Phương
Pháp Niệm Phật
Cư
Sĩ Lý Bỉnh Nam
Trích:
TUYẾT LƯ LÃO NHÂN TỊNH ĐỘ TUYỂN TẬP
(Tuyển tập các bài viết về Tịnh Độ của lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam)
Trích dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Hỏi:
Niệm Phật không chỉ là dùng miệng niệm mà phải chú tâm đúng không?
Đáp:
Có nhiều người miệng tuy niệm Phật
nhưng chẳng để tâm vào đó, trong lòng toàn là suy xằng nghĩ loạn. Niệm như vậy cũng
vô dụng. Miệng niệm Phật thì tâm phải tưởng Phật, tâm khẩu nhất như. Ngoại trừ
một câu niệm Phật ra không còn nghĩ đến gì khác nữa, không còn có ý niệm nào
khác khởi lên. Có vậy mới gọi là “Nhất Tâm Bất Loạn”, từ đó mới dễ thành
công.
Hỏi: Như vậy chẳng phải là khó lắm
ư?
Đáp: Xem kìa! Một mặt quý vị chê niệm Phật quá dễ dàng, một mặt
lại sợ nó quá khó. Thật sự ra, một pháp Niệm Phật đây, bảo là dễ thì nó cực dễ,
bảo là khó thì nó cũng cực khó.
Chẳng
qua là chẳng cần biết là khó hay dễ, chỉ đáng kể mình có thể bền lòng niệm được
nhiều hay không. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên tâm chẳng loạn nữa. Lời tục
thường nói: “Trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ tâm chẳng chuyên”,
chính là ý này.
Lại
có một cách niệm Phật như sau: mỗi lúc niệm Phật, mỗi chữ phải phát xuất từ
trong tâm. Trong tâm tưởng thật rõ ràng, miệng niệm cho thật rõ ràng, tai nghe
thật rõ ràng. Mỗi một chữ phát xuất từ trong tâm, thấu qua tai lọt vào tâm, một
chữ cũng chẳng để lọt mất. Tu tập lâu dài như vậy, tâm tự nhiên chẳng còn tán
loạn. Đấy chính là một phương pháp khẩn yếu bậc nhất, ngàn vạn phần chớ quên.
Hỏi: Nên niệm Phật vào lúc nào?
Đáp: Nên niệm Phật vào hai thời sáng tối, lập một công khóa nhất
định, hạn định số câu niệm Phật nhiều ít: hoặc là mấy trăm câu, mấy ngàn câu,
tùy theo hoàn cảnh mỗi người mà định số. Chẳng cần biết là rảnh hay bận, không
niệm đủ số đó không được. Còn ngoài ra thì chẳng cần biết là lúc nào, đang ở
chỗ nào đều niệm được cả. Càng niệm nhiều càng tốt. Thời gian niệm càng lâu
càng hay.
Hỏi: Vừa làm việc vừa niệm Phật được
không?
Đáp: Lúc đang vác củi, gánh nước cũng niệm Phật được. Lúc đang
cọ nồi, rửa chén cũng niệm Phật được. Lúc cày bừa, cuốc xới, cắt cứa cũng niệm
Phật được. Chẳng luận là đi, ngồi, ngủ nghê, thậm chí lúc đang đại tiểu tiện
cũng đều có thể niệm Phật. Nói chung, trừ lúc phải dùng trí óc làm việc, ngoài
ra thì dù đang làm gì cũng chẳng trở ngại việc niệm Phật cả.
Hỏi: Nên niệm Phật lớn tiếng hay là
niệm nhỏ tiếng?
Đáp: Niệm lớn tiếng cũng tốt, niệm nhỏ tiếng cũng hay. Miệng
không niệm nhưng tâm thầm niệm cũng tốt. Chỉ trừ lúc đang nằm trên giường hay
đang ở chỗ không sạch sẽ thì nên thầm niệm trong tâm, chẳng được niệm ra tiếng.
Niệm ra tiếng là không cung kính. Nhưng lúc gặp chuyện nguy cấp, chẳng cần biết
là đang ở chỗ nào, cứ việc niệm ra tiếng.
Hỏi: Học Phật thì nên thờ hình Phật
nào?
Đáp: Thờ một mình đức A Di Đà Phật hoặc tượng Tây Phương
Tam Thánh đều được (A Di Đà Phật và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí gọi là Tây Phương Tam Thánh).
Hỏi: Nên thờ tượng Phật ở chỗ nào?
Đáp: Nếu có phòng trống, dành riêng một phòng thờ Phật là tốt
nhất. Nếu không có, thờ Phật ngay trong phòng mình ở cũng được. Nói chung là
phải chọn nơi sạch sẽ. Trước tượng treo màn vải vàng, lúc không niệm Phật,
buông màn xuống. Làm vậy để khỏi đến nỗi khinh nhờn. Tốt nhất là để tượng Phật
hướng mặt về Đông, người niệm Phật đối trước tượng Phật, hướng mặt về Tây. Nếu
chẳng thể làm vậy được thì thờ tượng ở phương nào thuận tiện cũng được.
Hỏi:
Nếu không có chỗ nào thuận tiện, không thờ Phật có được không?
Đáp: Nếu thực sự không có chỗ nào thuận tiện, miễn sao tâm thành
thì không thờ tượng Phật cũng được. Lúc niệm Phật hướng về Tây là ổn.
Hỏi: Nên dùng những thứ gì để cúng
dường Phật?
Đáp: Thông thường dùng hương, hoa, đèn, nước trong, trái cây
v.v… Nếu không lo liệu được, thiếu một vài thứ hoặc không có thứ gì hết cũng
xong. Nhưng tuyệt đối chẳng được cúng rượu hoặc đồ mặn cũng như đốt giấy tiền,
vàng mã trước Phật.
Hỏi: Nên hành lễ trước Phật như thế
nào?
Đáp: Tùy ý. Hoặc là dập đầu lạy, hoặc là vái, hoặc khom mình, hoặc
chắp tay; nhưng dập đầu lễ bái là cung kính nhất, có thể tiêu tội, tăng phước.
Hỏi: Lúc niệm Phật có nên quỳ trước
mặt Phật không?
Đáp: Chẳng nhất định. Quỳ niệm, đứng niệm, vừa đi vừa niệm đều
được. Cốt yếu là phải thành tâm. Quỳ niệm rất tốt mà ngồi niệm cũng hay.
Hỏi:
Cụ nói hai thời niệm Phật sáng tối, phải lập một khóa trình, phiền cụ lập cho
tôi một khóa trình có phải là hay hơn không?
Đáp: Khóa trình vốn là dựa theo thời gian, sức lực của chính mỗi
người mà quy định. Ngài đã cầu tôi thì tốt nhất là tôi soạn ra một nghi thức
thật đơn giản cho ngài vậy.
Nếu
như ngài có sức thì có thể hành trì thêm nhiều hơn, có thể thêm vào kinh Di Đà,
chú Vãng Sanh, kệ Tán Phật, văn Đại Phát Nguyện. Những bài kinh ấy trong sách
Thiền Môn Nhật Tụng có chép đủ cả, những chỗ lưu thông kinh Phật đều có. Khóa
sáng thì lúc vừa ngủ dậy, khóa tối thì trước khi đi ngủ, rửa tay, súc miệng,
đến trước tượng Phật, thắp nhang, dâng nước, chắp tay cung kính, rồi quỳ hoặc
đứng, hoặc ngồi xếp bằng, dùng tâm chí thành niệm theo thứ tự sau:
–
Nam mô thập phương Thường Trụ Tam Bảo (niệm một lần, lễ một lạy).
–
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm một lần, lễ một lạy).
–
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật (niệm một
lần, lễ một lạy).
–
Nam mô A Di Đà Phật (trăm câu, ngàn câu, hai, ba ngàn câu, càng nhiều
càng hay. Tùy mỗi người rảnh hay bận mà định số, nhưng phải từ ít tăng lên
nhiều, chẳng được từ nhiều giảm ít đi. Vô luận niệm nhiều hay ít, chẳng cần
phải lạy).
–
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (niệm một tiếng, lễ một lạy, hoặc niệm ba lần, lễ ba
lạy).
–
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (như trên).
–
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (như trên).
– Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ.
Trên đền bốn ân nặng.
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe.
Đều phát lòng Bồ Đề,
Hết một báo thân này,
Cùng sanh cõi Cực Lạc.
(lễ ba lạy)
Hỏi:
Khóa trình này rất hay, xin giảng thêm về chữ “thập phương Tam Bảo”.
Đáp: Tám phương, phương trên và phương dưới gọi là mười phương.
Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo. Phật là Giáo Chủ. Pháp là kinh điển để tu nhân
chứng quả do Đức Phật giảng. Tăng là những pháp tử chiếu theo lời Phật dạy tu
hành, đã chứng thánh quả Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, và các cao tăng đạo
cao, đức trọng, hoằng pháp lợi sanh.
Phật,
Pháp, Tăng đều gọi là Bảo (quý báu) vì có thể phát sanh, tăng trưởng pháp thân,
huệ mạng của hết thảy chúng sanh, giống như của báu trong thế gian có khả năng
nuôi sống thân mạng của con người. Phải hiểu rằng khi niệm Tam Bảo chính là
biểu thị mình hoàn toàn lấy Phật, kinh điển Phật nói và các vị Bồ Tát, cao tăng
tu hành đúng theo lời Phật làm thầy của mình. Mình từ những vị đó quy hướng trở
thành tín đồ Phật giáo.
Hỏi: Xin hỏi vì sao phải niệm Phật
Thích Ca?
Đáp: Là vì pháp môn Niệm Phật do chính Ngài dạy cho chúng ta.
Niệm Phật lạy Ngài chính là chẳng dám quên bỏ nguồn gốc vậy.
Hỏi: Tại sao lại còn phải niệm Quán
Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát?
Đáp: Vì người niệm Phật lúc lâm chung, hai vị Bồ Tát này cùng
với đức A Di Đà Phật đồng thời đến tiếp dẫn về Tây Phương. Vì thế niệm
Phật xong phải niệm danh hiệu và lễ bái hai vị Bồ Tát này.
Hỏi: Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát
là những vị Bồ Tát nào?
Đáp:
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát là
tất cả những vị Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc đều rất thanh tịnh. Ba chữ Đại Hải
Chúng ngụ ý các vị Bồ Tát ấy nhiều như nước biển. Sớm muộn gì ta cũng sẽ làm
bầu bạn với các vị Bồ Tát ấy, vì thế cần phải niệm niệm lễ bái họ.
Hỏi: Kệ Hồi Hướng có tác dụng gì?
Đáp: Công dụng của bài kệ Hồi Hướng rất lớn. Người tu hành bất
luận là niệm Phật, hay niệm kinh, niệm xong, nhất định phải niệm kệ Hồi Hướng
một lượt. Hồi Hướng có nghĩa là gom về, tức là một phương pháp đem công đức
niệm Phật, niệm kinh gom về một nơi. Gom về nơi nào? Gom về việc cầu sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới!
Chẳng
riêng gì niệm Phật, niệm kinh mới hồi hướng về Cực Lạc thế giới, mà bất luận
làm việc lành nào cũng đều phải hồi hướng về Cực Lạc thế giới. Càng tích thêm
được một phần công đức thì hy vọng được vãng sanh càng tăng thêm một phần. Nếu
làm công đức nhưng chẳng hồi hướng cầu sanh về Cực Lạc thế giới thì chỉ sợ đời
sau chỉ được hưởng báo ứng trong cõi trời, cõi người, vẫn cứ luân hồi trong lục
đạo, chẳng được giải thoát. Phước báo càng lớn, càng dễ tạo tội, nên kiếp kế
tiếp đó càng đáng sợ hơn.
Vì
thế, người học Phật phải nên đem hết thảy công đức hồi hướng vãng sanh Tây
Phương thì lúc lâm chung mới có hy vọng được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Nhưng niệm bài kệ Hồi Hướng cũng giống như niệm Phật, phải từng chữ, từng
câu phát xuất từ nội tâm, chẳng thể niệm xuông nơi cửa miệng được.
Hỏi: Xin cụ giảng qua ý nghĩa từng
câu trong bài kệ Hồi Hướng.
Đáp:
Câu thứ nhất và câu thứ hai nghĩa là
ta đem công đức niệm Phật hỗ trợ cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà khiến
cho nó càng thêm tốt đẹp phi thường. Câu thứ ba nghĩa là lại đem công đức ấy
trên là báo đáp bốn tầng ân đức: cha, mẹ, sư trưởng và đức Phật. Câu thứ bốn
nghĩa là dưới thì dùng công đức cứu vớt những chúng sanh khổ não trong ba đường
ác: súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ. Câu thứ năm và thứ sáu nghĩa là nếu có ai
thấy, nghe người đang niệm Phật, niệm kinh sẽ đều phát khởi tấm lòng trên cầu
Phật Quả, dưới độ chúng sanh. Câu thứ bảy và thứ tám nghĩa là sau khi cái thân
báo ứng này đã hoàn toàn chấm dứt thì mọi người sẽ cùng vãng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Giải thích theo từng câu văn thì ý nghĩa của bài kệ Hồi Hướng
là như vậy.
Nói chung, tám câu kệ này lại có hai
tầng ý nghĩa lớn.
Tầng
thứ nhất là: Chúng ta niệm Phật là để cầu sanh
về Tây Phương, chứ chẳng phải vì cầu công danh, phú quý hay hết thảy những điều
tốt đẹp của thế gian.
Tầng
thứ hai là: Chúng ta niệm Phật là để cứu độ hết
thảy chúng sanh thoát ly khổ hải, chứ chẳng phải vì riêng bản thân mình. Đã
hiểu rõ tầng ý nghĩa thứ hai này rồi thì bất luận là niệm Phật, niệm kinh hay
làm bất cứ điều lành gì đều luôn giữ tấm lòng như thế, hồi hướng như thế. Có
như vậy mới là người học Phật phát Bồ Đề tâm chân chánh.
Hỏi:
Khóa trình cụ vừa lập ở trên cố nhiên rất đơn giản, nhưng có người quá đỗi bận
rộn, không lúc nào rảnh thì làm sao thực hiện được?
Đáp: Vẫn có biện pháp. Chẳng luận là đang ở đâu hay bất cứ lúc
nào (niệm vào lúc sáng sớm tốt nhất), hướng mặt về Tây, lễ ba lạy, liền niệm
sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” cho đến hết một hơi. Hơi dài thì niệm một
hơi mươi câu càng hay. Hơi ngắn thì một hơi niệm vài câu cũng được. Tổng cộng
niệm đủ mười hơi. Rồi niệm kệ Hồi Hướng. Niệm xong, hướng về Tây lạy ba lạy là
xong. Đây gọi là pháp Thập Niệm. Người rất bận mỗi ngày thành tâm chiếu theo
phương pháp này mà niệm thì tương lai cũng có thể được sanh về Tây phương Cực
Lạc thế giới, là vì Đức Phật A Di Đà đã từng phát nguyện nên tự nhiên
được vãng sanh không sai!
Discussion about this post