VÀI Ý NGHĨ
VỀ BÀI VIẾT CỦA HOẢ THƯỢNG THÔNG LẠC (2)
Nguyễn
Hòa
(Nét
chữ mầu đen là nguyên bản của HT Thông Lạc.
Nét
chữ mầu xanh đậm là của Nguyễn Hòa)
Đường Về
Xứ Phật Tập 2
Lời nói đầu
Kính
thưa các bậc Tôn Túc, quý vị Hoà Thượng, Thượng Toạ,
Đại Đức, Tăng, Ni và Nam Nữ cư sĩ Phật tử……
Giáo
pháp chân chánh của Đạo Phật không bao giờ dùng những danh
từ trừu tượng rất kêu như: Chân Không, Phật Tánh, Cực
Lạc, v.v.. để lừa đảo tín đồ.
HT
Thông Lạc trước tuy theo học HT TT, nhưng sau tự tu học và
theo hẳn Nam Tông. Từ chỗ đứng mới đó Thông Lạc chỉ
trích, bài bác Bắc Tông là điều dễ hiểu, dễ thấy
được ở tâm điạ của người hẹp hòi, và tưởng bây giờ
nắm được chân lý trong taỵ Đó là chưa kể có thể mưu
đồ phá hoại PG VN . Chân Không, vẫn được kinh điển Tiểu
Thừa nói tới và gọi là Không, lại chia ra rõ hơn có Nội
Không và Ngoại Không. Thông Lạc không từng biết Nam Tông
cũng có quan niệm về Không, về Vô Tướng, Vô Nguyện (Vô
Tác).. Còn Phật Tánh và Cực Lạc là những quan niệm
chỉ có trong Đại Thừa, phát triển sau này, đương nhiên
bên Tiểu Thừa không biết đến để công nhận, nhưng chỉ
có thời kỳ Đại Thừa, Tiểu Thừa “pháp chiến” với nhau
gần hai ngàn năm trước mới có ngôn từ “lừa
đảo tín đồ.” như trên.
……..
Một
giáo pháp phi đạo đức, mơ hồ, trừu tượng mạo danh là
Phật Giáo. Giáo pháp ấy còn có những cái tên rất kêu:
Đại Thừa, Tối Thượng Thừa, Phật Thừa. Với những
danh từ vĩ đại này có mục đích để dìm Phật Giáo chân
chánh Nguyên Thủy xuống, ở góc độ nhỏ hẹp Tiểu Thừa,
Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, rồi lần lược biến dần
giáo pháp chân chánh của Đạo Phật thành tà giáo ngoại đạo
để dễ bề đưa giáo pháp của mình ra lừa đảo lường
gạt tín đồ Phật Giáo. Thầy Tổ của chúng ta từ xa xưa
đã bị các pháp môn này lừa đảo. Họ đều là nạn
nhân của những giáo pháp này.
Đây
là cách nói càn, và chửi bậy của thế gian, như dùng từ
ngữ “lừa đảo lường gạt”
, mà không cần chứng minh gì. Thông Lạc đi vào ngôn từ mạt
sát ít thấy của người trong đạo Phật, nhất là người
mang danh là tu hành, và tên lại nằm sau hai chữ HT. Tại
sao, người tu lại không có được ái ngữ trong Bát Chánh
Đạo của đạo Phật. Một phần có lẽ không thật sự tu
Phật đến nơi đến chốn, hay kiểu tu Phật của ngươì tìm
đến những nơi như Ma Thiên Lãnh. Và rõ ràng khi bài bác Đại
Thừa, TL đứng ở phiá của Tiểu Thừa, Thanh Văn, Duyên
Giác. Nhưng không phải biện bác để phục vụ cho ba Thừa
này, mà TL nói là cho Phật giáo Nguyên Thủỵ Nhưng bây giờ
cũng đâu còn Phật giáo nguyên thủy của thời Phật.
Nam Tông là hậu thân của các bộ phái phát sinh sau Phật vài
trăm năm, và sau thời đó nữa mới có kinh điển viết xuống
bằng Pali hay Phạn. Nên Nam Tông (thời trước thường gọi
là Tiểu Thưa) cũng không phải là “Phật
Giáo chân chánh Nguyên Thủy “. Ví
dụ tương tự cho dễ hiểu : vì HT Thông L.ac đang sống
ở VN nên biết rõ chủ nghĩa CS trong nước hiện nay không
còn mang ý thức hệ “chân chánh
nguyên thủy” của Karl Marx, nhưng
chắc chắn TL không dám tố cáo như vậy là “lừa
đảo lường gạt” và nếu lớn
tiếng đòi hỏi trở về với ý tưởng, lập thuyết ban đầu
của Marx thì chưa chắc được gì hay hơn. Nói chung, con người
không thể trở lại y hệt cách nghĩ suy, sinh hoạt cách nay
hơn hai ngàn năm trăm năm.
……..
Kinh,
sử, sách này là một thứ đại vọng ngữ huyễn hóa, như
nói về lịch sử của Đức Phật: Khi Đức Phật vừa sanh
ra đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân, tay chỉ trời chỉ
đất. Còn các Tổ tu hành thì thể hiện: Phóng hào quang,
biến hóa, tàng hình, biết chuyện quá khứ, vị lai, thu thần,
nhập diệt, tự tại sanh tử, v.v… ,
Người
học Phật biết đây là truyền thuyết, do đời sau dựng
lên , đến mấy trăm năm sau khi Phật nhập diệt thì
kinh diển, những chuyện kể quanh đời sống Đức Phật và
các đại đệ tử của ngài mới được ghi chép bằng chữ
viết, bên cạnh những sự kiện chính xác thuộc về lịch
sử. Có những huyền thoại được truyền tụng ai tin được
thì tin, và phần đông chỉ tin ở các sự kiện khách quan.
Nhưng cũng có nhiều người luyến tiếc không muốn bỏ nhiều
chuyện cổ xưạ Cũng giống như chuyện về con rùa ở Hồ
Gươm tại Hà Nội bây giờ. Như khi chỉ trích là họ ” biết
chuyện quá khứ, vị lai” thì Thông Lạc lại khoe là đạt
Tam Minh, nghĩa là cũng tự cho là biết được chuyện quá khứ
vị lai trong nhiều kiếp.
…
Trước
khi chết Thầy Tổ nào cũng bị bịnh, đau đớn, khổ sở
đi đứng không được, có nhiều Thầy Tổ bị bán thân nằm
liệt một chỗ, thọ biết bao nhiêu là cay đắng. Bỏ hết
cả cuộc đời để tu hành, giờ phút cuối cùng, khi biết
tu hành sai pháp, thì ô hô mạng căn không còn nữa. Đó
là những vị còn tỉnh táo, nhưng có vị tới giờ phút lâm
chung mà còn chưa biết mình tu sai pháp, còn đang sống trong
mê hồn trận thế giới siêu hình Cực Lạc. Nhất là
những vị tôn túc được nhiều tín đồ biết danh, lại chết
trong đau khổ kinh khủng, mà còn chưa biết mình tu sai pháp.
Chính chúng tôi đã chứng kiến những sự việc này.
Thứ
nhất, cuộc sống tu hành của các Ngài tâm tham, sân, si, mạn,
nghi chưa hết, nhất là lòng sân không kém gì người thế
tục.
Thứ
hai vị hòa thượng nào đến khi chết cũng bịnh tật, chịu
nhiều sự khổ đau, nhiều vị phải nằm trên giường bịnh
ít nhất cũng là sáu tháng còn không thì cũng đôi ba năm liệt
giường liệt chiếu tiêu tiểu, ăn uống có một chỗ. Cuối đời tu hành của Thầy Tổ chúng ta quá khổ như vậy.
Đối
với Phật giáo, cuộc sống ở thế gian trong thân xác hiện
tại chỉ là sự phối hợp tạm thời của Tứ Đại, Ngũ
Uẩn. Người trong đạo Phật cho đó là thân giả tạm, và
biết rõ nó chịu sự thay đổi theo thời gian của luật
vô thường. Còn do ảnh hưởng của các thứ nhân duyên
như thơì tiết, khí hậu, thức ăn, môi trường sống… mà
thân thể khi khoẻ mạnh khi đau yếu, suy nhược, và sau
cùng chết đị Điều này (bệnh, lão, tử) đến với mọi
người, dù người tu hành hay kẻ trần tục, thiện nhân hay
ác nhân, đạo cao đức trọng hay phàm phu tội lỗi .
Đây
là một chân lý lớn, và đạo Phật gọi là Khổ Đế, chi
phối kiếp sống của con người, của mọi loài chúng sinh.
Chính ngay Phật Thích Ca cũng già yếu, bị bệnh và sau cùng
chết. Cho nên nếu một bậc mà người đời cho là chân
tu bị già yếu, mang bệnh tật, chịu nhiều đau đớn trước
khi chết như bị thương tích, nhiễm trùng, ung thự..thì cũng
là chuyện thường của thế gian. Vì họ còn sống trong thế
gian, phải mang chịu đủ thứ nhân duyên của thế gian, với
nhiều thứ nghiệp quả từ những nhân của kiếp này hay kiếp
trước. Con dường tu của đạo Phật không chú trọng ở luyện
thân để sống được lâu như các phép dưỡng sinh của Yoga
hay đạo Lão, mà chỉ chú trọng phần tu luyện tâm cho thảnh
thơi, an lạc dù thân đang trong cảnh ngộ nào, và chấp nhận
cuộc sống hiện tại là một phần của cuộc trầm luân khổ
hải lâu dài khi còn trong vòng luân hồi sinh tử. Không
thể có ảo tưởng hay đòi hỏi tu sĩ được miễn trừ những
tai hoạ, tai nạn, sát nghiệp, bênh tật …vẫn đến với
ngươì bình thường. Và cũng không ai nghĩ tất cả tu sĩ đó là Phật, Bồ Tát hiện thân, nên không còn vướng mắc vào
các thứ phiền não của thân tâm, như đau đớ, buồn lo, sân
hận khi đối phó với nghịch cảnh. Chỉ có kẻ dại khờ
hay có ác ý mới đưa ra những đòi hỏi thật cao như vậy
cho các tu sĩ để mạt sát họ khi họ chưa có thể làm được
trong thân phận con ngườị Vì con đường tu Phật rất dài,
mỗI người chỉ đang ở một chặng đường, không thể biết
ai đã đi gần tới đích.
Thông
Lạc dựa vào cái nhìn thô thiển cho đã là bậc tu hành thì
sao lại còn chịu đau đớn, bệnh hoạn như thường nhân ,
và qua đó viết rất dài dòng để chê bai, mạt sát đạo
Phật, việc tu hành. Ngay thời Phật cũng đã có đệ tử của
ngài bị sát hại, hay Huệ Khả sau này bị cầm tù và xử
chết (kể cả thuyết cho là Huệ Khả bị côn đồ chém cụt
tay) , v.v… thì người trong đạo Phật cho là họ phải trả
nhiều thứ nghiệp dữ mang trong quá khứ, có thể đã tạo
ra rất lâu, dù trong hiện tại họ là cao tăng đi nữạ Câu
chuyện về tiền thân của Phật có nhiều kiếp nạn cũng
nói lên ý nghĩa nàỵ
Còn
ngược lại trong kinh Nguyên Thủy khi Đức Phật thu thần nhập
diệt tự tại sanh tử một cách rõ ràng và cụ thể như trong
kinh Du Hành thuộc hệ thống Trường Bộ kinh trong tạng kinh
Nikaya, khi Đức Phật nói lời di chúc cuối cùng liền vào
định Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền cho đến Diệt Thọ
Tưởng Định, nhập đi nhập lại ba lần rồi Ngài nhập Tứ
Thiền ra Tứ Thiền Ngài nhập Niết Bàn xả bỏ báo thân.
Trên
cũng đã nói rõ, Trường Bộ kinh hay kinh Nikaya được ghi chép
sau này, không phải là nhưng kinh viết từ thời nguyên thủy,
khi Phật còn tại thế hay ngay sau khi ngài nhập diệt. Và so sánh để phán đoán cái chết của một tu sĩ ngày nay và
chuyện Phật nhập diệt là điều mất trí, điên khùng. Bây
giờ có ai dám tự nhận là Phật hay được người khác coi
đã thành Phật mà đòi hỏi họ phải được sống như Phật,
chết như Phật ? Có ai làm được như thế hay không hoạ chăng
chỉ thử chờ đợi để thấy giờ lâm chung ở ông Thông
Lạc và vài người nghe theo ông hiện nay .
Theo
tôi thiết nghĩ Đức Phật là một con người hoàn hảo, Ngài
biết những lời nào Ngài dạy cho chúng ta là vừa đủ để
con người không làm khổ mình khổ người nữa; lời nói của
Ngài không thừa không thiếu. Một hôm Ngài nắm trong
tay một nắm lá cây và hỏi chúng tỳ kheo: Nắm lá cây trong
tay Ta có nhiều bằng rừng lá cây hay không?
Chúng
tỳ kheo trả lời: Bạch Thế Tôn! Nắm lá cây trong tay
của Thế Tôn quá ít so với rừng lá cây quá nhiều.
Đức
Phật nói tiếp: Pháp Ta chứng như rừng lá cây, nhưng Ta dạy
các ngươi tu tập như nắm lá cây trong tay. Tại sao vậy? Vì sự hiểu biết của các ngươi có giới hạn, nên Ta dạy
những điều cần thiết vừa đủ để các người đạt đến
mục đích giải thoát sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt
luân hồi.
Phật
dạy có chấm dứt luân hồi mới giải thoát được ra khỏi
những khổ đau của sanh , lão , bệnh , tử. Rõ ràng là vậy,
và người khác học Phật đều hiểu như vậỵ Nhưng cớ
sao Thông Lạc đòi hỏi một người còn trôi lăn trong
luân hồi của cõi ta bà “không nên được phép” đau đớn
khi bệnh tật ? Và Phật cũng nói rõ giáo pháp ngàu như lá
cây rừng, còn những điều ngài dạy và ghi chép được chỉ
là nắm lá trong taỵ Vậy sao lại cho giáo lý Đại Thừa không
thể nằm trong giáo pháp của Phật, dù nó không nằm trong
các kinh tạng chép bằng tiếng Palị
Thế
mà người sau muốn triển khai cái rừng lá cây của Đức
Phật đã chứng, như Tổ Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước, Mã
Minh, v.v… vì thế đẻ ra chân lý Chân Không. Mục đích
của Ngài Long Thọ là nhằm đập phá luôn chân lý Khổ, Tập,
Diệt, Đạo của Đạo Phật để giáo pháp Bát Nhã Ba La Mật
của mình trở thành một chân lý duy nhất không còn một chân
lý nào hơn được. Vì thế Thầy Tổ của chúng ta quá phục
lăn chân lý ấy nên xúm nhau triển khai trí tuệ Bát Nhã Chân
Không. Từ Chân Không sản xuất ra Thiền Tông, ….
Ở
đây Thông Lạc nói điều không từng học hay đọc biết,
có lẽ vì thời gian tu học với HT TT quá ngắn, và quãng đời
còn lại chỉ là tự tu tự học trong rừng, ngoài đảo hay núi Ma Thiên, và sau cùng vớ được vài quyển kinh điển
Nam Tông vội cho đó là tất cả đạo Phật. Các ngài Long
Thọ, Mã Minh không phas’ bỏ tứ Đế của Phật, hay thuyết
Duyên sinh Duyên Khởi của ngài mà khai triển thêm hay khai triển
về mặt khác. Còn kinh Bát Nhã là sự phát triển của Không
(tướng) đã được tr`inh bày trong kinh điển Nam Tông.
……
Lời
dạy trên của Đức Phật đã xác định những kinh sách luận
của các Tổ sắc tức thị không, không tức thị sắc là
nói láo, lừa đảo tín đồ. Cho nên kinh sách của Đức Phật
không có lý luận cao siêu ngoài sức hiểu biết của con người. Kinh sách của Đức Phật không có bài kinh nào dạy trừu tượng,
mơ hồ như luận của các Tổ.
Đây
là điểm cao siêu nhất trong đạo Phật đưọc Đại Thừa
triển khai từ những lời dạy ban đầu của Phật khi Phật
mới chuyển Pháp luân , dạy về các thuyết Vô Thường, Vô
Ngã, Duyên sinh.Tiếc rằng cái học Phật thiếu sót và hẹp
hòi của Thông Lạc khiến ông như người mù mắt về chân
lý, không thấy được đầy đủ ánh sáng của đạo Phật.
…….
Bởi
giáo pháp của Đức Phật là một giáo pháp hoàn chỉnh cho
Trời, Người tu hành, cho nên kẻ nào dám thay đổi hoặc thêm
bớt, đó là kẻ loạn tưởng, điên khùng, muốn làm hơn Đức
Phật, để rồi trở thành Ma Vương, Ác Quỷ, v.v…
Nếu
hiểu đơn giản giáo pháp hoàn chỉnh đã được Phật trình
bày đầy đủ trong Trường Bộ kinh, thì bộ kinh này cũg dài
quá, nhiều quá (theo văn hệ Pali có 30 quyển kinh), và không
phải ai cũng nghe hiểu, đọc hiểu được. Mà cần phải có
người giảng giải, và chính sự giảng giải này làm cho kinh
luận của Phật giáo càng nhiều hơn. Vậy thì tìm sự hoàn
chỉnh của kinh điển Phật giáo ở đâu bây giờ ? Trong một
quyển sách nào, bài viết nào ? Thông Lạc chỉ nói những
điều phi lý, hay theo ngôn ngữ trong nước là không logic.
Chúng
ta hãy thanh lọc lại những gì của Đạo Phật thì hãy trả
về cho Đạo Phật, còn những gì không phải của Đạo Phật
thì hãy loại bỏ, đừng để những thứ rác bẩn này trong
giáo lý của Đạo Phật mà làm ô nhiễm Phật Giáo. Từ bao
thế kỷ nay Thầy Tổ của chúng ta đã bị những loại kinh
sách ô nhiễm này khiến cho sự tu hành chẳng đi đến đâu
cả, thậm chí đến giới đức làm người mà còn không biết
huống là giới đức làm Thánh. Người tu sĩ Phật Giáo sống
và dạy theo đạo đức của Nho Giáo như thiền sư Vạn Hạnh
Việt Nam và các thiền sư Trung Hoa (trong tập Thiền Lâm Bảo
Huấn) thường lấy Nho giáo làm đạo đức của Phật Giáo
thì chúng ta có thấy nhục nhã, xấu hổ không? Vậy mà
có kẻ hãnh diện: Vạn Hạnh dung tam tế; trong lúc Đạo Phật
có một nền đạo đức nhân bản nhân quả tuyệt vời, không
có một tôn giáo nào có một nền đạo đức hơn như vậy
được.
Kính
ghi,
THÍCH
THÔNG LẠC
Tu
Viện Chơn Như
(Ngày
I-6-2000)
Kêu
gọi Phật giáo trở về với “nguyên thủy” thì cũng không
saọ Nhưng phải nhận biết nguyên thủy là như thế nàọ
Người ngày nay không ai kêu gọi loài người trở về với
thời kỳ của nguyên sơ, bán khai, nếu họ có cái nhìn của
kẻ có chút hiểu biết . Thông Lạc phải biết tôn giáo, đạo
lý nằm trong kho tàng văn hóa chung của loài ng+ời , và
được phát triển theo thời gian, do sự phối hợp có chọn
lựa của nhiều hệ tư tưởng thuộc nhiều vùng địa lý
khác nhaụ Đạo Phật của Thích Ca Mâu Ni không phải xuất
hiện như một cây dại từ dưới đất tự chui lên dù
ai đó nhận là nó sinh loài hoa tuyệt hảo, tuyệt vờị
Đạo Phật đến từ đạo Bà La Môn, từ nhiều tư tưởng
triết học, đạo giáo thời Phật ở Ấn Độ Ngài đã chắt
lọc , chấp nhận một số, bác bỏ một số, ngay cả
thay đổi ý tưởng ngược lại, và thêm phần sáng tạo riêng,
trong các hệ tư tưởng, đạo giáo thời đó, để làm thành
đạo Phật. Nhưng đạo Phật “nguyên thủy” của Phật chỉ
có giá trị nhiều nhất đối với chúng sinh của thời ngài,
ở Ấn Độ, về mặt hình thức tu tập, sinh hoạt, tổ
chức và lý luận. Chính loại Thiền Định mà Thông Lạc đề
cao ở đây là Tứ Thiền , như là “ưu việt và nguyên thủy”
hơn các thứ Thiền quán Phật giáo sau này, cũng đã được
Phật học từ các tu sĩ Bà La Môn khi ngài đi tầm đạo, trước
khi ngài thành đạọ Tứ Thiền Bát Định có gốc rễ ở
Bà La Môn, hay Tứ Thiền chính là pháp tu của Bà La Môn.
Phải nhận biết rõ điều này để đừng tố cáo những phần
khác của giáo lý Đại Thừa là có nguồn gốc Bà La Môn,
hay những pháp tu Thiền Định của Phật giáo sau này không
còn giá trị của “nguyên thủy” khi nó đi ra khỏi truyền
thống đạo Bà La Môn.
Chuyện
về Thông Lạc còn dàị Xin viết tiếp saụ
Nguyễn
Hòa
Discussion about this post