các bài phát thanh Phật giáo, chúng tôi thường được
nghe quý vị đề cập đến những từ ngữ như “Tâm”, “trôi
lăn từ vô lượng kiếp”, “chiều dài của dòng sinh
tử” và “tu hành để chấm dứt vòng luân hồi”, vân vân
……
Thắc
mắc của tôi là nếu quả thật tôi đã từ cái “Tâm”
mà luân hồi nhiều kiếp, thì tại sao cái “Tâm” của tôi
lại không nhớ được những chuyện xảy ra trong các kiếp
quá khứ của tôi.
Thưa
quý
thính giả,
Chữ
Tâm trong nhà Phật gồm hai phần là “Tâm Chân Như”
và “Tâm Sinh Diệt”.
– “Tâm
Chân Như” còn được gọi là “Chân Tâm”. Chân
Tâm cũng tức là Bản Thể Tuyệt Đối, Phật Tánh, Giác Tánh,
Giác Tri Kiến, Tri Kiến Phật, Trí Tuệ Bát Nhã (Prajna Paramita),
Tánh Không, Niết Bàn, Buddha Nature, Buddha Mind, True Mind, The Truth,
… vân vân …
“Tâm
Sinh Diệt” còn được gọi là “Vọng Tâm” thì
nền tảng của nó là Tàng Thức, nghĩa là cái kho, còn gọi
là Thức Thứ Tám trong Tâm Lý Học, mà thuật ngữ nhà Phật
gọi là Duy Thức Học.
Nhà
Phật quan niệm rằng tất cả các hiện tượng trên thế gian
đều do Tâm Thức biến hiện mà thành, cho nên gọi là Duy
Thức. Muốn thấu triệt quan điểm này thì phải nghiên cứu
sâu vào Duy Thức Học. Ở đây, chúng tôi chỉ có thể giới
thiệu khái quát. Cũng như chúng tôi chỉ có thể giới thiệu
với những người chưa bao giờ biết bánh chưng là gì, rằng:
“Dùng lá dong, gạo nếp, đậu xanh gói lại luộc kỹ, sẽ
thành bánh chưng”. Có khái niệm tổng quát rồi, ai muốn
nấu sẽ phải nghiên cứu vào chi tiết, mới có thể thực
hiện được.
Theo
kinh Viên Giác của nhà Phật, thì “Tất cả chúng sinh
vốn là Phật” cũng như vàng vốn sẵn là vàng, nhưng
là vàng quặng, lẫn tạp chất, nên phải gạn lọc, xả bỏ
tạp chất cho sạch để trở về bản chất vàng, chứ không
phải dùng chất khác mà làm thành vàng được. Tu hành cũng
vậy, chỉ là xả bỏ chất độc hại là Tham Sân Si, chấm
dứt vọng tâm điên đảo, thanh tịnh hóa Tâm, là trở
về Bản Thể Phật Tánh, mà Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma dùng
chữ của thế gian cho dễ hiểu, gọi là “Kiến Tánh thành
Phật”.
Kinh
Lăng Nghiêm dạy rằng dòng sinh mệnh khởi đi do một niệm
vô minh bất giác, bỗng nổi lên từ Biển Tâm mênh mông, cũng
như người đang thức, chớp mắt đã lạc vào giấc ngủ.
Trong mơ, thấy đủ thứ hiện ra, bị đánh cũng thấy đau,
khóc cũng có nước mắt, sợ hãi cũng chạy trốn, vân vân
… Nhưng thời gian của giấc ngủ bình thường chỉ lâu có
một đêm, sáng dậy bèn biết ngay rằng chuyện xảy ra trong
đêm là ngủ mơ, không thật.
Dòng
sinh tử của con người kéo dài triền miên, từ cái niệm
vô minh bất giác đó khởi đi, hết đời này tới kiếp khác,
tạo nghiệp thiện, hoặc ác, tất cả đều chứa trong Tàng
Thức (là cái kho), làm nhân cho những kiếp sau, tiếp tục
trôi lăn trong mê vọng của sinh tử luân hồi, mãi đến khi
nào thức tỉnh, trở lại được trạng thái Tâm Thanh Tịnh,
thì mới hội nhập lại với Bản Thể Chân Tâm được, đó
là Kiến Tánh thành Phật.
Phật
có nghĩa là người giác ngộ, không phải thần linh. Vì
vô minh khởi đi từ vô thủy, hiện hành Thức Tâm sinh diệt,
vốn không có thật, nên nhà Phật không quan niệm rằng
có một linh hồn trường tồn bất biến, kéo dài từ kiếp
này qua kiếp khác đến vô tận, mà chỉ coi dòng đời
hiện ra do sự chi phối của nghiệp nhân thiện, hoặc ác,
trong Tàng Thức, khi Tâm trở lại trạng thái thanh tịnh, không
còn nghiệp nhân làm chủng tử gây nên đời sau, thì dòng
đời sẽ chấm dứt, hội nhập Bản Thể Chân Tâm.
Do
quan niệm rằng cõi đời này là thế giới tương đối, là
hư vọng, không phải là tuyệt đối chân thật, cho nên nếu
có người khi tái sinh không nhớ được kiếp sống cũ, trong
khi có người khác lại nhớ được, thì cũng là chuyện nằm
trong quy luật tương đối. Nhà Phật không thuyết phục mọi
người bằng những lối giải thích mê tín, áp đặt người
nghe phải tin. Vì thế, trước những hiện tượng xảy ra có
bằng chứng rõ ràng, người Phật tử ghi nhận một cách công
bình, phóng khoáng.
Với
tinh thần nghiên cứu, tìm hiểu, chúng tôi xin kính gửi tới
quý thính giả một vài trường hợp hiển nhiên, điển hình
là trường hợp ông Edgar Cayce, một người đã có khả
năng thần giao cách cảm, trong khi nhắm mắt ở trạng thái
bị thôi miên, ông có thể thấy và chẩn bệnh, điều trị
cho những bệnh nhân ở bất cứ nơi đâu, dù cách xa hàng
trăm dặm và dù ông không phải là y sĩ.
Edgar
Cayce sinh ngày 18 tháng 3 năm 1877 tại tỉnh Hopkinsville, tiểu
bang Kenturky, tạ thế ngày 3 tháng Giêng năm 1945, tai tỉnh
Virginia Beach, tiểu bang Virginia.
Từ
năm 1901, vừa tròn 24 tuổi, cho đến khi qua đời, ông
ta đã giải quyết được 14 ngàn trường hợp bệnh tật,
trong số đó có chín ngàn hồ sơ ghi bằng lối tốc ký, hiện
được tàng trữ tại tỉnh Virginia Beach.
Trong
khi nhắm mắt ở trạng thái bị thôi miên, sau khi nghe lời
giới thiệu về tên họ và địa chỉ bệnh nhân, ông bắt
đầu cất tiếng nói, phần lớn là với giọng bình thường
của ông, về bệnh lý của bệnh nhân, ngay cả những người
ở cách xa hàng trăm dặm, như là tâm ý thức của ông đang
ở bên cạnh họ, đang nhìn thấy họ vậy.
Trong
khi ông nói thì tốc ký viên ghi lại. Nếu người tốc ký
ghi sai thì dù đang nằm nhắm mắt, ông cũng “nhìn” thấy,
và yêu cầu người tốc ký sửa lại. Điều này cũng phù
hợp với lời Phật nói trong kinh Lăng Nghiêm rằng “Tâm không
ở trong thân, không ở ngoài thân, không ở quãng giữa, (mà
ở khắp nơi)”.
Vào
năm 1932, một tổ chức được thành lập, mang tên là Association
For Research and Enlightement, tại tỉnh Virginia Beach, để lưu
trữ các tài liệu quý giá này của ông. Nếu muốn nghiên
cứu thêm, xin mời quý thính giả tìm đọc những tài liệu
này ở địa chỉ hội tại số nhà 215 đường 67th Street,
thành phố Virginia Beach, Zip code 23451, hoặc vào website
: http://www.edgarcayce.org
Câu
chuyện về Edgar Cayce là một trong những đề tài khó hiểu
đối với giới khoa học kỹ thuật. Nhưng sự thực hiển
nhiên được phơi bày rõ ràng như thế, đã tạo cảm hứng
cho những nhà khoa học có tâm hồn khai phóng, bắt đầu nhìn
thêm nhiều khía cạnh khác, về những hiện tượng trong đời
sống tương đối này. Cũng vì vậy, đối với vấn đề Tâm
Linh, càng ngày giới khoa học gia càng để tâm nghiên cứu.
Theo bác sĩ Peter Fenwick về tâm lý học thì vào năm 1995, chỉ
có ba lớp Tâm Linh Học trong các trường Đại Học Y Khoa Hoa
Kỳ, qua năm 1998, tăng lên thành 40 lớp, và tăng nhanh lên tới
100 lớp vào năm 2001.
Để
chứng tỏ sự quan tâm của các tầng lớp vốn ảnh hưởng
nặng về khoa học kỹ thuật, nay đem công sức nghiên cứu
về các hiện tượng tâm linh, chúng tôi xin kính gửi quý thính
giả bài viết “Câu
chuyện tái sinh của Jenny”, do cư sĩ Tâm Diệu thuật
lại theo tài liệu của chương trình 20/20, đài ABC, phát hình
vào lúc 10 giờ đêm Thứ Sáu ngày 10 tháng 6 năm 1994, như sau:
Vào
mùa xuân năm 1993, một bà mẹ người Anh 40 tuổi, tên là Jenny,
đang sinh sống với chồng và hai con ở thành phố Northamptonshire
Anh quốc, đã đoàn tụ với năm người con của bà trong đời
sống trước, tại Malahide, một thị trấn nhỏ ở miền bắc
nước Aí Nhĩ Lan.
Mùa
xuân năm nay 1994, Bob Brown và nhóm phóng viên truyền hình của
chương trình 20/20 ABC, Hoa Kỳ, đã đến tận nơi đây làm
phóng sự về câu chuyện tái sinh của bà mẹ này, cùng hội
họp với những người con trong kiếp sống trước của bà.
Đây là câu chuyện tái sinh có thực, đã xảy ra vào cuối
thế kỷ thứ hai mươi này, một câu chuyện cảm động về
một người mẹ đi tìm con vượt biên cương, trở về kiếp
quá khứ.
Ngay
từ nhỏ, cô Jenny luôn luôn nhớ ra rằng mình đã có
một đời sống ở kiếp trước, nơi một ngôi làng nhỏ bên
bờ biển xứ Ái Nhĩ Lan, với tên là Mary. Mary, một
người đàn bà trẻ, tầm vóc trung bình, đã từ trần 21 năm
trước khi Jenny được sinh ra ở Anh Cát Lợi.
Một
trong những giấc mơ luôn luôn hiện lên trong trí nhớ của
Jenny là giây phút lìa đời của Mary, trong nỗi đơn độc
đau khổ của mình, và lo âu về tương lai đầy bơ vơ của
các con, mà đứa lớn nhất mới có 13 tuổi. Nỗi lo âu và
đau khổ này đã ám ảnh, hiển hiện thường trực trong tâm
trí nàng từ lúc còn nhỏ.
Ngay
từ khi mới bắt đầu cầm được cây bút, Jenny đã vẽ bản
đồ làng, với những con đường dẫn đến một căn nhà mái
tranh nơi Mary ở, đến nhà thờ, ga xe lửa, các cửa hàng bách
hóa… và sau này so sánh với bản đồ Ái Nhĩ Lan của nhà
trường, Jenny đã khám phá ra rằng, bản đồ mà nàng đã
vẽ từ trí nhớ, và trong những giấc mơ tiền kiếp, đã
thật giống với bản đồ một làng nhỏ nằm ở phía bắc
thành phố Dublin Ái Nhĩ Lan, có tên gọi là Malahide.
Theo
năm tháng, Jenny lớn dần cùng với hình ảnh căn nhà mái tranh,
với từng căn phòng, góc bếp, với hình ảnh nhà thờ quán
chợ, nơi thị trấn hiền hòa Malahide càng lúc càng rõ rệt.
Trong tâm tưởng, nàng vẫn cảm thấy có lỗi với các con,
khi bỏ chúng lại bơ vơ nơi cõi trần, nên nàng quyết định
đi tìm con.
Jenny
sắp đặt kế hoạch, nhưng lại không đủ khả năng tài chánh
cho chuyến đi qua xứ Ái Nhĩ Lan, nên đành hoãn lại và tình
nguyện làm một người thôi miên, cho một thôi miên gia chuyên
môn tìm hiểu quá khứ. Qua thôi miên Jenny đã mô tả chi tiết
căn nhà, từng bức hình treo trên tường, kể cả một tấm
hình của Mary. Jenny cũng mô tả và vẽ ra hình nhà thờ.
Cuối
cùng Jenny đã để dành đủ tiền, để thực hiện một chuyến
du hành qua Ái Nhĩ Lan, đi tìm những dấu tích của căn nhà
mái tranh, của những đường xưa lối cũ. Đến Malahide, nàng
đã đứng lặng trước một căn nhà, mà bên kia là ngã ba
đường, dẫn về thành phố. Nàng thấy hình ảnh này sao mà
quen thuộc quá, giống như trong trí tưởng, giống như bản
đồ nàng đã vẽ.
Sau
chuyến đi, Jenny trở về Anh quốc và bắt đầu thực hiện
kế hoạch tìm con. Nàng viết thư cho tất cả các báo ở Ái
Nhĩ Lan, các tổ chức sử học, các văn phòng hộ tịch, các
chủ phố, và dân làng Malahide để yêu cầu giúp đỡ về
tin tức của một người đàn bà tên Mary, chết vào năm 1930,
cùng với tin tức về những người con của bà này.
Một
thời gian lâu sau đó, Jenny nhận được thư của một chủ
đất ở Malahide cho biết ở đó trước đây có một gia đình
mà người mẹ tên là Mary đã chết sau khi sinh đẻ một
thời gian ngắn, để lại sáu đứa con còn sống. Last name
của người đàn bà bất hạnh đó là Sutton, và sau khi
bà Sutton qua đời, những đứa con đã được gửi vào các
cô nhi viện.
Đúng
như trong trí tưởng, và trong các giấc mơ về nỗi lo âu của
Mary khi lìa đời, các con của bà đã thực sự bơ vơ đi vào
các trại mồ côi. Jenny đau khổ gửi thư cho tất cả các
viện mồ côi ở Ái Nhĩ Lan, để dò hỏi tin tức và cuối
cùng một vị giáo sĩ của một nhà thờ thành phố Dublin đã
hồi âm. Sau khi thư từ qua lại với các cơ sở họ đạo
và bộ giáo dục Ái Nhĩ Lan, vị giáo sĩ này cho biết tên
của tất cả sáu người con bà Mary, và nói rằng sáu đứa
trẻ này đã trở thành Ki Tô hữu tại nhà thờ Thiên Chúa
Giáo Saint Sylvester tại Malahide. Lá thư của vị giáo sĩ không
dài lắm, nhưng đã mang lại niềm tin và hy vọng lớn lao cho
Jenny.
Sau
đó, qua niên giám điện thoại, Jenny đã gửi thư đến tất
cả những ai mang họ Sutton tại Aí Nhĩ Lan. Nàng cũng nhận
được một bản sao giấy khai tử của Mary, và hai bản sao
giấy khai sinh của hai người con, nhưng vẫn không tìm ra tung
tích. Một lần nữa Jenny lại gửi thư cho tất cả các báo
ở Dublin, và thư cho giáo sư Tiến sĩ Stevenson, một chuyên
gia nghiên cứu về các hiện tượng của đời sống quá khứ
để nhờ giúp đỡ. Stevenson giới thiệu Jenny với Gitti Coast,
một nhà nghiên cứu thuộc cơ quan truyền thông Anh quốc BBC.
Một
thời gian khá lâu sau đó, Jenny nhận được điện thoại từ
người con thứ hai ở Ái Nhĩ Lan. Cuộc nói chuyện hết sức
khó khăn, với nhiều tình cảm lẫn lộn, nhưng nói chung có
những dấu hiệu tốt đẹp. Jenny hứa sẽ gửi toàn bộ hồ
sơ lưu trữ từ nhiều năm qua. Tư tưởng của nàng lúc này
cũng lộn xộn. Mặc dầu biết là các con của Mary bây giờ
đều đã ở vào lứa tuổi 50 và 60, nhưng Jenny vẫn có cảm
giác mạnh mẽ về tình mẫu tử, vẫn có cảm giác mình là
mẹ của họ.
Giai
đoạn cuối của công cuộc tìm kiếm đã tới. Nàng thông
báo đầy đủ diễn tiến mới cho Gitti Coast của đài BBC.
Câu chuyện kỳ lạ của nàng đã khiến cho đài BBC muốn dự
án tìm con của Jenny, trở thành một tài liệu sống của ban
nghiên cứu, nên đã thương lượng với Jenny. Phần Jenny, nàng
chỉ yêu cầu có một điều duy nhất, là đặt sự phúc lợi
và niềm an bình hạnh phúc của gia đình lên trên hết.
Chờ
mãi không thấy thư của người con thứ hai, mà Jenny đã nói
chuyện qua điện thoại, nàng quyết định liên lạc với Sonny,
hiện đang ở thành phố Leeds Anh quốc.
Sonny
là người con đầu của Mary Sutton, khi Mary qua đời cậu mới
11 tuổi, và vào ngày Thứ Ba 15 tháng 5 năm 1990 sắp tới, Sonny
đã 71 tuổi. Qua cuộc điện đàm, Jenny mô tả cho Sonny biết
về quá khứ của cậu, về hình ảnh căn nhà mái tranh, về
tính nết của cậu, về những lời nói hay câu mắng của
Mary với cậu hồi đó. Đi từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác, và khó có thể ngờ được người đầu dây bên
kia lại chính là mẹ mình. Sonny ngỏ ý muốn được gặp Jenny
ngay.
Như
đã thỏa hiệp với đài BBC, Jenny thông báo những biến chuyển
mới cho họ biết. Đài BBC muốn phỏng vấn Sonny trước, và
trong thời gian này hai người không được liên lạc với nhau.
Họ muốn nghiên cứu tường tận về Sonny, rồi phân tích
và so sánh với những dữ kiện mà họ đã có về Jenny. Cũng
trong thời gian này, họ đã phỏng vấn thêm Jenny về những
điểm chưa sáng tỏ.
Cuộc
điều tra của đài BBC kéo dài 4 tháng, và cuối cùng Jenny
đã đích thân lái xe đưa cả gia đình của nàng đến thành
phố Leeds hội ngộ cùng Sonny. Cuộc đoàn tụ đã diễn ra
thật cảm động; Giấc mơ đi tìm con của Jenny đã trở thành
sự thực, hai mẹ con, mẹ trẻ con già, đã ôm nhau với những
dòng nước mắt tuôn trào.
Sonny
cũng như Jenny đều đã nhận được bảng phân tích và so
sánh dữ kiện của đài BBC trước đó. Các chuyên gia đài
BBC đều không thể ngờ được rằng những sự kiện hiện
ra trong tâm trí lại có thể đúng một cách chính xác với
thực tế như vậy, và chuyện có một đời sống sau khi chết
đang hiển hiện rõ ràng.
Năm
1993, với sự giúp đỡ của Sonny, Jenny đã hội ngộ với
tất cả 5 người con còn sống. Hơn 60 năm từ khi mẹ họ
qua đời, anh em mới được đoàn tụ với nhau, và đặc biệt
hơn cả là đoàn tụ với người mẹ đã tái sinh, trẻ trung
trong kiếp sống này, để đi tìm họ.
Năm
1994, Bob Brown và nhóm phóng viên truyền hình chương trình 20/20
đài ABC Hoa Kỳ, đã một lần nữa mang Jenny và 5 người con
trở về thị trấn Malahide đoàn tụ với nhau, nhân dịp kỷ
niệm sinh nhật thứ 75 của Sonny.
Trong
dịp này, Jenny đã được người con cả, nay đã 75 tuổi,
dẫn đến thăm mộ phần của nàng kiếp trước. Đứng trước
phần mộ và ống kính thu hình, nàng đã nói rằng: “Không
có ai trong mộ này. Cái còn lại trong đó chỉ là những mảnh
xương khô, thực sự không là gì cả, phần năng lực tinh
thần hiện nay đang ở trong tôi.”
Thưa
quý thính giả,
Trên
đây là câu chuyện bà mẹ đi tìm những người con trong kiếp
trước. Cũng như bà mẹ này, trong dòng sinh tử, chúng ta cũng
đã liên hệ với biết bao nhiêu người. Ngày nay, nhờ có
những máy điện toán tối tân, các nhà toán học và nhân
chủng học đã cho chúng ta biết rằng, mỗi chúng ta có tới
hàng tỷ ông bà cha mẹ từ quá khứ đến hiện tại, và tất
cả nhân loại đều là anh em họ hàng của nhau. Nếu sự nhận
ra được mối liên hệ ấy, mà khiến cho mọi người cảm
thấy dễ gần gũi, thông cảm và tha thứ cho nhau trong giao
thiệp hằng ngày, thì cuộc đời tươi đẹp biết bao!
Ban
Biên Tập/TVHS
Discussion about this post