Các quan lớn thậm chí đến thừa tướng, khi về già, đa số vẩy hai tay sạch không, không có thứ gì. Họ trở về cuộc sống bần hàn, thanh cao, được xã hội tôn kính. Họ làm quan nhiều năm, không tham ô, mong cầu phú quý cho bản thân mà dốc toàn tâm toàn lực vì quốc gia trăm họ. Cả cuộc đời sống ý nghĩa, có giá trị, vì vậy đời sống tinh thần của họ đương nhiên đầy đủ, biểu hiện ngay trong đời sống “ý sách tình thơ”.
Con người trong hiện tại tuy phú quý, địa vị, nhưng thực chất họ chẳng khác những cỗ máy, không hưởng thụ, ngày ngày sống trong lo lắng phiền não, sợ được sợ mất, khổ không nói ra. Do đó vạn nhất không nên hiểu lầm rằng nghèo là khổ. Đôi khi giàu sang phú quý còn khổ hơn bội phần. Giàu không vui, không bằng nghèo mà vui; quý không an, không bằng nghèo mà an. Nghèo có an lạc, trong khi người phú quý lại không có an lạc. Nguyên nhân do đâu? Đều do giáo dục. Nếu nhận sự giáo dục truyền thống Trung Quốc, nhận được sự dạy bảo của Phật pháp, thì bất luận là người ở tầng lớp nào, phú quý hay bần tiện cũng đều có thể an lạc, đều có thể đạt đời sống tinh thần dồi dào phong phú.
Cầu tiền của cho bản thân không làm chúng ta hạnh phúc, địa vị cũng không làm ta mỹ mãn nếu không có nền tảng của giáo dục luân lý, giáo dục của Phật pháp.
Chúng ta có thể sanh đến ngoài Thái không, cũng như chúng ta có thể sanh đến thế giới Tây phương cực lạc. Đó là tận hư không khắp pháp giới, là khoa học đạt đến đỉnh cao. Hay nói cách khác, nơi đó bao gồm tất cả thọ dụng tùy tâm sở cầu. Muốn ăn thức ăn, thức ăn lập tức bày ra trước mặt, đây là kỹ thuật chân thật đạt đến đỉnh tối cao. Như chúng ta biết, khoa học cho rằng vật chất do năng lượng biến hiện, nhưng khoa học không lý giải được cách thức biến hiện.
Thế giới Tây phương cực lạc, ý niệm chuyển biến vật chất, muốn ăn gì, năng lượng liền biến thành thứ ấy, không muốn ăn nữa, cũng không cần dọn dẹp, năng lượng tự động làm vật chất biến mất. Hiện tại chúng ta phải dùng phi cơ, hỏa tiễn,… làm phương tiện di chuyển. Thế giới cực lạc du lịch thái không, nghĩa là không dùng phương tiện, chỉ nghĩ đến đâu, thân liền đến nơi đó. Tự tại đến vậy. Phát nguyện đến tận hư không pháp giới cõi nước chư Phật, chúng ta sẽ nỗ lực để thực hiện được.
Cho nên, học Phật trước hết phải làm người tốt. Đừng ngồi hy vọng trở thành Phật, Bồ tát mà phải hành thiện. Cụm từ “Đốn luân tận phân” của đại sư Ấn Quang có ý nghĩa rất sâu sắc. Chúng tôi tạm giải nghĩa là “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Chúng ta có thể dùng tâm này để đối nhân xử thế tiếp vật, tất cả gọi là “đốn luân”. Đem chức vị công việc của mình dấn thân phục vụ chính là “tận phân”.
Đức Phật dạy, bổn phận của người xuất gia là “thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói”. “Thọ trì” là tuân thủ lời giáo huấn của Phật trong kinh điển, y giáo phụng hành. “Đọc tụng”, là mỗi ngày ôn tập lời giáo huấn ấy, không thể quên được. “Vì người diễn nói” là biểu diễn, làm gương cho kẻ khác; vì người khác giảng giải. “Tận phân”, chúng ta phải dốc hết bổn phận, làm từ thiện, thức tỉnh chúng sinh giác ngộ. Giúp đỡ chúng sinh giác ngộ mới thật là từ bi cứu giúp.
“Từ tế” có ý nghĩa rất sâu rộng, tặng một ít lương thực, quần áo, đó chỉ là tiểu từ tế. “Vì người diễn nói” là đại từ tế. Phật phổ độ chúng sinh chín pháp giới, chúng ta thông hiểu đạo lý phải biết nên làm thế nào để tất cả chúng sinh đều có thể giác ngộ. Chúng sinh khi được giác ngộ, tất cả tai nạn của thế gian đều được hóa giải, được tiêu trừ. Người giác ngộ khi đó mới thật sự hạnh phúc. Không giác ngộ thì dù ở địa vị cao, tài sản vật chất đủ đầy nhưng họ không cảm thấy mỹ mãn. Cho nên giáo dục của nhà Phật rất chú trọng hai chữ “giác ngộ”.
Giác ngộ triệt để, viên mãn, cầu sanh thế giới Tây phương cực lạc, cầu sanh tịnh độ, học tập với đức Phật A Di Đà, cũng có thể phát đại nguyện, giúp đỡ tất cả chúng sinh khắp hư không pháp giới với tâm lượng chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, và từ bi. “Nói lời tốt, làm việc tốt, làm người tốt” là mô phỏng chân chính của Phật Bồ Tát. “Vì người diễn nói”, gương mẫu cho xã hội đại chúng nhìn vào. Chúng tôi đi khắp nơi giảng kinh đề xướng bốn tốt: “Nói lời tốt, làm việc tốt, làm người tốt, giữ tâm tốt”, “tâm tốt” chính là: “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Đấy mới thật là “học vi nhân sư, hành vi thế phạm”, cứu độ chính mình cũng là cứu độ tất cả chúng sinh.
3
Một vấn đề rất nhiều vị đồng tu quan tâm, đó là vấn đề xã hội. Nhiều người thường đi xem tướng, đoán mạng. Việc này có nên không? Đáp án của chúng tôi là không nên.
Người chân thật thông hiểu sự lý này dù gặp tai nạn to lớn đến đâu, họ cũng sẽ không oán trời trách người. Dù hành thiện cả đời, tận trung báo quốc, nhưng cuối cùng lại gặp nhiều bất hạnh, họ cũng hiểu rằng “sự thọ nhận đời này là do đời trước tạo” nên hoan hỉ vui mừng mà tiếp nhận. Nhân quả thông qua nhiều đời, không chỉ một đời. Đời này làm, đời này nhận gọi là “hiện báo”; đời này làm đời sau nhận Phật pháp gọi là “sinh báo”; đời này làm, nhiều đời sau nhận gọi là “hậu báo”.
Thời gian của hậu báo có lúc rất lâu dài. Cho nên Phật pháp thừa nhận, mỗi chúng sinh đều có vận mạng, nhưng không gọi là “túc mạng”
Người ta đi đoán mạng, xem tướng đều có thể xem được rất chuẩn là vì, vận mạng tuy là biến số nhưng mức độ thay đổi không lớn, cự ly tiêu chuẩn lên xuống không đáng kể, do đó chúng ta xem được tương đối chuẩn. Nếu người đó hành đại thiện hay đại ác, biến số dao động quá lớn, sẽ không đoán được. Vậy phải làm thế nào để thay đổi vận mạng? Hành thiện lánh dữ.
Vậy phong thủy tốt là hoàn cảnh mà chúng ta ở đó, cảm thấy vừa lòng, thoải mái.
Vậy thảy có được gọi là phong thủy? Những việc này có thể thay đổi, không cần người khác, lại càng không cần mời thầy địa lý đến để bố trí lại.
Chúng tôi thường khuyên người đừng gắp thức ăn, chúng tôi không chịu sự xếp đặt của người khác, có vẻ rất khó nghe. Nhưng nghe rồi liền giác ngộ, liền thông suốt. Chúng ta thích món gì thì khi ăn mới đạt tự tại. Tương tự hoàn cảnh sinh hoạt của mình cũng không nên nghe người khác xếp đặt. Chúng ta tự chọn lựa, cân nhắc, đắn đo, như thế mới được gọi là hiểu phong thủy.
Đạo lý vốn như vậy, người hiểu rõ đạo lý sẽ không chịu sự xếp đặt của người khác, chính mình hoàn toàn tự chủ bản thân.
Vì vậy phải thật thấu hiểu, hà tất phải đi xem phong thủy. Chúng ta chỉ cần chuyên tu phước huệ. Có phước, không luận đến nơi nào, phong thủy sẽ tùy theo ta mà chuyển. Nhà Phật nói “cảnh tùy tâm chuyển” cũng vì đạo lý này. Tâm thiện, hoàn cảnh cư trú không tốt cũng sẽ dần dần biến tốt. Ngược lại, tâm bất thiện, hành vi bất thiện thì dù cư trú nơi phong thủy thật tốt, chúng ta vẫn gặp điều xấu. Vì vậy hãy giữ tâm tốt, hành việc tốt, làm người tốt để được hanh thông trong cuộc đời.
của Lão pháp sư Tịnh Không)
Cẩn Dịch : Vọng Tây Cư Sĩ
Biên Tập : PT. Giác Minh Duyên
(http://tinhkhongphapngu.com)
Người gửi bài: Nguyễn Thành Chiến
CHÁNH TRI KIẾN
HT. Tịnh Không
“Tri kiến” rất quan trọng, chính là “Chánh tri chánh kiến”. Cương lĩnh tu hành của pháp môn niệm Phật chúng ta là “ Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”.
“ Phát tâm Bồ Đề” chính là Chánh tri chánh kiến, cho nên chưa có Chánh tri chánh kiến, cho dù làm đến được một lòng chuyên niệm, cũng rất khó vãng sanh, cái điểm này rất then chốt. Thành thật mà nói, nếu chưa có Chánh tri chánh kiến, tuy là một lòng chuyên niệm, cũng rất khó mà thành tựu. Bởi vì một là nhất tâm, tâm có tạp niệm thì không phải nhất tâm, xen tạp chuyên niệm Phật A Di Đà, tất cả pháp môn khác đều buông bỏ, dường như là một lòng chuyên niệm, kỳ thật không phải vậy, bạn vẫn còn xen tạp vọng tưởng, còn xen tạp lấy phiền não, cho nên vẫn là không thể thành tựu. Có thể biết trong việc tu hành, Tri kiến rất là quan trọng.
“ Tri kiến” nếu dùng lời hiện đại mà nói, chính là “ nhận thức”, nhận thức đối với Phật pháp, nhận thức đối với pháp thế gian. Có nhận thức chuẩn xác, chính là Chánh tri chánh kiến. Phật pháp ở thế gian giáo hóa chúng sanh, không gì khác hơn, chính là giúp đỡ tất cả chúng sanh xây dựng “Chánh tri chánh kiến”, có được chánh tri kiến rồi, thì tu hành sẽ rất dễ dàng. Cho nên tu hành ở mỗi cá nhân, nếu không thể khắc phục được phiền não, không thể khắc phục được tập khí, vấn đề vẫn là ở trên Tri kiến. Do đó, khi vừa mở đầu “ Kinh Pháp Hoa”, Thế Tôn liền đem tông chỉ của giáo học nói ra: “ khai thị ngộ nhập, Phật chi tri kiến”. Phật vì chúng ta khai thị, chúng ta chính mình phải có năng lực ngộ nhập. “ Ngộ” là hiểu rõ, “ nhập” chính là chân thật làm đến được. Cũng chính là đem Chánh tri chánh kiến dung họp, có thể cùng với đời sống của chính mình hòa thành một thể, nên gọi là dung họp, thường gọi là chứng quả, “ nhập” chính là ý nghĩa của sự chứng ngộ.
Chúng ta chính mình tu học cũng phải có mục tiêu, có một tiêu chuẩn. Mỗi năm phải có tiến bộ hơn, như vậy thời gian sẽ không bị luống qua. Người học Phật có tiến bộ hay không, phải dựa vào hai điểm sau đây, để làm phản tỉnh, kiểm cho chính mình:
Thứ nhất là khai mở trí tuệ. Cũng chính là vừa rồi đã nói, là “Chánh tri chánh kiến”, càng ngày càng rõ ràng, tường tận. Đạo lý trong kinh điển đã nói, ngày nay hiểu rõ hơn ngày trước rất nhiều, sự lãnh ngộ được nhiều hơn.
Thứ hai là đoạn phiền não. Vọng tưởng, phiền não, tập khí nhẹ hơn so với trước. Nếu như trí tuệ không tăng trưởng, phiền não tập khí vẫn còn rất nặng, thì năm này đã uổng đi qua.
HT. Tịnh Không
“Khẳng định hư không pháp giới tất cả chúng sanh chính là tự tánh”, đây chính là “ vào tri kiến Phật”, đó là chân tướng của Vũ trụ nhân sanh.
Đặc biệt là thời đại hiện tại, nếu không có sự nhận biết này, thì kiếp nạn của mình và tất cả chúng sanh, không cách gì tránh khỏi. Muốn nhận biết cái sự thật này, thì cần phải “Thâm nhập Kinh tạng”, mà kinh tạng thì tuyệt nhiên không phải là chỉ “ Đại Tạng Kinh”, mà là lời Phật dạy trong bất cứ bộ kinh điển nào, chân lý mà bộ kinh điển đó hàm chứa, thì có thể giải quyết được vấn đề. Chân lý hàm chứa trong bất cứ kinh luận nào cũng là như nhau, cho nên “ pháp môn bình đẳng, không có sai biệt”.
Tu học Phật pháp căn cứ vào bất cứ bộ kinh điển nào, đều có thể vào được tri kiến Phật. Cho đến chọn lựa một bộ kinh nào, một pháp môn nào, đó là duyên phận, căn tánh, yêu thích và hoàn cảnh sinh hoạt khác nhau của mỗi người. Chư Phật Như Lai vì người căn tánh lanh lợi giới thiệu “ kinh Hoa Nghiêm” “ Kinh Pháp Hoa”, vì người căn tánh trung hạ giới thiệu “ kinh Vô Lượng Thọ” nói cho cùng, chúng sanh căn tánh trung hạ thì vẫn chiếm đa số. Còn pháp môn Tịnh Độ không chỉ là một mình Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai đều giới thiệu, vậy còn có thể sai chăng? vấn đề chính là phải thâm nhập vào chân lý mà kinh tạng hàm chứa, và chân tướng vũ trụ nhân sanh mà kinh đã nói; nếu không thể thâm nhập, thì không thể hàng phục được phiền não tập khí, nếu không thể hàng phục được phiền não tập khí thì nhất định tạo nghiệp, tạo nghiệp thì quyết định tổn hại chính mình, cũng tổn hại tất cả chúng sanh.
Trái lại, giúp đở tất cả chúng sanh có cơ hội nghe được Phật pháp, có cơ hội tu học Phật pháp, đây là công đức bật nhất của thế xuất thế gian pháp. Ở thế gian tuy là có nhiều tiền của, khi chết một phân chia tiền cũng không thể mang đi, nên gọi là “ không mang được thứ gì, chỉ có nghiệp theo mình”. Cái gì có thể mang đi? giúp chúng sanh nhận được cơ duyên giáo hóa, thì công đức này có thể mang đi.
Ngày nay chúng ta có may mắn gặp được cái nhân duyên này, chân thật là “ trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp”, nếu chúng ta vẫn không biết nắm lấy, không biết được tu phước, trái lại còn tạo nghiệp, chướng ngại cái nhân duyên này, thì tội nghiệp sẽ rất nặng. Cho nên gặp được duyên phận rất thù thắng, rốt cuộc rồi là tốt, hay là không tốt, rất là khó nói, phải xem bạn dùng cái tâm thế nào. nếu bạn dùng là tâm thiện, bằng lòng thành tựu chúng sanh, đây là việc tốt. Nếu như chính mình có ý nghĩ muốn khống chế chiếm hửu, cái duyên phận này sẽ giúp bạn đọa vào địa ngục A Tỳ. Đây đều la sự thật, hòan tòan khác biệt ở trên sự nhận biết.
2
Ngay trong học trò của ngài, chúng xuất gia thường theo ngài là 1250 người, ngoài số này ra, không phải là những người thường đi theo còn đông hơn nhiều. có rất nhiều người đi theo Thích Ca Mâu Ni Phật, không muốn rời xa, mỗi ngày nghe Phật giảng pháp thậm thâm vi diệu. Chúng ta bỗng nhiên mới hiểu ra, nếu muốn được trí tuệ chân thật, không thể rời xa kinh giáo, phải ngày ngày nghe, phải ngày ngày giảng.
Sau khi nghe rồi, chính mình hiểu rồi, giảng cho người khác nghe. Thế Tôn cả một đời, dạy bảo chúng ta “ thọ trì đọc tụng, vì người giảng nói”, câu nói này đã nói ngàn lần vạn lần, chúng ta phải rất hoan hỉ, rất bằng lòng vì người khác giải nói.
Tôi học Phật đã 47 năm, kinh nghiệm của nhiều năm nói với tôi, chỉ có ngày ngày huân tập, một ngày cũng không được gián đoạn, chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày, đối nhân xử thế tiếp vật, mới không tùy thuận theo phiền não, cũng chính là sẽ không tùy thuận theo ý riêng của chính mình, bởi vì chính mình vẫn là mê, chưa giác ngộ.
Đến khi chính mình đoạn được phiền não rồi, mức độ thấp nhất là đoạn được Kiến tư phiền não, buông bỏ tất cả chấp trước, chứng được quả A La Hán, A La Hán gọi là chánh giác, cũng chính là tư tưởng kiến giải không thể có sai lầm, vậy mới có thể tin vào ý nghĩ của chính mình, Bồ Tát cao hơn A La Hán, là chánh đẳng chánh giác, cũng chính là đoạn được trần sa phiền não rồi, phân biệt cũng không còn, Phật là viên mãn nhất, vọng tưởng, vô minh đều không còn, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hiện tại luân lý đạo đức không còn nữa, bạn nói luân lý đạo đức với họ, không những họ không thể tiếp nhận, mà còn bài xích. Họ cho rằng tự tư tự lợi là đúng, hại người lợi mình là đúng, họ ở ngay trong đó có thể được lợi ích. Họ không biết được cái lợi trước mắt rất nhỏ, trong khoảng chớp mắt thì đã đọa vào địa ngục A Tỳ, đây chính là ngu si mà Phật pháp thường nói, không có trí tuệ mới có thể làm cái việc ngu này.
Người giác ngộ nhất định không có ý niệm tự tư tự lợi, nhất định không có ý niệm và hành vi khống chế chiếm hữu với tất cả mọi người mọi vật. Bởi vì họ chân thật hiểu rõ “ Tam tâm bất khả đắc”, “ vạn pháp đều không, nhân quả bất không”, cho nên không họ sẽ không khởi lên một niệm ác, sẽ không có hành vi sai lầm, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều tương ưng với pháp tánh, đây là gọi là “tánh” mà trong Phật pháp thường gọi, gọi Tánh chính là Phật tri Phật kiến, gọi Tánh chính là Phật ngôn Phật hạnh, thành tựu vô lượng vô biên công đức. Đem công đức này trang nghiêm pháp giới, trang nghiêm chúng sanh, đây gọi là chư Phật Bồ Tát.
Chúng ta học Phật phải làm thật, nếu gặp được việc chân thật lợi ích chúng sanh, vẫn còn nghĩ thử xem đối với mình có lợi ích hay sao? có đáng nên làm hay không? có cái ý niệm này là mê hoặc. Vì sao có thể có hiện tượng này? Thứ nhất thiện căn phước đức của mình không đủ, thứ hai ngoại duyên không đủ, ngoại duyên chính là cơ hội nghe kinh nghe pháp quá ít. Nếu như có người thường giảng cho bạn nghe, lâu ngày dài tháng, trong vô hình trung huân tập thành chủng tử. Đây là Phật chủng, Phật chủng chính là chủng tử giác ngộ. Chủng tử này nhiều rồi, thì sanh ra sức mạnh, khi bạn gặp được cơ hội thì liền nắm bắt, bạn nhất định sẽ không bỏ qua.
Tuổi tôi lớn như vậy rồi, ngày ngày vẫn phải giảng kinh, đều là vì chúng sanh; nếu là vì chính tôi, tôi có thể nghĩ hưu rồi. Trong sách xưa có ghi rằng: “ thất thập chí sĩ”, chí sĩ chính là hiện tại gọi nghĩ hưu, cáo lão về làng. Tôi cũng có thể nghĩ hưu, tìm một chổ thanh tịnh niệm Phật cầu vãng sanh, còn phải bôn ba cực nhọc làm gì? bởi vì những kinh giáo này không có người giảng, nếu có người giảng, tôi tuyệt đối sẽ không giảng nữa. Không có người giảng, vậy thì không thể không giảng, đây là hy sinh chính mình, giúp đỡ người khác.
Đệ tử Phật chân chính, không luận tại gia xuất gia phải học Phật, xuất gia phải học cao tăng, tại gia phải học cao sĩ, những cao tăng cao sĩ này đều là chư Phật Bồ Tát ứng hóa đến thế gian, vì chúng ta làm ra mô phạm điển hình tốt nhất. Chúng ta phải thấu hiểu, phải chăm chỉ nỗ lực mà học tập, thành tựu vô lượng vô biên công đức cho chính mình.
Pháp Sư Tịnh Không
Cẩn Dịch : Vọng Tây Cư Sĩ
Biên Tập : PT. Giác Minh Duyên
(http://tinhkhongphapngu.com)
Người gửi bài: Nguyễn Thành Chiến
08-30-2009 11:23:46
1
Discussion about this post