Ý KIÊN PHẢN HỒI CỦA ĐỘC GIẢ
Hi VM Hong,
Bài
nầy rất hay và khá lý thú để suy gẫm. Đề tài ” não bộ trái và phải ” đã
được Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời trong 1 cuộc phỏng vấn của giới khoa học tổ chức vài năm trưóc đây, và đã được phát thanh ở đài phát thanh Việt Ngữ SBS Úc Châu. Đề mục mà tôi chú ý nhiều nhất trong bài nầy là Chương 17 nói về sự an lạc trong tâm hồn do bán cầu não phải mang
lại, đó là : không cảm nhận được thân thể dài ngắn tới đâu, như là vô giới hạn, tưởng mình như bao trùm cả vũ trụ, không biết mình là ai, quá khứ hiện tại ra sao, không có ý niệm về không gian 3 chiều, không cảm thấy mình bị ràng buộc tình cảm với ai, tuy cũng có tình yêu thương,
biết nhường nhịn, chia sẻ và biết ơn. Theo ông nghĩ, đây có phải là ảo giác hay không ? Nếu đó là ảo giác thì là 1 loại ảo giác quá tốt cho chính đương sự và cũng cho tất cả mọi người. Cảm giác hay ảo giác như vậy thường có trong những trạng thái thiền định mà thiền giả tinh tấn nào cũng có thể trải qua, tỉ như Vô Biên Thân của Phổ Hiền Bồ Tát ( trong kinh Niệm Phật Ba La Mật) hay của Đại Thế Chí Bố Tát ( trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật ) Một thứ ”
ảo” quá tốt như vậy mà cứ sợ nó như là sợ tà, theo lời dạy của những Thiền Sư Việt Nam có tiếng tăm thường dạy như vậy từ trước đến nay, và khiến cho hầu hết những đệ tử của những vị nầy đều cho là những cảm nhận trong lúc tỉnh thức thì mới là thật, cho nên mới có phép Thiền được gọi là Thiền An Lạc Tỉnh Thức,
còn ngoài ra đều là ảo và đáng ghê sợ. Như vậy thì những pháp thiền ấy há không phải là hổ trợ cho việc sống phù hợp với thế giới bon chen đầy trục lợi để mà tồn tại như 1 sinh vật hay sao ? Đó là việc làm của bán cầu não trái, để phục vụ bản ngã sinh tồn. Theo lối dạy của những vị thiền sư nầy thì những trạng thái hôn trầm, ảo giác Vô Biên Thân hay ảo giác gì gì khác đều cần phải
xa lánh, tránh xa: “Gặp Phật giết Phật, gặp Tăng giết Tăng ” mà. Theo tôi nghĩ những vị nầy chỉ trích dẫn Kinh Lăng Nghiêm rồi lập lại theo lý
lẽ đó, chứ kỳ thật không có kinh nghiệm gì cụ thể về Ngũ Ấm Ma. Thật ra, trong phần Ngũ Ấm Ma của Kinh Lăng Nghiêm, có câu thòng thường bị quên lãng, ít ai để ý , đó là : nếu hành giả không tự cho là chứng đắc, thì có thể gọi là cảnh giới tốt.
Câu nầy đã bị quên lãng khi thuyết pháp cho Phật tử, và bởi sự cẩn thận
quá độ dư thừa, bèn tẩy chay và ghê sợ tất cả những ảo ảnh xảy ra trong
lúc ngồi thiền. Rồi dạy cho Phật tử cũng phải làm như vậy. Vừa rồi thầy
Thích Thông Phương ( Đệ tử thầy Thích Thanh Từ ) qua Sydney giảng pháp tại Thiền Viện Trúc Lâm Banstown, thầy có đề cập tới
một Phật tử nằm mơ thấy bị nạn rồi niệm Phật thoát nạn. Khi thức dậy, phật tử nầy vui mừng kể lại giấc mơ vi diệu của mình. Thầy cho rằng : giấc mơ không thôi, đã là ảo rồi, bây giờ tỉnh dậy rồi, mà kể lại sự vi diệu đó lại là 1 cái ảo thứ hai. Thầy phủ nhận những cái ảo như vậy. Không có gì sai trong sự phủ nhận nầy, và dĩ nhiên thầy không tán thán vị Phật tử ấy. Nếu đó là chuyện thật mà thầy được vị Phật tử ấy kể lại,
tôi không hiểu thầy có làm cho vị Phật tử nầy mất tín tâm vào pháp môn niệm Phật hay không, khi phủ nhận việc ấy ?
Năm ngoái, thầy Thích Giác Hạnh có qua Sydney, thầy có cho biết thầy cùng tu ngang thời với thầy Thích Thanh Từ, nhưng khác với
thầy Thanh Từ, thầy theo theo Tịnh Độ Tông. Trong 1 bài giảng pháp, thầy có đề cập tới
việc niệm Phật mà thấy ánh sáng màu nầy màu nọ hiện ra thì là tà, phải là không thấy gì hết mới đúng là niệm Phật đúng cách.
Tôi không hiểu sao các vị thầy nầy đều sợ Phật tử lạc tà quá nhiều như vậy. Hành giả nào có hành trì thiền hay niệm Phật miên mật ắt sẽ biết rằng sự ” không thấy gì hết ” chỉ có thể có được trong trạng thái tỉnh thức, chứ còn trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh ( 5 thức đầu và ý thức vong bặt, chỉ còn lại 2 thức là Mạt Na Thức và A Lai Da thức không thôi )
ắt hẳn ảo giác phải xuất hiện do dòng chảy tự nhiên liên tục tuôn trào lên từ A Lại Da thức với sự thôi thúc của người giữ kho Mạt Na
thức ( theo Kinh Lăng Già ). Thay vì giảng cách nào để đối phó với ảo giác, các vị thầy nầy
lại bảo Phật tử phải xem đó như 1 quái trạng của sự lạc vào đường tà, là một điều cấm kỵ cần tránh. Tôi bỗng nghĩ rằng cách làm như vậy chẳng khác nào cha mẹ có con lớn tới tuổi dậy thì, thay vì giảng nghĩa rõ cho nó biết về Sex là gì , tức ” giáo dục sinh lý phái tính, cái gì cần làm và cái gì cần tránh, mà lại cấm cản nó không được biết gì tới chuyện đó.
Tại sao vậy ? Tới tuổi dậy thì thì phải học về giáo dục sinh lý, hoặc là đi máy bay Boeing hay Air Bus thì ai mà không thấy mặt kính TV ở trước mặt ngay trước ghế ngồi của mình. Nếu nói Thiền đúng cách hay niệm
Phật đúng cách là phải không thấy cái gì hết mới là được, thì cũng giống như nói đi máy bay mà không thấy TV trước ghế ngồi của mình, chắc các hành khách ấy ngồi
bẹp duới floor sàn máy bay hay sao mà không thấy ?
Pháp tu của Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay là thiền quán giả chết để thấy các hiện tướng ánh sáng lần lượt xuất hiện tất yếu trong quá trình chết khi tứ đại cơ thể tan rã : màu trắng, màu đỏ, màu đen kịt, rồi màu trắng. Pháp tu của ngài, hay của Mật Tông Tây Tạng nói chung, đều không sợ ảo, mà sử dụng ảo như là 1 hiện tướng để xác định trạng thái của tâm thức mình.
Tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa. Tránh con rết nhỏ thì gặp con rắn mảng xà lớn.Tránh cái ảo do bán cầu não phải mang lại, những
hành giả nầy dễ bị lâm vào niềm tin rằng những gì bán cầu trái cung cấp mới chính là sự thật, chẳng hạn như : Tôi đang ngồi thiền đây, tôi là triệu phú, tôi có 2 người vợ, tôi làm Tổng Bí Thư ,v.v… > Thật ra , những cái ” sự thật “‘ nầy, đối với đạo Phật, là một thứ ảo lớn nhất trong tất cả những thứ ảo, và lại rất nguy hiểm cho chính hành giả và nhất là nguy hiểm cho nhân loại.
Làm người bình thường như tôi và ông, nghĩa là không phải tu sĩ hay danh tiếng gì, dầu có nói điều gì đúng hay sai cũng không sao, cùng lắm thì người ta cho rằng đó là thằng ngu nói bậy nói bạ thôi, nhưng đã là thiền sư thì phải biết giảng giáo lý nào cho đối tưọng nào, đối tượng là người hành giả thiền trong hang núi hay là đại chúng Phật tử, và càng phải nhấn mạnh cái ảo nào đáng sợ hơn cái ảo nào. Cái ảo do bán cầu não phải mang lại như hôn trầm, hay cảm giác “vô biên thân” , thậm chí nếu có giết người đi nữa cũng chỉ là giết người trong mộng, không chết 1 thằng Tây nào, chỉ hại có 1 mình người hành giả ấy thôi, nhưng cái ảo do bán cầu trái mang lại thì là giết người hàng loạt, thí dụ như : ” Tôi là 1 người cha, tôi phải
lo cho con tôi có tiền bạc đầy đủ, bán buôn phải “làm vậy ” mới có lời”
, hoặc là : ” tôi là Tổng Thống Mỹ, tôi phải phản bội đồng minh của mình để cho dân tôi sống sung túc hơn.”
Trong Quyển “Ánh Sáng Chân Tâm ” ( Mind of Clear Light ) của đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài có nhắc nhở rằng : để bảo vệ người những người thân của mình, con người càng lúc càng lún sâu vào những ác hạnh.
Điều nầy ông Krishnamurti thường nhấn mạnh trong hầu hết những tác phẩm
của ông với danh từ là : “Định nghĩa, đặt tên, hoặc nhân danh ” , là 1 thứ ảo nguy hiểm nhất. Những người hay định nghĩa đặt tên cho chính mình
thường quên rằng khi sanh ra họ cũng trần truồng như bao nhiêu sinh vật
khác, chẳng khác gì con trùng con dế, thế mà khi lớn lên lại tự gán cho
mình cái quyền giết cả triệu người. Không là ảo thì là gì ? Tôi tin rằng ông Krishnamurti là bậc đã giác ngộ vì ngài đã thấy cái ảo nào nguy hiểm hơn cái ảo nào, giảng thuyết
cho đại chúng như vậy là đúng người đúng chỗ. Ngài không hề chê trách ngủ gục hôn trầm trong khi thiền định, hoặc ngồi thiền thấy mình bay đi chơi đây đó, chỉ xem đó là vô ích mà thôi. Hòa Thượng Tuyên Hóa cũng vậy, không hề đặt tầm quan trọng của ảo giác ( do bán cầu não phải mang lại ). Ngài chỉ khuyên đại chúng Phật tử hành trì niệm Phật miên mật đến lúc ” nước cạn để đá lộ ra ” ( thủy lạc thạch xuất), không hề “warning ” có gì nguy hiểm trong đó. Tuy nhiên, tôi nghĩ nếu ngài giảng cho hành giả tu trong hang núi thì có thể ngài thêm thắt điều gì khác, như Ngũ Ấm Ma chẳng hạn. Tôi tin ngài là bậc đã giác ngộ.
Thêm nữa, cái mà người ta gọi là : ” Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Chỉ rõ chân tâm, Kiến tánh thành Phật
” mà các vị Tổ sư Thiền thường dùng, đã bị người đời lạm dụng quá nhiều, bởi vì 16 chữ vàng đó chỉ có thể dùng cho Tổ sư truyền cho đệ tử
nối dòng ( chẳng hạn như Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn truyền cho Lục Tổ Huệ Năng )
mà thôi, chứ không phải là truyền cho đại chúng, vì là “giáo ngoại biệt
truyền’ mà. Thế mà người ta đã chộp lấy nó, in thành sách những lời đối
đáp bay bổng giữa Tổ sư và đệ tử, rồi đại chúng Phật tử đọc sách thấm ý
hiểu được ý nghĩa thâm diệu, bèn tưởng mình đắc quả Phật rồi, do ” tôi thấy được chân tâm của tôi từng giây phút một “, hoặc ” tôi thấy tánh của tôi
rồi” tỉ như ” tôi thấy tôi thích nhìn đàn bà con gái”, vậy là đủ rồi, không cần gì phải tu hành gì nữa. Những người nầy đâu biết rằng: một ý thích nào đó, hay 1 thói quen nào đó, muốn loại trừ nó , phải tích cực hành trì miên mật suốt đời chưa chắc đã xong, có khi phải trải qua nhiều
kiếp luân hồi ( Theo Tạng Thư Sống Chết của Sogyal Rinpoche, đại sư Tây Tạng ) .
Không biết nhận định của tôi như vậy có đúng không, ông nghĩ sao ?
Nếu không đồng ý, xin tùy hỉ.
Nhựt
Discussion about this post