NHÌN LẠI HÀNH TRẠNG VUA TRẦN NHÂN TÔNG:
SO SÁNH ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU
ĐỒNG THỜI GỢI MỞ HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ – XÃ HỘI VIỆT NAM
Thích Thanh Tâm
Hệ giá trị Tổng hạnh phúc quốc gia (GNH) – do Cựu quốc vương Phật tử Bhutan Jigme Singye Wangchuck đề xuất xây dựng mô hình phát triển để đo lường nếp sống người dân – là cách tiếp cận toàn diện và bền vững cho sự phát triển cân đối giữa vật chất và các giá trị phi vật chất với niềm xác tín con người muốn tìm kiếm hạnh phúc thật sự. Cho nên, mục tiêu của GNH là nhằm đạt được sự phát triển hài hòa trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống – vốn là điều cần thiết cho hạnh phúc.
Dù mới mở cửa hơn 40 năm nhưng quốc gia này – qua nhiều năm phát triển, bên cạnh quá trình toàn cầu hóa, vẫn giữ được những nét vốn có từ thế kỷ XVII – đã định hướng được lối đi khiến nhiều quốc gia phương Tây phải chú ý. Giờ đây, khi thế giới lao đao trước những cơn khủng hoảng kinh tế, trước tình trạng thiên nhiên bị hủy hoại, khí hậu nóng lên thì Bhutan lại càng nổi lên như một quốc gia đi đầu, định hướng được cách phát triển bền vững, lâu dài và hiệu quả. Cho nên, từ hệ giá trị GNH thiết thực ấy, nhân kỷ niệm 760 năm ngày sinh Đức Vua Trần Nhân Tông, bài viết này nhìn lại những đóng góp từ chính sách phát triển đất nước đến chính sách ngoại giao cũng như đời sống an sinh xã hội, dấn thân tạo dựng hạnh phúc thật sự, vun bồi nếp sống tâm linh cho nhân dân của vua Trần Nhân Tông; đồng thời so sách để thấy được sự giống nhau và khác nhau ở hai vị vua Phật tử, từ đó gợi mở phát triển bền vững kinh tế – xã hội Việt Nam phù hợp với hướng đi của nhân loại.
Từ khóa: tổng hạnh phúc quốc gia, phát triển kinh tế – xã hội bền vững, tinh thần nhập thế, kinh tế hạnh phúc, giữ gìn văn hóa, nếp sống nhân sinh an lạc.
1. Cựu quốc vương Phật tử Jigme Singye Wangchuck với hệ giá trị GNH Bhutan
Cựu Quốc vương sinh 1955, là vua thứ tư của Bhutan; là một nhà cải cách, một kiến trúc sư cho việc bảo vệ môi sinh của Bhutan. Ngài kế tục con đường giáo dục, kinh tế và ngoại giao; giữ gìn truyền thống văn hóa cổ truyền và chủ trương một quốc gia dân chủ. Nhà vua đẩy mạnh hiện đại hóa giáo dục, nâng cấp hệ thống y tế và chủ trương miễn phí giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội.
Qua những hình mẫu phát triển của nước ngoài, nhà Vua thấy người dân không hạnh phúc khi khoảng cách giàu – nghèo ngày càng gia tăng, phúc lợi xã hội không được đảm bảo, môi trường bị phá hủy trầm trọng từ quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế. Sau bao băn khoăn, trăn trở, ông đã tìm kiếm và tự xây dựng một khái niệm hạnh phúc mới – hạnh phúc không đo bằng tiền bạc mà đo bằng chính sự hài lòng, thỏa mãn của con người với cuộc sống hiện tại. Đồng thờiBottom of Form
bảo đảm phát triển luôn đi kèm với việc giữ gìn truyền thống văn hóa, bảo vệ môi trường cũng như duy trì một chính phủ đầy uy tín, trách nhiệm trước dân.
Tháng 4/1986 GNH xuất hiện trong một cuộc phỏng vấn nhà vua đăng trên tờ Financial Times của London với tiêu đề của bài viết là Tổng hạnh phúc quốc gia quan trọng hơn tổng sản phẩm trong nước.[1] Trong Bộ luật 1729 cổ xưa của Bhutan, tuyên bố rằng “nếu không thể tạo ra hạnh phúc cho người dân, chính phủ không có mục đích để tồn tại”[2] và năm 1972, từ khi tuyên bố GNH quan trọng hơn GDP, Bhutan đã định hướng xây dựng chính sách quốc gia và kế hoạch phát triển theo tiêu chí GNH. Vì thế, trong Hiến pháp của Bhutan, Điều 9, năm 2008 chỉ đạo nhà nước “thúc đẩy những điều kiện cho phép theo đuổi thực hiện hạnh phúc quốc gia.”[3] Như vậy, từ nhận thức về tiêu chí, định hướng về GNH mà Bhutan tiếp cận để phát triển kinh tế, an sinh xã hội và môi trường là cách làm mới, phù hợp với xã hội toàn cầu ngày nay.
Nhìn chung, GNH tạo ra một xã hội hay quốc gia, trong đó hạnh phúc là mục tiêu của quản trị. Mục đích của chính phủ là tạo ra hạnh phúc tập thể, bởi vì hạnh phúc tập thể phụ thuộc vào hai điều mà chúng ta nuôi dưỡng và bảo vệ là các mối quan hệ và môi trường. Khía cạnh cơ bản đầu tiên của hạnh phúc là mối quan hệ. Khía cạnh quan trọng thứ hai là môi trường, nhưng nếu không có khía cạnh mối quan hệ thì khía cạnh môi trường cũng không thể được duy trì. Do đó, Chính phủ Butan đánh giá hạnh phúc của con người dựa trên 4 lĩnh vực:
1. Phát triển kinh tế – xã hội bền vững: Butan tập trung vào y tế, giáo dục và dịch vụ xã hội. Butan đưa ra tiêu chuẩn sống cao hơn và tiếp cận với tiện nghi hiện đại và công nghệ trên mọi khu vực của đất nước. Yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng này là phát triển bình đẳng, để những lợi ích của phát triển đến được những người nghèo nhất và yếu thế nhất. Butan đã đạt được sự phát triển ấn tượng và cải thiện cuộc sống của nhiều người, đặt nền móng cho sự phát triển nhanh hơn, công bằng hơn và nhân đạo hơn. |
2. Bảo vệ môi trường: Được ghi nhận trong Hiến pháp là quyết tâm và cam kết duy trì ít nhất 60% diện tích cả nước có rừng che phủ. Hiện nay, 72% diện tích của Butan là rừng và hơn 1/3 nằm trong mạng lưới các khu bảo tồn. Nhiều người dân Butan khi được hỏi về lý do tại sao luôn có ý thức cao đối với môi trường thì đều có chung một đáp án là con người sống chung với thiên nhiên, đối xử với môi trường như thế nào thì sẽ được nhận lại như vậy. |
3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa: Kiến trúc riêng biệt, các giá trị văn hóa, các nghi lễ truyền thống… là tất cả các khía cạnh cuộc sống mà người dân Butan muốn gìn giữ, bảo tồn. Thách thức hiện nay đối với quốc gia này là khôi phục và duy trì những yếu tố đó thông qua việc bảo tồn văn hoá. |
4. Thúc đẩy quản trị tốt: Thế giới đang theo dõi tiến trình dân chủ mới ở Butan, và những nỗ lực để thành công với quản trị tốt là một ưu tiên để đất nước này thể hiện với thế giới. Với nền dân chủ này, chính phủ phản ánh ý kiến của người dân, và người dân chủ động hơn trong tham gia đóng góp sự thay đổi. |
Để các độc giả hình dung thực tế chính sách này, tác giả tham luận đưa ra kết quả cuộc kháo sát về GNH năm 2015, do The Center for Bhutan studies and GNH Research công bố trong A Compass Towards a Just and Harmonious Society, trang 6 như sau:
2015 GNH |
Mức độ: |
Chiếm tỷ lệ dân số: |
Vô cùng hạnh phúc |
77%-100% |
8.4% |
Rộng rãi hạnh phúc |
66%-76% |
35.0% |
Suýt hạnh phúc |
50%-65% |
47.9% |
Không hài lòng |
0-49% |
8.8% |
Như vậy, để thực hiện chính sách phát triển của mình, Butan lấy người dân làm trung tâm, đồng thời luôn chú trọng giữ vững sự ổn định chính trị, bảo đảm môi trường bền vững, người dân sống hạnh phúc.
2. Hành trạng vua Trần Nhân Tông
Vua Trần Nhân Tông là hoàng đế thứ ba triều Trần nước Đại Việt, trị vì từ 1278 đến 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời. Đây là vị vua anh minh, thuần túy đạo mạo, sắc thái và thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng; đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cũng như bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước.
Được truyền ngôi năm 1278, vị hoàng đế trẻ phải đương đầu với hiểm họa xâm lược từ đế quốc Nguyên – Mông. Do vậy, ngay sau khi lên ngôi vua đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế, ổn định chính trị – xã hội, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành, cũng như thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên.
Năm 1293, truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên lên làm Thái thượng hoàng, sau đó xuất gia tu hành lấy hiệu Trúc Lâm đại sĩ, nhưng vẫn tham gia điều hành chính sự, đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới và mở rộng bờ cõi về phương Nam bằng phương pháp ngoại giao. Ngài là vị tổ sáng lập thiền phái Trúc Lâm – một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế.
Ngài đã đạt được trình độ cao về các lĩnh vực như quân sự, âm nhạc, lịch số học và thiên văn học, cũng như học kỹ về tam giáo và am hiểu tường tận giáo pháp nhà Phật.Trong thời kỳ tại vị, vua Nhân Tông vẫn sống theo tinh thần Phật giáo, đồng thời luôn lấy công án “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (xem lại chính mình là việc bổn phận, chẳng từ nơi khác mà được) để vượt qua chính mình. Như vậy, đây chính là tinh thần không những phát triển khả năng giải thoát mà còn nhập thế, phục vụ đất nước, nhân sinh.
Về kinh tế, hợp nhất hệ thống đo lường để thúc đẩy thương mại trên toàn quốc, khuyến khích nông dân tăng cường sản xuất; về chính trị-xã hội, cho điều tra và cập nhật dân số, đồng thời giải quyết nhanh các khiếu nại oan sai của người dân. Về giáo dục, dựng nhà học ở phủ Thiên Trường, chữ quốc ngữ được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm thơ văn ở Đại Việt.
Về đối ngoại, Trần Nhân Tông ứng xử vừa khéo léo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên; xây dựng mối quan hệ tích cực với nước Chiêm Thành
Thiền phái Trúc Lâm sử dụng các giá trị văn hóa Việt Nam và khuyến khích Phật tử cống hiến cho xã hội trên nền tảng Từ bi – Trí tuệ của Phật pháp. Bản thân Điều ngự đi thuyết pháp giáo hóa trong cả nước, kể cả ở thôn quê lẫn thành thị. Trên cương vị là thượng hoàng-thiền sư, ông đã dạy dân bài trừ các tập tục mê tín, dị đoan và tu dưỡng đức hạnh theo giáo pháp Thập thiện.
3. So sánh điểm giống và khác nhau giữa hành trạng vua Bhutan và vua Trần Nhân Tông
Qua hành trạng của vua Bhutan và vua Trần đã cho chúng ta thấy được điểm giống và khác nhau. Tuy nhiên, để có cái nhìn toàn cảnh, chúng tôi thống kê lại để thấy mạch lạc và rõ ràng hơn qua bảng so sánh dưới đây.
Điểm giống nhau |
Điểm khác nhau |
|
– Đều là Phật tử, lấy tư tưởng Phật giáo làm kim chỉ nam cho việc lãnh đạo, định hướng chính sách phát triển cũng như xây dựng nếp sống thường nhật – Là vị Vua đứng đầu của chế độ Quân chủ – Quan tâm đến nếp sống hạnh phúc người dân – Nhường ngôi cho con – Mang đậm dấu ấn của một Phật giáo nhập thế, chú trọng, quan tâm đên hạnh phúc người dân, từ đó xây dựng chính sách tạo nên thế giới tịnh độ hiện tiền – Đều là quốc gia nhỏ bé, luôn cố gắng đóng góp cho hòa bình và hạnh phúc bằng cách bảo vệ môi trường, gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa và bảo tồn di sản. – Trên mặt trận chính trị, luôn sống hài hòa với các nước láng giềng. – Cả hai quốc gia đều là đối tượng bị xâm chiếm, gây hấn bởi Trung quốc |
Vua Jigme Singye Wangchuck |
Vua Trần Nhân Tông |
Sinh sống vào thế kỷ XX , năm 1955 |
Sinh sống vào thế kỷ XIII, năm 1258 |
|
Lên ngôi lúc 17 tuổi, và tại vị 34 năm |
Lên ngôi lúc 21 tuổi và tại vị 15 năm |
|
Tinh thông giáo lý Phật giáo Kim cương thừa đậm chất Tây Tạng |
là nhà bác học, tinh thông Tam giáo; Phật học siêu việt |
|
Sau khi nhường ngôi cho con, vua lui khỏi chính trường và làm cố vấn các chính sách phát triển đất nước |
Sau khi nhường ngôi cho con, vua lên làm thái thượng hoàng, cố vấn cho vua Anh Tông, rồi xuất gia, tu hạnh đầu đà, lập nên một dòng thiền mang bản sắc dân tộc, đậm dấu ấn Phật giáo Việt Nam. |
|
Lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo hoạch định chính sách phát triển. Với triết lý GNH đã vượt tầm quốc gia, cống hiến cho nhân loại ngày hạnh phúc thế giới 20/3 – một sứ mệnh hoằng pháp thiết thực trên tầm quốc tế |
Tinh thần nhập thế: giải thoát chính mình khỏi ràng buộc thế tục và dựng xây nếp sống nhân sinh. |
|
Sau khi nhường ngôi, Bhutan chuyển quyền lựa chọn người điều hành đất nước vào tay nhân dân, thông qua việc bầu cử nghị viện, được tổ chức năm 2008 |
Sau khi nhường ngôi thì vẫn duy trì chế độ quân chủ để tiếp tục quản lý đất nước |
|
Có hiệp ước lâu đời với ấn độ để quân đội Ấn độ bảo vệ đất nước khi có chiến tranh xung đột với Trung quốc |
Dưới triều đại ông, nước ta phải đương đầu với hai cuộc kháng chiến chống Đế quốc Nguyên – Mông vào năm 1285, 1288.. |
|
Xây dựng ảnh hưởng cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu |
Xây dựng ảnh hưởng ở cấp độ quốc gia, khu vực |
|
Chỉ đặt quan hệ ngoại giáo với các nước có cùng quan điểm bảo vệ môi trường |
Ứng xử vừa khéo léo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên; xây dựng mối quan hệ tích cực với nước Chiêm Thành |
Qua bảng so sánh này, chúng ta thấy điểm chung nhất của hai nhà vua là luôn lấy giáo lý nhà Phật để làm kim chỉ nam trong nếp sống thường nhật cũng như trong chính sách, đường lối lãnh đạo đất nước với mục tiêu hướng đến hòa bình và hạnh phúc người dân. Lấy người dân làm trung tâm trong chính sách phát triển, quan tâm đến môi trường sống, giữ gìn bản sắc văn hóa, khéo léo trong chính sách đối ngoại, tô điểm nếp sống tâm linh, hướng đến nếp sống an lạc thật sự. Do vậy, từ hành trạng của hai nhà lãnh đạo này, tác giả xin mạnh dạn đề xuất gọi mở hướng phát triển bền vững kinh tế – xã hội Việt Nam
4.Hướng gợi mở cho việc đóng góp phát triển bền vững kinh tế – xã hội Việt Nam
Với Việt Nam, “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc” đã trở thành tôn chỉ quốc gia nên luôn cam kết nỗ lực nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng xã hội công bằng, phát triển bền vững nhằm đem lại hạnh phúc. Trong thực tế, các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về độc lập dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế đều nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Với gợi ý này, tùy theo điều kiện kinh tế xã hội và đường lối phát triển cũng như văn hóa vùng miền mà Việt nam có sự thay đổi cho phù hợp, đảm bảo được hướng phát triển của nhân loại, phù hợp mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Thứ nhất, hiện nay, nghèo đói, suy thoái môi trường, kiệt quệ nguồn tài nguyên đang có nguy cơ phá hoại các hệ thống hỗ trợ sự sống của trái đất. Do đó, chúng ta đang đối mặt với các lựa chọn thực sự. Thế giới nên theo đuổi GDP để phá hoại môi trường, tác động đến cuộc sống hay tìm một mô hình phát triển bền vững để đảm bảo cuộc sống hài hòa, hạnh phúc? Ngày nay, các nhà kinh tế tin rằng GDP đã quá giới hạn một công cụ đo lường sự thành công của xã hội, bởi nó không thể nắm bắt các yếu tố tạo nên sự khác biệt trong cuộc sống người dân và góp phần vào hạnh phúc. Trong nhiều năm hoạt động kinh tế, con người làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên khiến môi trường sống mong manh. Vì vậy, cách thức đo lường hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội mới, là một bước quan trọng trong tiến bộ hướng tới xây dựng một mô hình phát triển tốt đẹp và phù hợp hơn thì mô hình Bhutan là một gợi ý mới cho sự phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Thứ hai, trong cuộc họp phát động ngày hạnh phúc thế giới – khởi nguồn từ nhu cầu về cách tiếp cận tăng trưởng kinh tế cân bằng, hợp tình hợp lý hơn nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững, xóa nghèo và phấn đấu vì sự hạnh phúc và thịnh vượng cho tất cả mọi người – cựu Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon đã nhấn mạnh và đưa ra chuẩn mực chung nhất để đánh giá chỉ số hạnh phúc cho các quốc gia trên thế giới: “Chúng ta cần một mô hình kinh tế mới mà ở đó các bên phải công nhận sự phát triển bền vững của cả ba trụ cột xã hội, kinh tế và môi trường trong lành. Các yếu tố này kết hợp với nhau sẽ tạo ra khái niệm chỉ số chung về hạnh phúc toàn cầu.”[14] Như vậy, hạnh phúc được tạo nên bởi sự cân bằng chính sách của chính phủ, mà ở đó, các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường hài hòa với nhau, tạo thành một tổng thể thống nhất. Khi người dân đạt được sự cân bằng giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu về tinh thần thì sẽ sống và tạo dựng một xã hội hài hòa. Do đó, tinh thần nhập thế, hòa quang đồng trần hay cư trần lạc đạo sẽ là kim chỉ năm để xây dựng nếp sống an lành.
Thứ ba, trong thời kỳ hội nhập mọi nguồn tư tưởng cũng như văn hóa ngày càng làm cho văn hóa Việt Nam biến dạng. Văn hóa là gốc con người, nếu không giữ gìn văn hóa dân tộc thì tương lai Việt Nam không biết đi về đâu trong dòng chảy văn hóa hội nhập này. Do vậy, phải có chính sách giữ gìn và bão tồn các giá trị văn hóa để xây dựng hình ảnh cũng như nâng cao tinh thần dân tộc tự cường để giữ vững đất nước trong thời đại mới. Tồn tại và phát triển trong dòng chảy hội nhập mà không bị hòa tan.
Thứ bốn, Việt Nam hiện đang diễn ra một nghịch lý là đời sống đại đa số người dân được cải thiện rõ rệt, nhưng đạo đức và các giá trị cơ bản đang bị xói mòn, môi trường sinh thái đang bị hủy hoại, v.v. nếu không khắc phục được nghịch lý này thì những thành tựu tăng trưởng kinh tế mà cả dân tộc phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức mới đạt được sẽ trở nên vô nghĩa. Cho nên trong bối cảnh này, kinh nghiệm phát triển mô hình GNH của Bhutan, cũng như hành trạng đi vào quần chúng hướng dẫn tâm linh, dạy kinh thập thiện, bỏ ác làm lành, nêu cao gương hiếu v.v cũng là một gợi mở tham khảo đáng quý cho các nhà hoạch định chính sách phát triển Việt Nam.
5. Kết luận
Như vậy, từ hệ giá trị GNH Bhutan đến hành trạng vua Trần Nhân Tông cho ta thấy một lối đi riêng, một sức mạnh mềm thật sự hiệu quả trong dòng chảy phát triển sức mạnh quốc gia. Trong một định hướng tìm kiếm mô hình phát triển bền vững, đồng thời hướng đến kỷ nguyên “kinh tế hạnh phúc” thì hành trạng này là một lối đi đặc biệt, hướng đến sự an lạc giải thoát, phù hợp mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Cả đất nước Bhutan và Đại Việt với nền tín ngưỡng Phật giáo đã hình thành nên nếp nghĩ phát triển quốc gia độc đáo, mang dấu ấn Phật giáo với tư tưởng tri túc, an trú hiện tại. Để rồi, trong dòng chảy phát triển ấy, cả hai đều nhận ra được sự cần thiết cho các mối tương quan tương duyên, tương tức tương nhập giữa con người với mọi duyên liên quan để tồn tại, không những cho cuộc sống bây giờ mà còn đảm bảo cho thế hệ tương lai, đồng thời luôn hướng đến nếp sống nhân sinh an lạc.
Tài liệu tham khảo
- Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục
- Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội
- Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh
- Nguyễn Tài Thư (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2000), Anh hùng dân tộc thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn và quê hương Nam Định, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
- Nguyễn Tất Lân (2014), “Hệ giá trị tổng hạnh phúc quốc gia Bhutan và đời sống quốc tế hiện nay”, Tạp chí Đối ngoại – Ban đối ngoại Trung ương, số 12(62), tr. 46.
- Nguyễn Tất Lân (2015), “Vương quốc Bhutan và Hệ giá trị tổng hạnh phúc quốc gia”, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 8 (33), tr. 32.
- Nguyễn Tất Lân (2015), “Từ hệ giá trị tổng hạnh phúc Bhutan nghĩ về thành phố Đà Nẵng”, Tạp chí Phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng, số 66, tr. 64.
- Dasho Karma Ura and Dorji Penjore (2009), Gross National Happiness: Practice and Measurement, The Centre for Bhutan Studies.
- Karma Ura and Karma Galay (2004), Gross National Happiness and Development, The Centre for Bhutan Studies.
- Karma Phuntsho (2013), The history of Bhutan, Published by Random House India.
- The Centre for Bhutan Studies and GNH Research (2016), A Compass Towards a Just and Harmonious Society, Centre for Bhutan Studies and GNH Research.
- Bhutan Foundation, Bhutan believes in gross national happiness, http://www.bhutanfound.org/?p=151
- Ban Ki-moon (2012), Secretary-General in Message to Meeting on ‘Happiness and Well-being’ Calls for ‘Rio+20’ Outcome that Measures More than Gross National Income, http://www.un.org/ press/en/2012/sgsm14204 .doc.htm
- Dr. Saamdu Chetri, National Happiness An Alternative Paradigm to Sustainable Socio-economic Development, http://www.aquaac.org/dl/ 1nl3art3.html
- Karma Ura, An Introduction to GNH (gross national happiness), https://www.schumachercollege.org.uk/learning-resources/an-introduction-to-gnh-gross-national-happiness
- Khenpo Phuntsok Tashi, The Role of Buddhism in Achieving Gross National Happiness, http://www.bhutanstudies.org.bt/ publicationFiles/Conference Proceedings/GNHandDevelopment/27. GNH&development.pdf
Discussion about this post