THỰC HÀNH TÍNH CHÂN THẬT
Barbara O’brien | Nguyễn Văn Nhật dịch
Giới luật nhà Phật không phải là những quy tắc bắt buộc mà tất cả mọi người đều phải tuân thủ. Thay vào đó, việc thực hành giới luật chỉ là những cam kết cá nhân của những người đã chấp nhận đi theo con đường Phật giáo. Việc thực hành giới luật chính là một hình thức rèn luyện để đạt tới sự giác ngộ.
Vọng ngữ chính là giới thứ tư thuộc hệ thống giới luật của nhà Phật, được thể hiện trong kinh điển Pali như sau: “Tôi nguyện tránh xa sự nói dối”. Giới thứ tư cũng được diễn tả là việc từ bỏ sự dối trá hoặc việc thực hành tính chân thật.
Norman Fischer, một vị giáo thọ thuộc thiền Tào Động Nhật Bản, nêu lên lời nguyện thứ tư là: “Tôi nguyện không dối trá mà nguyện giữ sự chân thật”.
Giữ gìn sự chân thật nghĩa là gì
Trong Phật giáo, việc giữ gìn sự chân thật không chỉ là không nói điều không đúng với sự thật. Quả thực, tính chân thật trong Phật giáo có nghĩa là nói điều thật thà và ngay thẳng. Nhưng ở đây còn có nghĩa là sử dụng lời nói để mang lại lợi ích cho cả người khác nữa, chứ không phải chỉ làm lợi cho riêng mình. Khi lời nói có gốc rễ của tam độc – tham sân si – thì đó là lời lừa lọc.
Nếu điều bạn nói ra được sắp đặt để mang lại cho bạn điều mình muốn, hoặc để làm tổn thương người mà bạn không ưa, hay chỉ để cho thấy rằng bạn quan trọng hơn người khác, thì những lời ấy cũng chỉ là lời lừa lọc mặc dù chúng có chứa đựng những phần sự thật. Chẳng hạn, việc lặp đi lặp lại dư luận xấu về một người nào đó mà bạn ghét thì cũng thuộc loại lời lừa lọc, ngay cả dư luận ấy là thực.
Một vị giáo thọ thiền Tào Động khác, Reb Anderson, có chỉ ra trong tác phẩm của ông, Trở thành chính trực: Thiền định và Bồ-tát giới (Being Upright: Zen Meditation and the Bodhisattva Precepts [Rodmell Press, 2001]) rằng, “Mọi lời nói dựa trên sự quan tâm quá mức đến lợi ích của chính mình đều là lời lừa lọc hay lời gây hại”.
Ngài bảo rằng những lời nói dựa trên sự quan tâm quá mức đến lợi ích của người nói đều là những điều được sắp đặt để nói ra nhằm tự đề cao mình, nhằm tự bảo vệ mình hoặc nhằm tạo điều kiện khiến mình có được những gì mình đang mong cầu. Ngược lại, lời chân thực xuất hiện một cách tự nhiên từ lòng vị tha, từ sự quan tâm đến lợi ích của người khác.
Sự thật và Ý định
Lời nói không thật bao gồm những lời nói hoặc đưa ra một nửa sự thật hoặc chỉ thể hiện một phần sự thật. Một lời nói chứa đựng một nửa sự thật hay chỉ một phần sự thật là một phát biểu có chứa đựng những phần sự thật nhưng xóa bớt thông tin theo cách sao cho có thể chuyên chở những điều dối trá. Nếu bạn từng đọc các mục “Xác minh Thực tế” trên những tờ nhật báo quan trọng, bạn có thể thấy rất nhiều phát biểu nghe rất kêu nhưng thực ra chỉ là những nửa sự thật. Chẳng hạn, nếu một chính khách nói, “Chính sách của đối thủ của tôi là sẽ tăng thuế…” nhưng ông ta lại bỏ đi một phần lời phát biểu của đối thủ về chính sách ấy, vốn xác định rằng “… đối với những khoản thu nhập trên một triệu đô-la”, thì đó chỉ là một nửa sự thật.
Trong trường hợp này, điều mà nhà chính khách ấy nói chỉ nhằm mục đích khiến cho thính giả của ông ta nghĩ rằng nếu họ bỏ phiếu cho đối thủ của ông ta thì mức thuế phải nộp của họ sẽ tăng lên.
Việc nói sự thật đòi hỏi phải có chánh niệm về điều gì là sự thật. Điều này cũng đòi hỏi chúng ta phải xét kỹ, xem có những điều gì thúc đẩy ta phải nói hay không, để bảo đảm rằng không hề có một dấu vết nào liên quan đến sự bám chấp của tự ngã đằng sau những lời lẽ của ta.
Chẳng hạn, những người hoạt động vì những lý tưởng xã hội và chính trị thường trở nên bị nghiện với những điều mà họ tự cho là lý tưởng của sự công chính. Những phát biểu nhằm kêu gọi sự ủng hộ cho lý tưởng của họ trở nên bị ô nhiễm bởi nhu cầu thề hiện cảm tưởng rằng họ có phẩm chất ưu việt về mặt đạo đức.
Đối với Phật giáo Nguyên thủy, có bốn yếu tố được coi là vi phạm đến giới vọng ngữ này: 1. Một tình thế hay một trạng thái công việc không thật; một điều gì đó có tính dối trá. 2. Một ý định lừa gạt. 3. Sự biểu hiện điều sai lầm, cho dù bằng lời, bằng điệu bộ, hay bằng “ngôn ngữ cơ thể”. 4. Việc truyền đạt một ấn tượng sai lạc.
Nếu một người nói một điều không thật trong lúc thành thực tin tưởng đó là sự thật, không nhất thiết phải coi rằng người ấy đã vi phạm giới thứ tư. Tuy nhiên, hãy cẩn thận với điều mà các luật sư trong các vụ kiện liên quan đến tội phỉ báng gọi là “liều lĩnh coi thường sự thật”.
Sự liều lĩnh loan truyền những thông tin không đúng với sự thật mà lẽ ra trước đó ít nhất cũng phải có một chút cố gắng kiểm chứng cũng là một trong những trường hợp không biết thực hành giới cấm thứ tư, ngay cả khi người loan truyền thông tin ấy thực tình tin rằng thông tin ấy là sự thật.
Điều đúng đắn là phải phát triển được một thói quen tinh thần để biết hoài nghi trước những thông tin mà bạn muốn tin tưởng. Khi ta nghe được một điều gì đó có tác dụng củng cố những định kiến có sẵn của mình, luôn luôn có một khuynh hướng rất thường tình là ta chấp nhận điều đó một cách mù quáng, nếu không nói là bằng cả một sự háo hức, không cần kiểm chứng, rằng đó chính là sự thật. Vì vậy, hãy thật cẩn thận.
Không nhất thiết lúc nào cũng phải tử tế
Việc thực hành tính chân thật không có nghĩa là ta không được phép thể hiện sự không đồng ý hoặc sự chỉ trích. Trong tác phẩm Trở thành Chính trực đã được nêu ở trên, Reb Anderson cho rằng ta cần phân biệt giữa điều gây tổn hại với điều gây ngỡ ngàng. Ngài bảo rằng cũng có khi ai đó nói cho ta về một sự thực và điều đó làm ta ngỡ ngàng và có thể bị thương tổn, nhưng đó lại là điều có ích.
Đôi khi, chúng ta cần phải lên tiếng để ngăn chặn sự tổn hại hay sự đau khổ, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng dũng cảm thực hiện điều ấy. Mới đây, một nhà giáo dục được nhiều người kính trọng bị phát hiện là đã xâm hại tình dục trẻ em trong suốt một thời kỳ nhiều năm liền; sự việc được nhiều vị cộng sự của ông này biết rõ.
Thế nhưng, suốt nhiều năm ấy, không một ai lên tiếng, hoặc ít nhất, không một ai lên tiếng vừa đủ để ngăn chặn những vụ xâm hại đó. Có lẽ, những vị đồng sự của nhà giáo dục đáng kính đó đã cố giữ im lặng để bảo vệ tổ chức nơi họ làm việc hoặc bảo vệ sự nghiệp của chính họ, hoặc cũng có thể họ không đủ khả năng đối mặt với sự thật của những điều đang xảy ra.
Vị đại sư quá cố Chogyam Trungpa đã đặt tện cho thái độ đó là “lòng từ bi ngu xuẩn”. Một thí dụ của lòng từ bi ngu xuẩn ấy là việc trốn sau bức bình phong của sự tử tế để tự bảo vệ chúng ta trước những mâu thuẫn hay tranh chấp và vô số những điều khó chịu khác.
Lời nói và trí tuệ
Một vị đại sư đã quá cố khác là Robert Aiken có nói:
“Việc nói dối chẳng khác nào việc giết hại, quan trọng nhất là việc giết hại đạo pháp. Sự dối trá được thiết lập để bảo vệ ý tưởng về một thực thể đã được định hình, một hình ảnh của cái ngã, một khái niệm, hoặc một tổ chức. Tôi muốn được biết đến như một người nhiệt tâm và nhân ái, cho nên tôi phủ nhận khi có ai bảo rằng tôi là một kẻ tàn nhẫn, ngay cả điều đó có thể khiến có người bị tổn thương. Thế nhưng, đôi khi, tôi phải nói dối để bảo vệ một người nào đó hoặc cả một nhóm đông đảo những con người, những bầy động vật, những cụm thực vật hoặc những sự vật… khỏi bị tổn hại, hoặc tôi tin rằng tôi phải hành động như vậy”.
Nói cách khác, việc nói ra sự thật đến từ sự thực hành tính chân thật, tính lương thiện đến tận cùng. Và nền tảng của điều đó là lòng từ bi có gốc rễ từ trí tuệ. Trí tuệ trong Phật giáo dẫn chúng ta đến với giáo lý vô ngã. Việc thực hành giới thứ tư dạy cho chúng ta phải nhận biết thật rõ về sự nắm bắt và sự bám chấp của chúng ta.
Chính việc biết rõ về sự nắm bắt và sự bám chấp của chúng ta có khả năng giúp chúng ta thoát khỏi sự câu thúc của tính ích kỷ.
Giới vọng ngữ và Phật giáo
Nền tảng của giáo lý Phật giáo được gọi là Tứ diệu đế. Rất đơn giản, Đức Phật dạy rằng do bị tham sân si chế ngự cho nên đối với chúng ta, cuộc đời này chỉ tràn ngập những điều gây phiền muộn và không có gì làm chúng ta thoả mãn (điều mà chúng ta thường nghĩ đời là bể khổ). Phương tiện để thoát khỏi bể khổ ấy của cuộc đời chính là Bát Chánh đạo.
Giới luật liên quan trực tiếp đến chi phần thứ tư của Bát Chánh đạo, gọi là chánh nghiệp. Giới vọng ngữ cũng kết nối trực tiếp với chi phần thứ ba của Bát Chánh đạo gọi là chánh ngữ, nói lời chân thật.
Đức Phật dạy: “Và thế nào là chánh ngữ? Tránh nói dối, tránh lời gây chia rẽ, tránh lời lăng mạ và tránh nói chuyện phiếm. Như thế được gọi là chánh ngữ”.
(Kinh Tương ưng, thiên Đại phẩm, Tương ưng Đạo)
Việc chọn giới thứ tư làm công cụ tu tập là một sự thực hành sâu sắc đi thẳng vào thân tâm cùng tất cả mọi khía cạnh khác trong cuộc sống của chúng ta. Bạn sẽ phát hiện rằng bạn không thể trung thực với người khác cho đến khi bạn đạt được sự trung thực với chính mình, và có thể việc đạt được sự trung thực với chính mình là thách thức lớn hơn hết tất cả. Nhưng đó chính là một bước cần thiết để đi tới giác ngộ.
Nguyên tác: The Practice of Truthfulness, Barbara O’Brien. Tác giả: Barbara O’Brien tốt nghiệp về báo chí tại Đại học Missouri, là một học viên về Thiền Phật giáo và chịu trách nhiệm đưa tin về tôn giáo, văn hoá, chính trị ở Hoa Kỳ cho các tờ báo Hoa Kỳ và Phật giáo Hoa Kỳ như The Guardian, The Tricycle…, là tác giả của một số quyển sách về Phật giáo và tôn giáo nói chung. Barbara O’Brien có nhiều đóng góp cho Learn Religions and Dotdash, những trang mạng tìm hiểu và phổ biến kiến thức về tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng.
Nguồn: https://www.learnreligions.com/the-fourthbuddhist-precept-450102.
Barbara O’brien | Nguyễn Văn Nhật dịch | Văn Hóa Phật Giáo Số 34 ngày 01-12-2019
Discussion about this post