PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Mạc Vị Xuân Tàn Hoa Lạc Tận Đình Tiền Tạc Dạ Nhất Chi Mai

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

Mục lục

  1. Các bài kệ của Thiền Tông đều không đề vậy tốt nhất là đừng cố tìm lấy một đầu đề cho bài kệ của Mãn Giác.
  2. CHÚ THÍCH:
  3. (1) Thiền Uyển tập anh có nghĩa là gom góp những anh hoa của vườn Thiền.
Blank

Mai mơ Prunes Mume (Armeniaca Mume)

Trong lịch sử nước ta, triều Lý (1010-1225) là triều đại cường thịnh về quân sự, vững vàng về chính trị và rực rỡ về văn học. Mở đầu cho nền văn học viết, thơ văn đời Lý truyền lại được đến nay phần lớn chỉ ghi lại trong Thiền Uyển tập anh (1), tập sách do Thiền sư Kim Sơn thuộc Thiền phái Trúc lâm (2) viết vào năm 1337, đời Trần nhưng lại chủ yếu ghi hành trạng của các tăng sĩ đời Lý thuộc 03 dòng Thiền: Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu chi và Huệ phái Thiền sư Thảo Đường.

Các cao tăng đời Lý học rộng, tinh thông Phật pháp lại giỏi Hán học nên được triều đình kính nể. Đạo Phật được tôn vinh nên nhiều người muốn tìm học triết lý Phật giáo. Ngoài việc thuyết giảng, các nhà sư còn dùng “kệ”, một thể thơ nhà Phật nhằm truyền đạt những ý cao siêu uyên áo của Phật pháp bằng những hình ảnh, những câu thơ ngắn gọn sinh động mà dễ hiểu.

Thiền Uyển tập anh chép lại nhiều bài kệ (3) nhưng nổi bật nhất có bài sau đây của Đại sư Mãn Giác :

 Blank

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

“NHẤT CHI MAI” LÀ “MỘT CÀNH MAI” HAY “MỘT CÀNH MƠ” ?

Bài kệ chỉ có 6 câu, không có đầu đề;

Hoàng Xuân Hãn đã dịch ra quốc ngữ như sau:

“Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân lại nở trăm hoa.
Trước mắt sự đời thoảng,
Trên đầu hiện tuổi già.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Ngoài sân đêm trước một cành mơ. ”

Đọc bản dịch thơ của Hoàng Xuân Hãn, có người lấy làm lạ bởi sao câu cuối lại dịch : “một cành mơ”. Đáng ra chữ “nhất chi mai” phải dịch là “một cành mai ” ?.

Quả vậy, từ trước đến nay nhiều người vốn đã rất quen với bản dịch của Ngô Tất Tố :

Xuân ruổi trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước một nhành mai.

Cũng như nhiều bản dịch khác, Ngô Tất tố giữ nguyên chữ maitrong nguyên tác. Thật ra thì trong chữ Hán 梅 (mai) là cây mơ. Cây mơ ở Trung Quốc có nhiều, là loại cây ăn quả có hoa đẹp màu trắng, có khi hơi ửng hồng hoặc đỏ. Riêng nước ta, mơ có nhiều ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là ở vùng rừng núi động Hương Tích.

Ở Hương Tích, Nguyễn Bính đã từng tả “Thấp thoáng rừng mơ – cô hái mơ” và Chu Mạnh Trinh cũng đã viết : 

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái;

Lửng lờ khe Yến cá nghe kinh…”.

Mơ mọc thành rừng. Rừng mai đây chính là rừng mơ chớ không phải là rừng mai vàng như nhiều người lầm tưởng.

Thật vậy, vì điều kiện thổ nhưỡng, hoàng mai tức là cây mai vàng nở hoa vào dịp tết âm lịch  chỉ có từ Quảng Trị trở vào. Lãnh thổ nước ta vào thế kỉ XI lại chỉ mới đến chân đèo Ngang cho nên vào thời điểm ấy, xem như nước ta chưa thể có hoàng mai mà chỉ có hoa mơ… và hoa mơ trong thơ xưa vẫn gọi là hoa mai.

Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông có bài thơ Hoa mai :

“…Hoa bạc phau phau xâm khí tuyết,
Chồi xanh êu ếu lạt hơi may”

Sắc hoa bạc phau phau ở câu thơ chính là sắc trắng của hoa mơ.

Vậy mai trong lời thơ của Mãn Giác chính là cây mơ. “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” dịch là “Ngoài sân đêm trước một cành mơ” là đúng.

Một lí do nữa để lí giải:

Kệ của Thiền Tông khác với thơ nghệ thuật. Thơ nghệ thuật có thể tưởng tượng nên hình ảnh mà đưa vào thơ miễn là hợp lí và giàu chất thẩm mĩ; thậm chí ở thơ cổ điển, tả sự việc theo cách ước lệ thì có khi không có lá ngô đồng rụng, chẳng thấy cótuyết rơi …mà nhà thơ vẫn có thể tưởng nên cảnh thu với “giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”, tả mùa đông với tuyết phủ mơ màng… Kệ của Thiền Tông thì không phải như thế. Mọi việc, mọi vật trong kệ phải là thực tế nhãn tiền – vì vậy khi hoàng mai là loài hoa vốn không có ở nước ta vào thế kỉ XI thì chẳng thể nào Mãn Giác lại có thể đưa cành mai vàng rực rỡ ấy vào thơ được; chỉ có thể ở đây : một cành mơ, một thực tế cụ thể làm phương tiện cho trực giác.

Cành hoa mơ được Mãn Giác đưa vào bài kệ cũng do một dụng ý khác nữa là gợi cho người nghe nhớ lại truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” của Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu;

Sách “Tông môn tạp lục” đời Tống (960-1127) có kể lại câu chuyện:

Phạn Vương đến Linh Sơn hiến Phật cành hoa “Ba la” và thỉnh Phật thuyết pháp. Thế Tôn đăng tòa đưa cành hoa lên cho mọi người xem; tất thảy đều không hiểu ngài muốn nói gì, đều lặng thinh, chỉ có Kim Sắc Đầu Đà Ca Diếp tươi nét mặt và mỉm cười. Thế Tôn liền nói: Ta đã có Chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu tâm, Thực tướng vô tướng, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp…

Theo Thiền Tông, Phật im lặng đưa lên một cành hoa là cách “Dĩ tâm truyền tâm” và Ca Diếp đã đốn ngộ được chân lí.

MỘT LỜI THƠ NÓI ĐƯỢC CẢ TƯ TƯỞNG THIỀN TÔNG

Đạo Phật từ Trung Hoa truyền sang ta từ đời nhà Đinh, đến đời Tiền Lê đã phát triển mạnh. Đời Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh có tiếng là một nhà tiên tri và rất được triều đình kính trọng. SáchThiền Uyển tập anh chép: “năm Thiên Phúc thứ I (980) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta đóng quân tại Cương giáp, Lạng sơn. Vua mời sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, sư đáp “Trong vòng 3, 7 ngày, giặc phải lui”. Sau quả nhiên như thế.

Đến khi vua muốn đánh Chiêm Thành, việc bàn định chưa dứt khoát, sư tâu “Xin mau cất binh, nếu không ắt mất cơ hội”. Sau đánh quả nhiên thắng trận.”

Sang đến đời Lý, vua rất tôn sùng đạo Phật. Vua Lý Nhân Tông và Thái hậu Ỷ Lan rất mộ đạo Phật, thường mời các nhà sư nổi tiếng như Thông Biện, Mãn Giác, Chân Không, Giác Hải, Không Lộ vào nội cung để giảng kinh và đàm đạo. Các cao tăng này đều thuộc Thiền Tông là tông phái của Phật giáo Đại thừa. Thiền Tông không dùng nghi thức tôn giáo và các lí luận rườm rà về giáo pháp; chủ trương không phân tích chi li triết lí Phật giáo như các tông phái khác mà đề cao việc tìm đến chân lí bằng trực giác và dùng phương pháp toạ thiền để kiến tính. Trực giác là con đường ngắn nhất để đạt đạo đồng thời cũng là con đường khó nhất.

Các vương hầu đời Lý cũng quý trọng các Thiền sư: Lương Nhậm Văn, Lý Thường Kiệt, Vương Tại, Đoàn Văn Liệm, Phụng Càn Vương, Thiên Cực Công chúa… đều thường giao thiệp mật thiết với các cao tăng. Nhiều vị thiền sư lại là con cháu vua, hoàng hậu hay các đại thần nên có vị trí chính trị cao. Riêng Thiền sư Mãn Giác được vua Lý Nhân Tông và Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu thỉnh về trụ trì tại chùa Giác Nguyên bên cạnh cung Cảnh Hưng. Đến khi Sư viên tịch, vua kính lễ rất hậu, các công khanh đều tiễn đưa, làm lễ hỏa táng, thu xá lợi, xây tháp thờ tại chùa Sùng Nghiêm (làng An Cách). Mãn Giác là tên hiệu do Vua Lý Nhân Tông ban cho sau lễ hoả táng.

Sư Mãn Giác (4) là đệ tử chân truyền của Thiền sư Quảng Trí và là lãnh tụ pháp môn của dòng Thiền Vô Ngôn Thông, thuộc đời thứ 8.

Vô ngôn thông. “Không cần nói mà đạt đạo” là tôn chỉ của đạo Thiền. Không thuyết lí dài dòng; không nói nhiều, không kiến chấp, không ngộ nhận… chỉ lặng lẽ xem cuộc tuần hoàn: Xuân qua trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa nở/ việc đời qua trước mắt/ tuổi già đến trên đầu…bài kệ chỉ nêu sự việc làm phương tiện truyền đạt ý : Sự việc trước mắt là cái tất định của tự nhiên cứ tuần hoàn mà thay đổi.

Người theo Thiền chấp nhận định luật của tự nhiên, vô ngôn màphá chấp.

Nắm quy luật; biết tương lai: chớ nói xuân tàn hoa rụng hết/ đêm qua sân trước – một cành mơ.

Tương lai tận cùng của Phật pháp cũng như ở đạo Thiền là cõi niết bàn. Trong kiếp luân hồi có khi hoa tàn rụng cả nhưng cái suy tàn lại khởi đầu cho một tương lai mới. Cành mơ mới nở là hình tượng vô ngôn của niềm lạc quan vô biên mà tĩnh tại. 

KHÔNG NÊN ĐẶT ĐẦU ĐỀ CHO BÀI KỆ CỦA MÃN GIÁC THIỀN SƯ

Chúng tăng ghi bài kệ của Thiền sư Mãn Giác đọc lúc sắp mất và mãi đến 7 thế kỉ sau, Lê Quý Đôn mới chép lại và đặt tên:“Cáo tật thị chúng” nghĩa là có bệnh bảo mọi người (5). Sách vở nay cũng theo đó mà chép. Thật ra đầu đề này đã phá hết nghĩa sâu xa của bài kệ.

Lê Quý Đôn là nhà Nho đời Lê-Trịnh. Tư tưởng Nho giáo là tư tưởng nhập thế, cách nhìn cách nghĩ thường tập trung vào những lẽ được thua ở đời: khi gặp minh chúa thì nhập thế, giúp đời, khi bất phùng thời thì quay về ẩn dật. Lúc ẩn dật, nhà Nho thường nhìn việc đời bi quan. Khuất Nguyên tự trầm trên sông Mịch La cũng vì lẽ bi quan ấy.

Tư tưởng của Nho giáo và Thiền Tông không gặp nhau và có lẽ  vì thế Lê Quý Đôn đã chọn cho bài thơ đầu đề

“Có bệnh bảo mọi người”.

Hiểu bài kệ của sư Mãn Giác thì không nên nói đến chuyện “có bệnh” ở đây. Bài thơ nói “việc đời qua trước mắt; tuổi già đến trên đầu”…là hoàn toàn không có gì bi quan. Đã là Thiền sư thì không bi quan trước lẽ tử sinh. Tất cả sự việc xảy ra trong cuộc sống là hiện tượng. Thiền học dùng hiện tượng làm phương tiện đốn ngộ. Hãy đọc câu chuyện thiền Nhật Bản “Không nước; không trăng” :

Ni cô Chiyono đã tu nhiều năm, nhưng chẳng thấu đạt được chân lí. Một đêm, cô gánh nước về tu viện; vừa đi vừa ngắm ánh trăng rọi xuống mặt nước trong thùng. Bỗng nhiên, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến – không còn nước, không còn trăng. Chiyono hốt nhiên giác ngộ. Cô đọc bài kệ: 

“Bằng cách này hay cách khác, tôi đã cố giữ đôi thùng nước, 
Mong rằng chiếc đòn gánh dòn yếu kia sẽ không gãy 
Bất chợt, giây đứt thùng văng, 
Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước; 
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì, 
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì”.

Chiyono đốn ngộ được là nhờ trực giác cảm nhận từ cái rỗng không này. Những kiến chấp qua bao nhiêu năm tháng tu hành của cô không sánh được với trực giác nảy sinh từ cảm nhận nhất thời.

So sánh bài kệ của Mãn Giác với “Không nước, không trăng”  ta thấy có điểm giống: cả hai cùng trải qua thực tế nhãn tiền. Mãn Giác đại sư nhìn việc đời qua trước mắt/ tuổi già đến trên đầu là giống với ni cô Chiyono nhìn ánh trăng soi qua mặt nước trong thùng… rồi cái hiển hiện ấy bỗng tan biến mất – cái còn lại chỉ là “không”.

Bài kệ của Mãn Giác và câu chuyện Thiền Nhật Bản đều muốn truyền đạt chân lí thông qua trực giác. Mãn Giác muốn mọi người cảm nhận bằng trực giác từ cành hoa mơ; Chiyono thì dùng cái “không” – Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước”. Đây là những phương tiện của Thiền giúp người đời vượt qua kiến chấp để đến với chân lí, đến với cái “không”  tĩnh tại.

Vậy thì ở bài kệ của Mãn Giác: việc hoa tàn, hoa nở… việcchuyện đời trôi, tuổi già đến…, tất cả đều là vô thường, không có gì đáng bận tâm mà ngược lại là phương tiện của đốn ngộ.

Kệ cũng là kinh; kệ có khi dùng nhật tụng. Thiền Tông đọc kệđể ngộ đạo. Bài kệ của Mãn Giác nhằm giúp ngộ đạo bằng con đường trực giác vậy sao lại có thể truyền đạt cảm nhận bi quan “có bệnh” được? Cảm nhận này là không phù hợp với tinh thần lạc quan, yên nhiên của Thiền Tông.

Các bài kệ của Thiền Tông đều không đề vậy tốt nhất là đừng cố tìm lấy một đầu đề cho bài kệ của Mãn Giác.

CHÚ THÍCH:

(1) Thiền Uyển tập anh có nghĩa là gom góp những anh hoa của vườn Thiền.

(2) Thiền tông ( 禪 宗 ) là một tông phái của Phật giáo,  xuất phát từ Trung Quốc khoảng thế kỉ thứ 6, 7 khi đạo Phật kết hợp với tư tưởng Lão giáo. Thiền tông chủ trương dùng kinh nghiệm chứng ngộ, không bàn luận nhiều về lí thuyết. Thiền Tông sang nước ta từ lâu nhưng Thiền phái Trúc Lâm đến đời nhà Trần mới lập bởi vua Trần Nhân Tông.

(3) Kệ: còn gọi là thi kệ là những bài thơ mang nội dung truyền đạt tư tưởng nhà Phật. Kệ có khi chỉ là những câu rất ngắn như tục ngữ nhưng thông thường là những bài thơ, nhằm truyền bá tư tưởng nhà Phật. Thi kệ gần như là những bài thuyết pháp ngắn mà sâu sắc để dạy đệ tử.

(4) Thiền sư Mãn Giác (1052-1096), tên thật là Lý Trường (Thiền Uyển tập anh ghi là Nguyễn Trường là vì vào đời Trần, tất cả những người họ Lý đều chuyển ghi thành họ Nguyễn) người đất Lũng Chiền, làng An Cách, là con quan Trung thư Viên ngoại lang Lý Hoài Tố. Đời Lý Nhân Tông, vua thường cho con em các danh gia vào hầu hai bên, Lý Trường cũng được dự. Lớn lên tinh thông cả Nho và Phật học, lại thường chú  tâm vào Thiền học, được Nhân Tông và Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan quý trọng,  ban cho hiệu Hoài Tín…

Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5 (1096), sư cáo bệnh. Sau khi đọc bài kệ dạy chúng, sư ngồi kiết già mà mất, thọ 45 tuổi đời, 19 tuổi hạ. Vua tặng hậu lễ, công khanh mỗi mỗi đến dâng hương, trà tỳ xong, thu xá lợi xây tháp ở chùa Sùng nghiêm, làng An cách. Vua sắc thụy là Mãn Giác.

(5) *  Theo Thơ văn Lý Trần; tập I; NXB Khoa Học Xã Hội, 1977 thì  tên bài thơ “Cáo tật thị chúng” là do Lê Quý Đôn đặt.

(Tạp chí KIẾN THỨC NGÀY NAY  số Tất niên Kỉ Sửu ngày 01/ 02/ 2010)

Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10, Ban KHXHNV, tập 1 – Bộ 2; NXB Giáo Dục, 2003, ghi tiểu dẫn ở bài Cáo tật thị chúng: “Bài Kệ của Mãn Giác thiền sư vốn không có nhan đề. Nhan đề Cáo tật thị chúng là do người đời sau đặt.”
Nguyễn Cẩm Xuyên
(Văn Chương Việt)

 

Tin bài có liên quan

Ý Niệm Về Mùa Xuân Di Lặc

Ý niệm về mùa Xuân Di Lặc

Ý Niệm Sắc Xuân Nghệ Thuật Bonsai Nhật Bản

Ý Niệm Sắc Xuân Nghệ Thuật Bonsai Nhật Bản

Ý Nghĩa Ngày Tết – Thích Nữ Diệu Huệ

Y Hình Hoa Mai Hoa Đào

Y Hình Hoa Mai Hoa Đào

Xuân Viễn Xứ

Xuân Về Với Nếp Sống Đạo Đức Của Người Con Phật

Xuân Về Với Nếp Sống Đạo Đức Của Người Con Phật

Xuân Về Thay Áo Mới

Xuân về thay áo mới

Xuân Về Nơi Đất Khách

Xuân về nơi đất khách

Xuân Về Nguyện Ước Đạo Đời Viên Thông

Xuân về nguyện ước đạo đời viên thông

Xuân Về Ngẫm Đến Lẽ Thịnh Suy…

Xuân Về Ngẫm Đến Lẽ Thịnh Suy…

Load More

Discussion about this post

Tản Mạn Về Giống Hoa Mai Vàng Ngày Tết

Tản mạn về giống hoa mai vàng ngày tết

TẢN MẠN VỀ GIỐNG HOA MAI VÀNG NGÀY TẾT Trần Đăng Hồng, Ph D Người Việt thường lẫn lộn trong việc...

Tứ Cú Lục Bát: Pháp Nhiệm Mầu, Phiền Sầu Tiêu Tan

Tứ Cú Lục Bát: Pháp Nhiệm Mầu, Phiền Sầu Tiêu Tan

TỨ CÚ LỤC BÁT “PHÁP NHIỆM MẦU, PHIỀN SẦU TIÊU TAN” GIÁC Gót chân Đại Giác qua đườngTa Bà tịch...

Ajaan Mun – Ajahn Maha Bua

Ajaan Mun – Ajahn Maha Bua

Lời của tác giả:Cuốn tiểu sử này được viết ra để hé mở về cuộc đời và cách tu tập...

Tứ y Cứ – Bốn Phép Nương Tựa

Tứ y cứ - bốn phép nương tựa Minh Niệm Đức Thế Tôn đã cẩn trọng để lại cho chúng...

Thừa Thiên Huế: Lễ Chính Thức Đại Lễ Phật Đản Pl. 2561 – Dl. 2017

Thừa Thiên Huế: Lễ Chính Thức Đại Lễ Phật Đản Pl. 2561 – Dl. 2017

THỪA THIÊN HUẾ: LỄ CHÍNH THỨC ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL. 2561 – DL. 2017Ban Thông tin Truyền thông GHPGVN...

Lòng Từ Bi Karuna Và Tiếng Hát Của Một Bà Lão Ăn Xin

Lòng từ bi Karuna và tiếng hát của một bà lão ăn xin

Nhận chịu khổ đau của người khác, không có nghĩa là mình sẽ cảm thấy đớn đau như họ, hoặc...

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo năm 2015

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Bệnh Cường Giáp Trạng (Hyperthyroidism) Bs Nguyễn Văn Đức

Bệnh Cường Giáp Trạng (Hyperthyroidism) Bs Nguyễn Văn Đức

BỆNH CƯỜNG GIÁP TRẠNG (Hyperthyroidism) BS Nguyễn Văn Đức Giáp trạng (thyroid gland) là một tuyến nhỏ hình móng ngựa, nằm...

Nhân Quả

Nhân Quả

Lời giới thiệu: Một số người đặt câu hỏi: “Người tu Phật có thể thay đổi được quả khổ của đời mình...

Sống Sống Khỏe Và Toại Nguyện

Sống Sống Khỏe Và Toại Nguyện

SỐNG VUI, SỐNG KHỎE VÀ TOẠI NGUYỆNTác giả: Đức Đạt Lai Lạt MaAnh dịch: Geshe Thupten JinpaChuyển ngữ: Tuệ Uyển...

Sử Dụng Những Phương Pháp Phật Giáo

Sử Dụng Những Phương Pháp Phật Giáo

SỬ DỤNG NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHẬT GIÁOđể Hỗ Trợ Chúng Ta trong Đời Sống Hàng NgàyAlexander BerzinMạc-tư-khoa, Nga, tháng Chín,...

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 347)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng ThọTrang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác KinhTập 347 Kính thưa chư vị Pháp sư,...

Bts Phật Giáo Tỉnh Vĩnh Phúc Trang Nghiêm Tổ Chức Đại Lễ Phật Đản Pl.2566

BTS Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc trang nghiêm tổ chức Đại lễ Phật đản PL.2566

Sáng ngày 14/5/2022, tức ngày 14/4/Nhâm Dần, BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Phúc đã thành kính tổ chức Đại lễ Phật...

Tác giả Phước Nguyên có đạo văn hay không? Kỳ 2

Nguyễn Thành Long (2013) biến thành "Đại đức Thích Phước Nguyên" - tác giả của "Giới thiệu nguồn gốc A-di-đà"...

Niết Bàn Là Gì ?

Niết Bàn Là Gì ?

Hỏi: Mục đích của người tu Phật lấy quả vị Niết Bàn làm chỗ cứu cánh. Vậy Niết Bàn là...

Tản mạn về giống hoa mai vàng ngày tết

Tứ Cú Lục Bát: Pháp Nhiệm Mầu, Phiền Sầu Tiêu Tan

Ajaan Mun – Ajahn Maha Bua

Tứ y Cứ – Bốn Phép Nương Tựa

Thừa Thiên Huế: Lễ Chính Thức Đại Lễ Phật Đản Pl. 2561 – Dl. 2017

Lòng từ bi Karuna và tiếng hát của một bà lão ăn xin

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo năm 2015

Bệnh Cường Giáp Trạng (Hyperthyroidism) Bs Nguyễn Văn Đức

Nhân Quả

Sống Sống Khỏe Và Toại Nguyện

Sử Dụng Những Phương Pháp Phật Giáo

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 347)

BTS Phật giáo tỉnh Vĩnh Phúc trang nghiêm tổ chức Đại lễ Phật đản PL.2566

Tác giả Phước Nguyên có đạo văn hay không? Kỳ 2

Niết Bàn Là Gì ?

Tin mới nhận

Đánh thức tiềm năng “sẽ thành Phật”

Phật dạy: “Bỏ tất cả mới được tất cả”

Chùa Quang Thọ Huyện Hóc Môn

Phật dạy: Hãy cúng dường cha mẹ

Suy nghiệm lời Phật: Sinh nhà tôn quý

Tôi đã giác ngộ đạo Phật như thế nào?

Lời Phật dạy về “Thiểu dục tri túc”

Tin lời Phật dạy giúp ta chuyển hóa nỗi khổ niềm đau bằng chánh tín nhân quả

Chùa Bửu Minh Ấp Lân Tây, Xã Phú Sơn, Huyện Chợ Lách, Tỉnh Bến Tre

Những quy tắc trong kinh doanh theo lời Phật dạy

Ca sĩ Nguyễn Trần Trung Quân xúc phạm Đức Phật hay không?

Phật dạy lo việc tang lễ đúng theo chánh Pháp

Tâm Thư Kêu Gọi Xây Dựng Ni Xá Tu Viện Long Hưng Tại Thành Phố Hồ Chí Minh

Bài học từ câu chuyện Đức Phật và hồ nước

Quan hệ giữa Đức Phật và chúng đệ tử (I)

Vì đâu ‘khẩu Phật tâm xà’?

4 sự kiện trước khi Đức Phật thành đạo

Danh xưng “Pháp Vương” trong Phật giáo

Thiên ma dâng ngọc nữ

Trong lòng không có hoa, khó tìm hoa bên ngoài

Tin mới nhận

Một Góc Vắng Lặng

Thư chúc tết xuân Canh Tý của Đức Pháp chủ GHPGVN

Phận sự người tu

Đường mây qua xứ tuyết

Triết học Phật giáo (Nền tảng của đạo Phật)

Phật dạy cách làm đẹp

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 292)

Câu chuyện về hai vị Thiền Sư

Trừng Phạt Và Hoà Giải Theo Quan Điểm Của Phật Giáo

Định Tuệ

Kinh “Tất Cả Đều Bốc Cháy” (Adittapariyaya-sutta)

Đức Phật và cuộc chuyển hóa nhân sinh tận gốc rễ

Lối về thênh thang

Ý Nghĩa, Nét Đẹp Văn Hóa Tết Cổ Truyền Việt Nam

Công đức tuỳ thời bố thí

Năng Lực Của Bi Mẫn

Thực Hành Nhẫn Nhục

Nhân duyên để có gia đình hạnh phúc

Muốn ít và biết đủ

Sanh Tâm Vô Trú

Tin mới nhận

Rebirth Views In The Surangama Sutra

Kinh hành đúng pháp sẽ đạt đạo Bồ đề

Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 07)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 231)

Pháp Môn Tu Chứng Lăng Nghiêm Đại Định

Kinh Tiểu Bộ Tập Iii (Khuddhaka Nikàya)

A Hàm Mưa Pháp Chuyển Hóa Phiền Não Tập 1 (trọn bộ 2 tập)

Ý nghĩa phẩm Pháp sư thứ 10 kinh Pháp Hoa

Kinh Trung Bộ Thi Hóa

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 249)

Kinh Pháp Cú

Kinh Chanda (Chiên Đà)

Đại Niệm Xứ

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 54)

Kinh Bách Dụ: Khỉ cầm nắm đậu

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 199)

Kinh Bách Dụ: Thù ghét lẫn nhau

Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

Kinh Bách Dụ: Người bệnh ăn thịt chim trĩ

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 146)

Tin mới nhận

Vấn Đề Tự Lực Và Tha Lực

Phật thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (tập 54)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 4)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 70)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 164)

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 26)

TUYỂN CHỌN HỌC PHẬT VẤN ĐÁP CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG – PHẦN 1

Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 80)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 51)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 71)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 2)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 195)

25 Đại Nguyện Của Đức Phật Bất Động Tôn Giáo Chủ Cõi Diệu Hỷ

Niệm Phật Sinh Tịnh Độ

Con Đường Tu Tắt – Pháp Môn Tịnh Độ

Khai Thị Đại Chúng Của Đại Sư Hám Sơn

Tịnh Nghiệp Tam Phước tập 1

A Di Đà Phật Hay A Mi Đà Phật

Sự Mô Tả Tịnh Độ Của Chư Phật Trong Tạng Pāli

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 163)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

Chinese (Simplified)EnglishFrenchGermanJapaneseKoreanRussianSpanishVietnamese