PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Ajanta Một Di Tích Phật Giáo Ngoại Hạng Hoang Phong

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

AJANTA 
MỘT DI TÍCH PHẬT GIÁO NGOẠI HẠNG


Hoang Phong

Phật
giáo
là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân
loại
vẫn còn tồn tại và đang phát triển ngày nay. Tuy nhiên
theo dòng biến động của lịch sử thì Phật giáo cũng không
tránh khỏi những thăng trầm. Nếu Phật giáo đã từng gián
tiếp
hay trực tiếp mang lại chữ viết, văn hóa, triết học
và lịch sử cho một số quốc gia trên địa cầu và đánh
dấu
một cấp bực tiến hóa cao độ cho kho tàng tư tưởng
của nhân loại thì Phật giáo cũng đã từng bị hủy diệt
ở Ấn độ và nhiều nơi khác.

Chúng
ta
đều biết đến ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới
là Borobudur ở Inđônêxia được khám phá trong vùng rừng rậm
của đảo Java vào đầu thế kỷ XIX và ngày nay đã hồi sinh
để trở thành một nơi chiêm bái và một thắng cảnh du lịch
trong lòng một quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên có lẽ ít ai biết
về di sản tuyệt vời khác của Phật giáo là Ajanta cũng đã
được khám phá một cách thật tình cờ vào đầu thế kỷ
XIX để ngày nay trở thành một nơi hành hương tại Ấn độ,
nơi mà Phật giáo đã phát sinh và đã từng biến mất. 

Hoangphong-Ajanta-12

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-01-08C3C

Bài
viết ngắn dưới đây sẽ tường thuật lại sự khám phá
ly kỳ đó và mô tả sơ lược di tích quý giá này kèm theo
một mẫu chuyện để chúng ta cùng suy tư.

Một sự tình
cờ lý thú

Ngày
28 tháng 4 năm 1819, có một toán quân lính người Anh thuộc
đạo quân viễn chinh ở Ấn độ cưỡi ngựa đi tuần tra
dọc theo dãy núi Indhyadri trong một vùng hẻo lánh phía đông
bắc tỉnh Aurangabad, tiểu bang Maharashtra nơi miền Tây bắc
nước Ấn. Đoàn lính tiến dần vào một hẻm núi thật sâu
và hoang dã. Dưới chân họ con suối Waghora chảy xiết, ôm
sát vào chân núi và luồn sâu vào hẻm vực. Đại úy John
Smith thuộc đội kỵ mã thứ 28 của đoàn kỵ binh đóng ở
Madras đang lơ đãng nhìn lên sườn núi dựng đứng thì chợt
thấy dường như có những cửa hang trên vách đá. Khá tò
mò vì các cửa hang có vẻ không phải là thiên nhiên mà do
tay người đục khắc, anh chàng sĩ quan này bèn nhảy xuống
ngựa và tìm cách trèo lên vách núi để xem cho biết. Lanh
quanh một lúc thì anh ta tìm được cách trèo lên được vì
nơi này có nhiều bậc thang khá hẹp đục vào vách đá. Sau
khi lên đến nơi thì anh ta cũng chỉ quan sát qua loa cảnh tượng
hiện ra trước mắt rồi phải trèo xuống vì các đồng đội
còn đang đứng chờ bên dưới. Tuy nhiên anh chàng John Smith
vẫn cố lấy bút chì ghi tên mình và ngày tháng vào một góc
kín đáo trên một trụ đá ở một cửa hang lớn, và nét
bút chì ấy cho đến ngày nay vẫn còn lờ mờ. Sau đó thì
các hang động này lại chìm vào sự yên lặng mênh mông của
những ngàn năm quá khứ. Tuy nhiên câu chuyện khám phá chớp
nhoáng
của viên đại úy sau đó thỉnh thoảng cũng vẫn được
đồn đại trong đoàn quân viễn chinh. 

Năm
năm sau, vào tháng 2 năm 1824, có một viên trung úy tên là James
Alexander thuộc đạo quân xung kích 16 trong đoàn quân viễn
chinh Anh quốc quyết định xin nghỉ phép vài hôm để đi săn.
Anh trung úy trẻ này rất say mê săn bắn và vẫn thường mong
có dịp đi săn trong hẻm vực Waghora vì anh nghe nói nơi đây
có rất nhiều thú nhất là các loài thú dữ, xứng đáng với
biệt danh “thung lũng cọp” mà người ta gán cho nơi này. Trước
khi lên đường bạn bè trong quân ngũ cảnh giác anh ta là ngoài
thú dữ ra còn có nhiều thứ nguy hiểm khác nữa, nhất là
bọn thổ dân Bhil sinh sống trong các vùng rừng núi thuộc
miền trung và tây bắc nước Ấn. Thổ dân Bhil rất ghét người
lạ dám cả gan xâm nhập vào lãnh địa của họ. Mặc dù
đã được cảnh giác nhưng James Alexander chẳng đếm xỉa
gì đến chuyện ấy vì anh ta rất mê săn heo rừng, beo, báo
và cọp.

James
Alexander nhờ một người thợ săn địa phương dẫn đường.
Vào thời bấy giờ có nhiều thợ săn chuyên nghiệp gọi là
shikari, rất thiện nghệ và chuyên phục vụ cho những người
giàu có và quý phái tại địa phương hoặc từ Anh Quốc đến
và nhất là các sĩ quan thích săn bắn trong đạo quân viễn
chinh. Anh trung úy còn dẫn theo hai người lính trong nhóm sepoys,
tức là đội lính tập tuyển mộ tại địa phương. Cả bọn
trang bị khí giới đủ loại gồm súng ngắn, súng dài, kiếm,
lao, mác… và đoàn đi săn cứ thế mà băng rừng tiến vào
hẻm núi Waghora.

Khi
vừa đến cửa thung lũng nơi có một dòng suối chảy xiết
thì bỗng nhiên có tiếng huýt sáo vọng lại từ phía vách
núi trước mặt. Cả đoàn dừng lại để lắng nghe động
tĩnh, và đúng là có người đang rình rập vì có nhiều tiếng
huýt sáo khác đáp lại từ các bụi rậm và hốc đá chung
quanh. Quả đúng là đoàn đi săn đang bị thổ dân Bhil phục
kích. Mặc dầu sợ hãi nhưng cả đoàn tay cầm khí giới cứ
tiến lên , vừa cẩn thận quan sát chung quanh. Bỗng nhiên nhiều
thổ dân Bhil cầm cung tên nhô đầu lên từ các bụi rậm,
gốc cây và hốc đá. Cũng lạ là họ không tỏ vẻ gì tức
giận hay đang chuẩn bị tấn công mà chỉ có vẻ tò mò đưa
mắt theo dõi thế mà thôi. Đoàn săn bắn cũng bớt sợ vì
họ biết rằng các mũi tên của thổ dân Bhil đều có tẩm
thuốc độc. Trung úy James Alexander vẫn giữ được bình tĩnh
và nhận thấy người Bhil có thân hình nhỏ thó, da đen sậm
và gần như là trần truồng.

Đoàn
săn bắn tiếp tục ngược theo dòng suối để tiến vào hẻm
vực trong khi các thổ dân Bhil vẫn rình rập phía sau nhưng
chỉ quan sát mà không tấn công. Sau cùng thì đoàn săn bắn
cũng tiến được vào giữa hẻm núi, khu này có hình vòng
cung giống như hình móng ngựa, chiều ngang độ vài trăm mét.
Viên trung úy James Alexander vừa canh chừng các thổ dân Bhil
vừa quan sát vách núi trước mặt và bất ngờ anh ta trông
thấy khoảng hơn một chục miệng hang cheo leo trên vách đá…

Vì
tò mò thúc đẩy, trung úy James Alexander bèn ra lệnh cho cả
đoàn tìm cách trèo lên để xem. Khi lên được đến nơi thì
họ mới biết là các hang đúng là do tay người đục đẽo.
Cửa hang hình vòm cung có cột đá chống đỡ và tất cả
các hang đều được đục thẳng từ bên ngoài vào trong vách
núi. Tường và cột đá ở cửa hang được chạm nổi với
các hình người, hình thú vật, hoa, lá…. Một số hang bị
đá sụp lấp kín lối vào, nhưng một số hang khác vẫn còn
kẻ hở có thể chui vào được. Vô cùng kinh ngạc trước
quang cảnh đồ sộ của các cửa hang đang hiện ra trước
mặt
, James Alexander bèn quyết định chui vào bên trong xem sao.
Cả đoàn tìm cành và cỏ khô bó lại làm đuốc rồi chui
vào một cửa động. Ánh sáng làm cho hàng ngàn con dơi đang
đeo ngược trên trần hoảng sợ bay tán loạn. Trên mặt đất
có nhiều đống phân động vật cho biết là có nhiều thú
như khỉ, chó rừng, cọp, gấu… đến trú ẩn. Đoàn người
lại tìm thấy một cầu thang đưa họ lên các gian phòng ở
tầng trên. Tại đây họ thấy có vết tro còn mới và trong
một góc tối có một bộ xương người. 

Đoàn
“thám hiểm” lại tiếp tục chui vào các hang động khác. Một
số hang có kích thước nhỏ và không sâu lắm, nhưng có một
số hang khác thì thật mênh mông, trần cao vút như trong một
ngôi đền đồ sộ. Trong một hang lớn dưới ánh đuốc bập
bùng hiện ra trước mặt họ một pho tượng Phật to lớn
và oai nghiêm, trên tường trong hang có nhiều bức tranh vẽ
rất tinh xảo và tuyệt đẹp, màu sắc rực rỡ. Cả đoàn
như bị mê hoặc trước những khám phá ngoạn mục, quên bẵng
việc săn bắn và quên cả các thổ dân Bhil còn đang rình
rập dưới chân núi. Đến chiều thì họ mới trèo xuống
để tìm đường về. Mặc dù không bắn được một con thú
nào nhưng tay săn James Alexander không hề thất vọng vì anh
ta tin chắc là mình đã khám phá ra một di tích ngoại hạng,
một tu viện đồ sộ và tinh xảo đã chìm vào quên lãng,
biến mất trong trong trí nhớ của con người từ lâu…, ngoại
trừ một số thổ dân Bhil là còn biết đến những di tích
đó trong sự thờ ơ. Thật ra thì viên trung úy James Alexander
trước khi đi săn cũng không hề nghĩ đến câu chuyện đồn
đại về những hang động do đại úy Smith kể lại từ năm
năm trước, Tuy nhiên John Smith đơn giản là một người tò
mò và chỉ cần biết rằng mình đã trông thấy những hang
động trong rừng sâu thế thôi, trong khi đó thì trung úy James
Alexander lại tin chắc là mình đã khám phá ra một kỳ quan
chưa từng có. 

Một
thời gian ngắn sau khi tin đồn viên trung úy James Alexander đã
khám phá các hang động trong thung lũng Waghora được lan truyền
đi khắp nơi thì các nhà khảo cổ kéo đến và họ đều
xác nhận đấy là một trung tâm Phật giáo lâu đời và đồ
sộ chưa nơi nào sánh kịp. Các nhà khảo cổ bèn mượn tên
của ngôi làng gần nhất là Ajanta để đặt tên cho di tích
này. Các công cuộc thăm dò tiên khởi đều công nhận là
các tranh trên tường trong các hang động rất tiêu biểu cho
nghệ thuật tranh vẽ của Ấn độ, và đây là những bức
tranh
vừa xưa lại vừa đẹp nhất mà trước đó chưa hề
được khám phá. Năm 1983, Ajanta được cơ quan UNESCO của Liên
Hiệp
Quốc xếp vào gia tài văn hóa của nhân loại.

Ajanta
là một tu viện Phật giáo gồm 29 hang động đục sâu vào
vách núi tạo thành các “ngôi chùa” và “tịnh xá”. Vách núi
là đá basalt, một loại đá núi lửa rất cứng. Trong số
29 hang động có ba hang còn bỏ dở dang chưa hoàn tất. Theo
cách bố trí thì các hang được chia làm hai loại : loại thứ
nhất là các hang “chính điện” hay “thiền đường” (chaitya)
bên trong cùng là bệ thờ và nơi bệ thờ có một bảo tháp
(stupa). Loại hang thứ hai là các hang “tịnh xá” (vihara) là nơi nghỉ ngơi và trú ngụ của tăng đoàn, gồm có một
gian tập thể và nhiều phòng nhỏ.

Cách
kiến trúc, tranh vẽ và điêu khắc trong hang cho thấy là Ajanta
được thực hiện vào hai thời kỳ cách nhau khá xa. Thời
kỳ
thứ nhất kéo dài từ thế kỷ thứ II trước Tây lịch
đến từ thế kỷ thứ I trước Tây lịch và chịu ảnh hưởng
rõ rệt của Phật giáo Nguyên thủy (Therevada). Cách trang trí
trong thời kỳ này khá đơn giản và kém phần hoa mỹ, đặc
biệt
nhất là không có một biểu tượng nào tượng trưng
cho Đức Phật. Thời kỳ mở mang thứ hai thuộc vào thế kỷ
thứ V và chịu ảnh hưởng của Phật giáo Bắc tông, thời
kỳ
xây dựng này tuy ngắn ngủi nhưng đã thực hiện được
nhiều hang động thật đồ sộ, với cách thiết kế phức
tạp
hơn, trang trí cũng phong phú và màu mè hơn. Các hang động
Ajanta có thể đã bị bỏ hoang từ thế kỷ thứ VI, tuy nhiên
theo một vài tư liệu khác thì tăng đoàn vẫn còn lưu lại
tại Ajanta cho đến thế kỷ thứ VIII trước khi rời bỏ nơi
này. 

Nơi trú ngụ
của Đức Phật và tăng đoàn

Cho
đến
nay người ta không hoặc chưa tìm thấy được một di
tích
kiến trúc Phật giáo nào được xây dựng vào thời kỳ
Đức Phật còn tại thế, kể cả trong các giai đoạn đầu
tiên của các tăng đoàn sau khi Vị Thầy của họ đã tịch
diệt
. Vào thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế thì chưa
có chùa chiền như ngày nay vì Đức Phật chủ trương một
lối sống hoàn toàn tự do không bị trói buộc vào các sinh
hoạt
và lo toan thế tục, và cũng không dừng lại một nơi
cố định nào cả. Theo lời giáo huấn của Ngài thi nếu người
đã tu hành mà còn lăn mình vào những mối bận tâm của thế
tục
, còn bám víu vào những tiện nghi vật chất và một môi
trường sống cố định để nuôi dưỡng thói quen của mình
thì nhất định họ sẽ không thể nào tu tập được. 

Nếu
một người tu hành chưa đủ nghị lực vượt lên trên những
trói buộc bên ngoài thì làm thế nào có đủ khả năng để
loại bỏ những xung động bên trong tâm thức của chính mình.
Dựa theo các kinh sách xưa của Nam tông thì khi Đức Phật
còn tại thế chỉ có hai loại “kiến trúc” có mái che hẳn
hoi
có thể tạm gọi là “nhà cửa” để giúp cho người tu
hành
che thân và tạm trú. Loại thứ nhất gọi là “avasa”,
tức là những túp lều do các vị tỳ kheo tự tay cất lấy
để tạm trú trên đường hoằng Pháp hoặc để an cư vào
mùa kiết hạ. Các “kiến trúc” này thật ra chỉ là những
chiếc “am” được dựng lên bằng cành lá của cây rừng hoặc
bằng các vật liệu tìm được trong các vùng nông thôn. Các
nơi trú ẩn này chỉ có tính cách tạm thời vì sự sinh hoạt
của tăng đoàn rất linh động không bám vào một nơi cố
định nào cả. Loại “kiến trúc” thứ hai gọi là “arama” hay
“vihara” tức là các “tịnh xá” do các người thế tục giàu
có
cúng dường và rất có thể họ cũng tiếp tục đứng
ra phụ giúp tăng đoàn trong việc bảo trì bởi vì Đức Phật
và tăng đoàn là những người sống bằng khất thực nên
không có tiền của gì cả. Tịnh xá là các kiến trúc cố
định khang trang và có tính cách lâu bền hơn các “am cỏ”
được dựng lên trên đường hoằng Pháp. Các tịnh xá nổi
tiếng
nhất được kinh sách ghi chép là vườn Trúc lâm (Venuvana)
gần thành Vương Xá (Rajagrha) và vườn Kỳ Viên (Jetavana) gần
thành Xá Vệ (Sravasti), và dầu sao thì đấy cũng chỉ là những
nơi dừng chân của Đức Phật và tăng đoàn mà thôi. Tuy nhiên
Đức Phật thường lưu lại vườn Kỳ Viên nhiều hơn các
nơi khác, nhất là trong hai mươi năm trước khi Ngài nhập
diệt
. 

Ngoài
các tịnh xá mà kinh sách nói đến thì không có một chứng
tích
nào khác cho thấy vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế
đã có các kiến trúc đồ sộ do tăng đoàn hay do người thế
tục
xây dựng. Tương ưng Bộ kinh (phẩm 10) mô tả vườn
Kỳ Viên có “những giảng đường to lớn, các gian phòng
tiện nghi, kho chứa, đường đi lót đá.
..”, tuy nhiên cho
đến
nay các nhà khảo cổ đã không tìm thấy một vết tích
nào đáng kể tại vị trí của vườn Kỳ Viên. Các học giả
Tây phương cho rằng cách mô tả trên đây của kinh sách có
phần phóng đại.

Các
nơi trú ngụ xưa nhất của những tỳ kheo Phật giáo mà các
nhà khảo cổ khám phá được cho đến nay là các hang động
và những hang xưa nhất thì cũng chỉ được thiết kế bắt
đầu từ thế kỷ thứ II trước Tây lịch như trường hợp
của các hang Ajanta trên đây. Cũng có nhiều di tích Phật giáo
xưa hơn, thuộc thế kỷ thứ III trước Tây lịch tức là
dưới triều đại của hoàng đế A-dục, đó là các mặt
đá và trụ đá ghi khắc chỉ dụ của hoàng triều và nhất
là các bảo tháp do chính hoàng đế A-dục ra lệnh xây dựng
khắp nơi trên đất Ấn. Tuy nhiên đấy chỉ là những di tích
và những kiến trúc thiêng liêng chứ không phải là tu viện
hay chỗ ở của tăng đoàn. Các học giả Tây phương nghĩ
rằng các tịnh xá (arama) nói chung chỉ là những gian nhà rộng
nhưng rất đơn sơ, sườn bằng tre, lợp lá và vách đất,
giống như nhà cửa ở nông thôn Ấn độ ngày nay. Các giảng
đường
hay các tịnh xá lớn chẳng hạn như vườn Kỳ Viên
hay Trúc Lâm thì làm bằng cây và gỗ và các kiến trúc bằng
“vật liệu nhẹ” và như thế thì không thể nào tồn tại
được với thời gian.

Sự hình thành
của “Chùa chiền” 

Mặc
dầu
Ajanta được thành lập sau khi Đức Phật đã tịch diệt
hơn ba thế kỷ nhưng cũng giúp cho chúng ta một vài ý niệm
nào đó để hình dung ra sự sinh hoạt của tăng đoàn vào
những thời kỳ xa xưa nhất của Phật giáo. Ajanta là các
hang động đục thẳng vào núi đá và sau đó thì bị bỏ
quên
trong rừng sâu nên vẫn còn giữ được khá nguyên vẹn
sau hơn hai ngàn hai trăm năm, quả thật là một di tích vô
cùng
quý giá. Thật vậy trong suốt thế kỷ XIX các nhà khảo
cổ đã khám phá ra rất nhiều di tích Phật giáo rải rác
khắp nơi ở Ấn độ, nhưng cho đến nay thì vẫn chưa có
một di tích nào cùng loại lại đồ sộ, tinh xảo và lâu
đời
hơn Ajanta. Trong số này có thể kể ra các hang Bedsa gần
thành phố Pune, các hang Bhaja và Kharla gần thành phố Lonavala
thuộc tiểu bang Maharashtra nằm trên bờ biển phía tây của
nước Ấn, (xem hình phụ lục 1).

Nói
chung thì các loại hang động đục thẳng vào vách núi như
trên đây cũng gián tiếp giúp hình dung ra “chùa chiền” và
các nơi trú ngụ xưa nhất của Đức Phật và các đệ tử
của Ngài. Các chuyên gia khảo cổ đã căn cứ vào các chứng
tích
trong các hang động để hình dung lại “chùa chiền” và
“tịnh xá” xây dựng bằng gỗ vào những thời kỳ đầu tiên
sau khi Đức Phật tịch diệt, vì theo họ thì hang động được
đục dựa vào khuôn mẫu của các kiến trúc ngoài trời, và
các kiến trúc này thì tất nhiên phải được xây dựng và
thiết kế theo truyền thống đã có từ lâu đời. Thật vậy
các hang động Ajanta tuy được đục thẳng vào núi đá nhưng
đã kiến tạo lại từng chi tiết một và rập khuôn theo cách
kiến trúc bằng gỗ. Người ta nhận thấy trên trần của
các gian phòng trong hang có những kèo cột tượng trưng cho
xà nhà, hai đầu của các kèo cột lại còn đục thêm dấu
vết của các đầu đinh. Vách hai bên cửa hang và bên trong
hang được trang trí bằng các cửa sổ giả, gác giả và bậc
thềm giả đục tượng trưng trên mặt đá. Dựa vào các chi
tiết
này người ta có thể hình dung ra kiến trúc của “chùa
chiền” vào thời bấy giờ. Tuy nhiên cho đến nay chưa thấy
ai có sáng kiến sử dụng cây và gỗ để xây dựng lại ngoài
trời
các “ngôi chùa cổ xưa” của Phật giáo dựa vào các
chi tiết tìm thấy trong hang động.

Cửa
hang các tịnh xá có mái hiên hình vòm và cột chống đỡ.
Bước vào bên trong là một gian tập thể hình vuông hay chữ
nhật dùng làm nơi sinh hoạt chung. Ba mặt vách của gian tập
thể thì được đục thêm các “phòng” hay đúng hơn là các
“hốc” nhỏ kích thước bằng nhau, dùng làm nơi nghỉ ngơi
cho các tỳ kheo. Trong mỗi hốc có hai bệ đá làm giường.
Cách thiết kế tổng quát của các tịnh xá cũng không có
gì thay đổi nhiều giữa hai thời kỳ phát triển, tuy nhiên
các tịnh xá Bắc tông rộng lớn hơn, một số có nhiều tầng
và cầu thang thông nhau, đôi khi trong tịnh xá lại còn có
thêm một gian dành riêng làm thiền đường và nơi thờ phụng.

Các
chính điện (chaitya) tại Ajanta cũng được thiết kế theo
cùng một khuôn mẫu như nhau. Chính điện lớn nhất được
các nhà khảo cổ đặt tên là hang số 10, thuộc thời kỳ
Phật giáo Nguyên thủy, tuy được đục sâu vào vách núi nhưng
các hang này lại rập khuôn theo cách kiến trúc bằng gỗ ở
ngoài trời. Phần trong cùng của chính điện là bệ thờ có
hình bán nguyệt, trần là một vòm cao với các “kèo” hình
vòng cung được tạc vào đá nhưng trông giống như làm bằng
gỗ, hai đầu kèo chống lên các trụ đá dựng đứng. Vào
thời Đức Phật còn tại thế thì chưa có các “chính điện”
xây dựng bên cạnh các tịnh xá như trường hợp trên đây
vì các tịnh xá thời bấy giờ nhất thiết chỉ là những
nơi tạm trú cho tăng đoàn mà thôi. Tuy nhiên theo các học
giả
Tây phương thì chính điện xuất hiện rất sớm sau khi
Đức Phật tịch diệt và được dựng lên bên cạnh các tịnh
xá
để làm nơi thiền định và đón tiếp người thế tục.
Do đó vai trò của tịnh xá cũng biến đổi đi, không còn
là nơi tạm trú vào dịp kiết hạ trong mùa mưa bão nữa,
sự sinh hoạt của tăng đoàn do đó cũng trở nên cố định
hơn. 

Trong
mỗi chính điện nơi vị trí của bệ thờ đều có một bảo
tháp
xá lợi. Các bảo tháp này có lẽ đã xuất hiện vào
thế kỷ thứ III trước Tây lịch khi hoàng đế A-dục quyết
định
phân tán và đưa xá lợi đến gần hơn với mọi người
trên khắp vùng đế quốc của ông. Kinh sách cho biết là hoàng
đế
A-dục xây dựng được tất cả 84 000 bảo tháp và bên
cạnh mỗi bảo tháp lại còn xây thêm một tu viện và mỗi
tu viện phải phụ trách nghiên cứu một chủ đề riêng biệt
trong kinh sách. Theo các học giả Tây phương thì con số 84
000 là một con số tượng trưng với ít nhiều phóng đại,
nhưng dù cho con số này chỉ có tính cách tượng trưng đi
nữa thì cũng phải công nhận là bảo tháp và tu viện hay
“chùa chiền” dưới triều đại hoàng đế A-dục cũng thật
là nhiều. Bảo tháp được xây dựng khắp nơi có mục đích
thay thế cho sự hiện diện của Đấng Thế Tôn. Các vị tỳ
kheo
dựng lên các chính điện với bảo tháp xá lợi bên trong
vừa để thờ phụng vừa để cảm thấy Vị Thầy của mình
lúc nào cũng ở bên cạnh mình, đồng thời chính điện cũng
được dùng làm nơi để người thế tục đến chiêm bái.
Chùa chiền như ngày nay có lẽ cũng đã bắt nguồn từ đấy. 

Sự sinh hoạt
của tăng đoàn

Sự
sinh hoạt của các tăng đoàn ngày xưa tại Ajanta nhất định
phải phù hợp với những lời dạy bảo của Đức Phật,
có nghĩa là không quá khổ hạnh mà cũng không được quá
tiện nghi, và tất nhiên người tu hành phải tuân thủ các
giới luật do chính Đức Phật quy định và các giới luật
đó về sau này được ghi chép lại trong Luật tạng. Tuy nhiên
cũng cần hiểu rằng giới luật trong Phật giáo tuy rất phong
phú
nhưng không hề cứng nhắc và bất di dịch. Trong các lần
kết tập Đạo Pháp đã từng có một số giới luật lỗi
thời
bị loại bỏ và đồng thời có nhiều giới luật được
đặt ra để thích nghi với hoàn cảnh mới.

Dầu
sao đi nữa thì lối sống của các tăng đoàn đầu tiên tại
Ajanta tất nhiên vẫn còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của
lối tu khổ hạnh và vì thế rất nghiêm túc. Mỗi ngày các
vị tỳ kheo thức dậy thật sớm để ngồi thiền và tụng
niệm
. Sau đó khi ánh bình minh vừa ló dạng trên đỉnh núi
thì họ kéo nhau xuống suối để tắm rửa và giặt giũ. Theo
giới luật thì các vật tùy thân của mỗi vị tỳ kheo chỉ
gồm có hai manh áo cà sa, một áo ấm để khoác bên ngoài,
một cái kim để vá áo, một con dao nhỏ để cạo tóc và
có thể còn có một cái que bằng gỗ cây neem (tiếng Phạn)
dùng để chà răng khi súc miệng và rửa mặt. Neem
tên khoa học là Melia Azedarach (hay là một giống
cây tương tợ gọi là Azadirachia indica) là một
loại cây có vị thuốc làm cho sạch miệng. Sau đó thì tất
cả chia nhau thành từng toán băng rừng tìm đến các làng
mạc quanh vùng để khất thực. 

Vào
thế kỷ XIX, khi các hang động trong hẻm vực Ajanta được
khám phá thì nơi dân cư gần nhất là ngôi làng Ajanta cách
đó năm cây số. Ngược về hơn hai ngàn năm trước thì không
biết có dân cư đông đảo sống gần nơi hẻm núi Waghora
hay không ? Để tránh thú dữ các vị tỳ kheo nối đuôi nhau
đi thành từng đoàn và cẩn thận từng bước một để tránh
“dẫm lên các mầm non của cây cỏ và côn trùng dưới
chân
” (kinh Mahatanhasankhaya). Họ đi vào các làng
mạc trong vùng, bước từng bước thật chậm và khoan thai,
vừa bước vừa nhẫm đi nhẫm lại những lời Phật dạy.
Người thế tục thì đi chân đất để tỏ lòng tôn kính,
họ đứng chờ ở cửa để chia sẻ với người tu hành miếng
ăn mà họ có. Khi có ai đưa tay đặt một chút thức ăn vào
bình bát thì người tu hành nhìn thẳng ra trước mặt hoặc
nhìn xuống đất để tránh mọi sự thèm muốn, chê bai hay
đánh giá vật cúng dường. Khi trở về tịnh xá thì mỗi
vị tỳ kheo đặt bình bát của mình vào giữa gian phòng tập
thể rồi quây quần chung quanh, phân chia thực phẩm cúng dường
với nhau và ngồi ăn trong yên lặng, họ không được phép
nói chuyện và cũng không được phép chọn lựa miếng ngon
hay lừa bỏ những thức ăn mà mình không thích. Họ phải
ăn trước giờ ngọ, sau đó thì không ăn gì nữa cho đến
trưa hôm sau.

Họ
được phép nghỉ trưa một lúc vì còn vô số các việc khác
đang chờ đợi họ, nào là quét dọn chính điện, nào là
vệ sinh tịnh xá, các vị lớn tuổi thì hầu tiếp người
thế tục đến chiêm bái, ngoài ra còn thêm một buổi thiền
định
vào buổi chiều. Đến đêm họ còn phải ôn tập và
truyền khẩu cho nhau những lời giáo huấn của Đức Phật
vì khi Ajanta bắt đầu được thành lập thì lúc đó chưa
có kinh sách bằng chữ viết, kinh sách trên lá bối chỉ xuất
hiện
một thế kỷ sau mà thôi. Các vị tỳ kheo ngồi quay
quần trong các gian tập thể chung quanh một ngọn đèn dầu
để ôn tập những lời giảng của Đấng Thế Tôn. Người
có trí nhớ tốt giúp cho người chậm trí hơn, mỗi người
thay nhau đọc lên một đoạn kinh, nếu quên thì có người
khác nhắc. Người lớn tuổi bình giảng thêm cho người trẻ
tuổi và cứ như thế mà họ thảo luận và giúp đỡ nhau.
Dầu sao thì việc truyền khẩu và cách học thuộc lòng những
lời Phật dạy cũng mang tính cách sinh động và linh thiêng
hơn những dòng chữ khô khan trên những tờ lá bối. Có thể
việc ôn tập đó cũng là nguồn gốc làm phát sinh ra việc
tụng niệm sau này. 

Vào
những ngày lễ lạc, chẳng hạn như những ngày rằm, mùng
một thì họ còn phải nhịn đói để tự nhắc nhở và biểu
lộ
lòng quyết tâm tu tập của mình. Họ sám hối trước
tập thể tăng đoàn, vị tỳ kheo lớn tuổi nhất xướng lên
từng giới luật một, các vị khác lắng nghe nếu thấy mình
phạm vào một giới luật nào đó thì phải thú nhận, “ai
phạm vào một lỗi lầm chưa có dịp nói lên và nếu muốn
tẩy uế lỗi lầm đó thì phải thú nhận. Thú nhận lỗi
lầm
sẽ mang lại sự nhẹ nhõm cho chính mình”

(Kinh Mahavaga, 2).

Tuy
nhiên
đời sống ở Ajanta cũng có những phút giây thanh thản.
Vào lúc tinh sương khi những người tu hành xuống suối để
tắm giặt thì chim muông cũng thức dậy hót vang trên các mõm
đá và trong các cành lá của cây rừng. Có những đêm trăng
sáng giữa cảnh rừng núi mênh mông và yên lặng họ ngồi
chung quanh những đống lửa ở cửa động để hàn huyên hay
chỉ để trầm tư một mình. Tiếng suối róc rách từ thung
lũng vang lên giữa cảnh tịch mịch của đêm thâu. Tiếng
suối thì lúc nào cũng vọng lên cửa động nhưng trong ngày
thì sự bận rộn nào có cho phép họ dừng tay để lắng nghe.
Đốt lửa lên để xua đuổi thú dữ và để sưởi ấm, nhưng
ánh sáng cũng thu hút côn trùng của rừng sâu kéo đến, người
tu hành quấn chiếc áo tơi lên người nhìn sự sống đang
biến động chung quanh để yêu thương từng chúng sinh đang
bị mê hoặc và lôi cuốn bởi lửa đỏ của ta bà. 

Những
sinh hoạt trên đây tuy được “hình dung” và “tưởng tượng”
ra dựa vào kinh sách nhưng cũng có thể tượng trưng phần
nào cho sự sinh hoạt của các vị tỳ kheo thuộc các tăng
đoàn
đầu tiên nơi hang động Ajanta. Sau này khi Ajanta chuyển
sang giai đoạn phát triển của Bắc tông thì sự sinh hoạt
của tăng đoàn cũng trở nên phức tạp hơn, đa dạng hơn
và màu mè hơn, nhất là trong mối tương quan với người thế
tục
. Đời sống của các tăng đoàn cũng trở nên cố định
hơn. Ngoài ra theo một số học giả Tây phương thì Ajanta trong
thời kỳ Bắc tông đã trở thành một trung tâm đại học
lớn, và sự sinh hoạt cũng theo đó mà trở nên nhộn nhịp
hơn so với thời kỳ Nam tông.

Vị trí của
Ajanta 

Khi
Đức Phật còn tại thế thì Ngài cũng đã dặn dò các đệ
tử
về những tiêu chuẩn cần phải có khi thiết lập tịnh
xá
: phải chọn nơi nào có nước nhưng vị trí phải cao để
tránh ngập lụt, tránh nơi chen chúc và ồn ào để hành thiền
và tu tập, tuy nhiên tịnh xá phải gần nơi dân cư để có
thể khất thực và thuận tiện cho người thế tục lui tới.
Trên phương diện rộng lớn hơn thì người ta cũng có thể
tự hỏi tại sao vị trí của Ajanta lại được chọn ở phía
tây của bán lục địa Ấn độ, cách xa thung lũng sông Hằng
gần một ngàn cây số ? Ngoài Ajanta ra còn có nhiều hang động
khác chẳng hạn như các hang Bedsa, Bhaja, Kharla…, tất cả
đều thuộc vào vùng phía tây nước Ấn.

Vào
thời kỳ cổ đại hơn hai ngàn năm trước, Ajanta và các hang
động vửa kể đều nằm trên trục giao thương nối liền
từ đông sang tây của bán lục địa Ấn độ, tức là từ
thung lũng sông Hằng cho đến đến bờ biển phía tây. Các
đường giao thông và thương mại quan trọng thường tạo ra
các điều kiện thuận lợi giúp cho việc hoằng Pháp
dễ dàng hơn, chẳng hạn như con đường tơ lụa đã mang Phật
giáo
đến các vùng cận đông, trung đông và Trung quốc. Dầu
sao đi nữa thì ngoài những phương tiện giao thông thuận lợi
ra còn có một yếu tố quan trọng khác là ý chí và lòng quyết
tâm
của con người, và chính đấy mới thật là động cơ
thiết yếu trong việc quảng bá Đạo Pháp. Một trăm năm trước
khi Ajanta được thành lập thì chính hoàng đế A-dục đã
quyết tâm quảng bá Phật giáo ra xa hơn thung lũng sông Hằng
và mang xá lợi đến gần với từng người dân trên khắp
miền lãnh thổ của ông.

Vào
các thời kỳ thịnh trị, suốt trên trục giao thông từ thung
lũng sông Hằng đến các cửa biển phía tây, ngược xuôi
các đoàn xe bò, xe ngựa đầy ắp hàng hóa, thỉnh thoảng
lại còn thấy một vài vị tỳ kheo tháp tùng với những
người buôn bán. Lịch sử cho thấy dân buôn bán tha phương
và các doanh nhân giàu có đã góp phần không nhỏ vào việc
hoằng Pháp. Họ đã mang tín ngưỡng của mình đến những
nơi xa xôi và đồng thời lại cũng là những người cúng
dường
tích cực nhất. 

Một vài di
tích
khác 

Ngày
nay các nhà khảo cổ thăm dò những vùng dọc theo các con đường
thương mại cổ xưa đã phát hiện được nhiều di tích Phật
giáo
. Trong số này có di tích bảo tháp Bharhut tại miền trung
nước Ấn (tiểu bang Madhya Pradesh) được một đại úy kỹ
sư trong quân đội viễn chinh và cũng là một nhà khảo cổ
tên là Alexander Cunningham khám phá ra vào năm 1873. Bảo tháp
Bharhut do chính hoàng đế A-dục xây dựng vào thế kỷ thứ
III trước Tây lịch, và sau đó thì có nhiều công trình kiến
trúc mới được tiếp tục thực hiện thêm cho đến thế
kỷ thứ II trước Tây lịch mới chấm dứt. Các pho tượng
và các mặt đá chạm nổi tìm thấy tại nơi này cho thấy
một nghệ thuật điêu khắc vô cùng tinh xảo và đặc sắc.
Tiếc thay Bharhut chỉ còn lưu lại một số di tích khảo cổ
được cất giữ trong bảo tàng viện mà thôi. 

Một
di tích nổi tiếng khác là các bảo tháp trên ngọn đồi Sanchi
(Kiến-chí) do đại tướng Taylor trong quân đội Anh quốc khám
phá
vào năm 1818. Tại nơi này hoàng đế A-dục cho xây cất
tám bảo tháp lớn và một số tu viện, và các thế hệ sau
tiếp tục xây dựng thêm cho đến khi Phật giáo bị các đạo
quân Hồi giáo xóa mất trên bán lục địa Ấn độ vào thế
kỷ thứ XII. Khi tin đồn về việc khám phá di tích Sanchi lan
đi khắp nơi thì một số nhà khảo cổ bất chính và bọn
tìm vàng đổ xô đến đây để đào xới và đã gián tiếp
tàn phá di tích này. Mãi cho đến năm 1881 thì chính phủ thuộc
địa Anh mới bắt đầu gìn giữ di tích Sanchi cẩn thận hơn.
Sau đó vào đầu thế kỷ XX thì Sanchi mới được trùng tu
và ngày nay đã trở thành một nơi hành hương quan trọng của
Phật giáo trên đất Ấn.

Quá trình thành
lập
Ajanta

Trên
bình diện tổng quát thì các hang 9, 10, 19, 26, 29 là các hang
chính điện (chaitya), và tất cả các hang còn lại đều là
các tịnh xá (vihara). Như đã trình bày sơ lược trên đây,
Ajanta được xây dựng vào hai thời kỳ khác nhau : thời kỳ
thứ nhất kéo dài từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ
I trước Tây lịch; thời kỳ thứ hai khá ngắn ngủi thuộc
thế kỷ thứ V sau Tây lịch. Trong đợt phát triển thứ nhất
thì Ajanta có thể chỉ là các tịnh xá dùng làm nơi trú ngụ
tạm thời cho các vị tỳ kheo Nam tông trong mùa kiết hạ,
sau đó thì các tăng đoàn mới lưu lại lâu dài hơn và sinh
hoạt
thường xuyên hơn. Giai đoạn thứ hai được phát triển
vào thời kỳ bành trướng lớn của Bắc tông và Ajanta đã
trở thành một đại học Phật giáo. Sau cùng thì Ajanta trở
nên hoang phế và chìm vào quên lãng từ thế kỷ thứ VI (hay
thứ VIII tùy theo tư liệu) cho đến ngày đại úy John Smith
đi tuần tra ngang đó vào tháng tư năm 1817, tổng cộng lại
thì Ajanta đã ngủ yên trong rừng sâu hơn một ngàn hai trăm
năm.

Thời
kỳ
phát triển thứ nhất gồm có các hang 10, 12, 8, 9, 13, xếp
theo thứ tự thời gian. Nghệ thuật điêu khắc trong các hang
này khá đơn sơ và không có một biểu tượng nào tượng
trưng
cho Đức Phật hoặc trình bày giáo lý của Ngài. Kèo
cột đục trong đá thì bắt chước theo các vật liệu bằng
gỗ, cửa sổ và thềm cửa được đục giả vào đá. Trên
tường của các hang số 9 và 10 người ta còn nhận ra được
một vài vết tích tranh vẽ các mẫu hoa lá và các đường
nét hình học, dầu sao thì đấy cũng là những di tích xưa
nhất của nghệ thuật tranh vẽ Ấn độ còn lưu lại đến
nay
. 

Trong
một thời gian dài bốn trăm năm sau khi đợt xây dựng đầu
tiên chấm dứt vào thế kỷ thứ I trước Tây lịch thì bỗng
nhiên vào thế kỷ thứ V dưới triều đại Vakataka đồng
thời
với một triều đại khác cực thịnh ở miền bắc
là triều đại Gupta, thì công cuộc phát triển Ajanta lại
được tiếp tục. Đợt phát triển này chịu ảnh hưởng
rõ rệt của Bắc tông. Thời gian khởi công và chấm dứt
của thời kỳ xây dựng thứ hai không được xác định chính
xác
lắm và vẫn còn là một vấn đề tranh cãi giữa các
học giả, có thể đợt xây dựng thứ hai khởi công vào khoảng
năm 450 dưới thời vua Harisena và chấm dứt vào khoảng năm
550 tức là vào thế kỷ thứ VI. Một giả thuyết khác cho
rằng đợt xây dựng này thuộc hẳn vào triều đại của
vua Harisena và đã khởi công vào năm 462 và chấm dứt vài
năm sau khi vị vua này qua đời vào năm 486. Nếu dựa theo giả
thuyết
này thì vua Harisena có thể là người chủ xướng mở
mang Ajantra và sau khi ông mất thì Ajanta cũng bị bỏ hoang.
Tuy nhiên cũng có giả thuyết cho rằng sự sinh hoạt của Ajanta
kéo dài cho đến thế kỷ thứ VIII.

Cách định
tuổi các biến cố ở Ajanta

Cách
định tuổi các biến cố xảy ra ở Ajanta trước hết được
dựa vào các kinh sách có đề cập đến các hang động này
và sau đó là dựa vào các mẫu mã trong tranh vẽ và các hình
tượng
điêu khắc vì những chi tiết đặc thù đó tượng
trưng
cho từng giai đoạn phát triển của nền văn hóa và
nghệ thuật Ấn độ. Ngoài ra cách so sánh với các hang động
tương tợ được thực hiện ở các nơi khác vào cùng một
thời kỳ với Ajanta cũng mang lại nhiều hiểu biết hữu ích.
Đặc biệt nhất là trong hang số 16 người ta tìm thấy chữ
ký của một vị quan thuộc triều đình của vua Harisena, vì
thế các học giả thường xoay quanh mốc thời gian này để
định tuổi cho đợt xây dựng thứ hai và các biến cố liên
hệ
. 

Trong
đợt phát triển thứ hai thì các hang được được khởi
công gần như liên tiếp nhau và không có sự gián đoạn nào
đáng kể. Hang 11 và tầng bên dưới là hang số 6 được khởi
công trước nhất, và ngay sau khi được hoàn tất thì đến
lượt các hang 7, 8, 16 được khởi công cùng một lúc, tuy
nhiên
chỉ có hai hang 7 và 8 là được hoàn tất trọn vẹn,
hang 16 bị bỏ dở, và sau đó đến lượt hang 17 được khởi
công và cũng bị bỏ dở, trong khi đó hang 19 được khởi
công gần như cùng lúc với hang 17 thì lại được tiếp tục
cho đến khi hoàn tất. Hang số 1 và số 2 là hai hang quan trọng
và tiêu biểu nhất được thực hiện vào giữa thời kỳ
phát triển thứ hai. 

Sự khác biệt
về kiến trúc và trang trí 


giữa hai thời
kỳ
phát triển

Cách
kiến trúc, điêu khắc và tranh vẽ trong các hang rất khác
biệt nhau giữa hai giai đoạn phát triển. Phần trình bày dưới
đây sẽ phân tích sự khác biệt đó trong ba lãnh vực như
kiến trúc, điêu khắc và các tranh vẽ trên tường.

Cách
kiến trúc và bố trí các hang thiết kế dưới các triều
đại
Gupta-Vakataka vào thế kỷ thứ V khác hẳn với các hang
thành lập từ trước thuộc các thế kỷ thứ II và thứ I
trước Tây lịch. Cách bố trí các hang tịnh xá (vihara) thuộc
đợt xây dựng thứ hai phức tạp hơn, gồm nhiều tầng và
nhiều phòng ốc hơn, trần có thêm cột chống đỡ, và nhất
là gian tập thể khang trang hơn và thường thì có thêm một
gian làm nơi thờ phụng ngay bên trong trong tịnh xá. Nói chung
đối với các hang trong đợt phát triển này thì cách trang
trí dựa theo các vật liệu bằng cây không còn được chú
trọng nữa, các kèo cột giả gỗ khó nhận ra hơn và chỉ
được tượng trưng một cách kín đáo. Mặt tiền các tịnh
xá
và chính điện có thêm mái che rất cao và rộng lớn hình
vòm và nhiều cột chống đỡ, tất cả đều được trang
trí bằng các điêu khắc đủ loại.

Trong
các chính điện thuộc giai đoạn thiết kế thứ nhất không
thấy có một biểu tượng nào tượng trưng cho Đức Phật
mà chỉ có một bảo tháp xá lợi duy nhất nơi bệ thờ. Trong
giai đoạn thiết kế thứ hai thì các hình tượng của Đức
Phật
xuất hiện khắp nơi gồm các pho tượng thật lớn và
các loại điêu khắc chạm nổi trên tường, trên trần và
trên các kèo cột. Tượng Đức Phật được diễn đạt bằng
hai cách : hoặc ngồi buông chân trong một chiếc ngai như một
đế vương, hoặc trong tư thế thiền định. Trong các chính
điện số 19 và 26, nơi bệ thờ và phía trước bảo tháp
còn đặt thêm một pho tượng Phật thật lớn. Sự ghép đặt
tượng Phật và bảo tháp chung với nhau nơi bệ thờ có thể
xem như cách tượng trưng cho sự phối hợp giữa Nam và Bắc
tông
chung trong một chính điện. Ngoài ra trong các hang thuộc
đợt xây cất thứ hai người ta còn nhận thấy lần đầu
tiên xuất hiện các bức tượng “Phật nằm”, tượng trưng
cho giây phút Đức Phật nhập vào Đại bát Niết bàn.

Đối
với các tranh vẽ thì trước hết các mặt đá được tô
thêm một lớp hồ làm bằng đất sét trộn với phân bò và
gạo, bên trên lớp hồ được tô thêm một lớp vôi và sau
cùng thì lớp vôi được mài cho thật phẳng trước khi vẽ
tranh. Ngoài các bức tranh tượng trưng “một ngàn vị Phật”
dựa theo sự tích xảy ra tại thành Xá Vệ (Sravasti) tìm thấy
trong hang số 2 thì hầu hết các tranh ảnh khác đều mượn
các chủ đề về tiền thân Đức Phật trong kinh Jataka. Cách
trình bày sự tích về tiền thân Đức Phật được diễn
tả
thật khéo léo bằng nhiều bức tranh liên tục nối tiếp
nhau, không thấy một sư gián đoạn nào cả. Cử chỉ và ánh
mắt của các nhân vật phụ trong tranh được diễn tả thật
ý nhị và tài tình, hướng dẫn sự chú ý của người xem
vào nhân vật chính hoặc chuyển sang một sự tích khác. Màu
sắc trong tranh thật phong phú, gồm các màu nâu, đỏ gạch,
vàng, xanh, lục… Các nhân vật nữ giới được diễn tả
thật hiện thực và tinh tế, vừa khêu gợi lại vừa e thẹn.
Hầu hết các học giả đều công nhận là các tranh trên tường
trong các hang động Ajanta rất tiêu biểu và có thể đại
diện cho các loại tranh truyền thống đặc thù nhất của
Ấn độ. Tiếc thay số du khách ngày càng đông đảo của
ngành du lịch “kỹ nghệ” ngày nay đã làm hư hại phần lớn
gia tài văn hóa đó của nước Ấn và của nhân loại nói
chung, vì không làm sao ngăn cản được hàng ngàn du khách sờ
mó lên tường. Hơn nữa sự hiện diện đông đảo của du
khách
trong các hang động cũng làm cho không khí bị ô nhiễm
thêm, nấm và vi khuẩn đủ loại phát sinh và xóa dần những
bức tranh vô giá của những di tích ngàn năm.

Sự suy tàn
của Ajanta

Tư
liệu và khảo cứu về Ajanta thật hết sức phong phú, tuy
nhiên
rất khó tìm thấy một học giả Tây phương hay Ấn
độ
nào đề cập đến nguyên nhân suy tàn của các hang động
này. Một học giả Tây phương là bà Sophie Royer nêu lên trong
quyển sách “Đức Phật” (Bouddha, nhà xuất bản Gallimard, 2009,
Paris) một giả thuyết giải thích về sự suy tàn của Ajanta
(trang 286-287) như sau :

” …Bên
cạnh chân dung của các vị Bồ-tát và các cảnh tượng mô
tả
lại sự tích các tiền thân Đức Phật, người ta cũng
có thể chiêm ngưỡng trên các vách đá trong tịnh xá những
hình ảnh phụ nữ khêu gợi và thật tinh xảo, môi thoa đỏ
đang lắc mông nhảy múa, và cả những cảnh tượng tiếp
nối
nhau nêu lên từng chi tiết nhỏ các cảnh xa hoa của cuộc
sống vương giả… Khi thực hiện các tác phẩm vô giá của
nghệ thuật Ấn độ trên đây, các vị tỳ kheo nơi hang động
Ajanta có thể đã không nghĩ rằng là chính mình đang chuẩn
bị khí giới để đưa cho kẻ khác hại mình : vì một ngày
nào đó những người Bà-la-môn sẽ không còn do dự gì nữa
khi đưa tay trỏ thẳng vào sự xa hoa và biết đâu cả sự
dâm ô bắt đầu lan rộng trong các tu viện lớn ở Ấn độ.
Những chỉ trích đó của người Bà-la-môn cũng đã góp phần
vào sự suy tàn của Phật giáo ngay trên phần đất nguyên
thủy
của chính mình
”

Thiết
nghĩ
các lý do nêu lên trên đây thật là hời hợt và hoàn
toàn
sai lầm. Các cảnh tượng rất hiện thực trong các bức
họa trên tường có mục đích trình bày diễn tiến các câu
chuyện
về tiền thân của Đức Phật trích dẫn từ kinh Jataka,
các cảnh tượng đó giúp cho người tu hành chiêm nghiệm và
suy tư. Tác giả Sophie Royer chỉ nhìn thấy những phụ nữ
khêu gợi và những cảnh xa hoa nhưng không nhìn thấy sự đối
nghịch của chúng tức là hình ảnh các vị Bồ-tát đứng
bên cạnh những thứ ấy với gương mặt trong sáng, trong đôi
mắt của họ hiện lên lòng từ bi và sự giác ngộ. Sự suy
tàn
của Phật giáo trên đất Ấn có những nguyên nhân bao
quát hơn, thực tế hơn và sâu xa hơn nhiều.

Vì
thế thiết nghĩ nếu muốn tìm hiểu sự suy tàn của Ajanta
và Phật giáo nói chung ở Ấn độ thì có lẽ cần phải nhìn
vào bối cảnh chung của lịch sử quốc gia này vào thời bấy
giờ. Vào thế kỷ thứ V, các đạo quân Hung nô xâm lăng Ấn
độ
đã tàn phá hầu hết các trung tâm Phật giáo lớn trong
vùng tây bắc của nước này. Rất nhiều tư liệu cho biết
là các đạo quân xâm lược Hung nô rất thù ghét Phật giáo,
giết tăng ni và tàn phá chùa chiền, nhưng lại không giải
thích vì lý do gì. Tuy nhiên người ta có thể nghĩ rằng người
Hung nô rất thù ghét người Hán và đã gián tiếp không thích
tôn giáo của họ tức là Phật giáo. Sự xâm lăng của các
đạo quân Hung nô vào miền bắc Ấn độ làm cho đế quốc
Gupta phải tan rã. Khi toàn thể miền bắc Ấn bị chia cắt
thành nhiều vương quốc và giặc giã nổi lên khắp nơi thì
người dân phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình
để chạy loạn và đã đổ dồn về các vùng miền đông
và trung Ấn. Sư sãi cũng chạy theo và có lẽ sự phát triển
và xây dựng Ajanta cũng vì thế mà phải ngưng lại vào thời
kỳ
này tức là vào cuối thế kỷ thứ V hay đầu thế kỷ
thứ VI. Sự sinh hoạt của tăng đoàn nơi các hang động Ajanta
cũng bị bị thu hẹp và hai thế kỷ sau thì hoàn toàn trở
thành
hoang phế. Ajanta chìm vào quên lãng hơn một ngàn năm
cho đến tháng 2 năm 1824 khi trung úy James Alexander trong một
cuộc săn bắn đã khám phá ra một cách thật tình cờ.

Sau
một thời kỳ giặc giã triền miên suốt hơn hai trăm năm
và mãi cho đến thế kỷ thứ VII thì nhà vua Harsavardhana (606-647)
dưới triều đại Pusyabhuti mới thống nhất được miền
bắc Ấn. Mặc dầu triều đại này khá ngắn ngủi nhưng việc
giao hảo với các quốc gia khác lại rất tích cực, nhất
là đối với Trung quốc. Chính vào thời kỳ này Trung quốc
đã đưa nhiều nhà sư sang tu học tại Ấn và trong số đó
có ngài Huyền Trang. Trong tập Đại Đường Tây vực
ký
, ngài Huyền Trang có cho biết là một đại luận
sư
Phật giáo là ngài Trần Na (Dignaga, 440-520) đã từng đến
Ajanta. Trong giai đoạn lịch sử này miền nam nước Ấn bị
chia làm ba quốc gia khác nhau là Calukya thuộc tây nam, Pallava
thuộc đông nam và Pandya thuộc cực nam. Các quốc gia này đều
thấm nhuần nền văn hóa Dravidien của người Tamoul (ngôn ngữ
và văn hóa rất khác với miền bắc). Mặc dù các quốc gia
miền nam không thù nghịch với Phật giáo nhưng không hề ủng
hộ
Phật giáo như các quốc gia miền bắc. Khi các đạo quân
Hồi giáo tràn vào bắc Ấn thì một số nhà sư Phật giáo
thường lánh nạn lên Tây tạng hoặc vượt biển sang Indonêxia
và đã mang Phật giáo đến các nơi này. 

Vào
thế kỷ thứ VIII một đế quốc mới là Pala được thành
lập
tại các vùng miền bắc gồm có Ma-kiệt-đà (Maggadha)
và Orissa (miền cực đông thuộc cửa sông Hằng) và triều
đại
này đã đánh dấu thời kỳ hưng thịnh cuối cùng của
Phật giáo tại bán lục địa Ấn độ. Dưới triều đại
Pala có một số đại học Phật giáo lớn được thành lập
như Somapura và Odantapuri dưới sự quản lý của một tông
phái
Phật giáo mới là Tan-tra thừa còn gọi là Kim cương
thừa
. Tông phái này được truyền vào Tây tạng kể từ thế
kỷ thứ VIII.

Triều
đại
Pala chưa kịp củng cố lãnh thổ thì các đạo quân
Hồi giáo từ Afghanistan lại tràn vào bắc Ấn đốt phá chùa
chiền, giết hại sư sãi. Đại học Na-lan-đà bị san bằng
vào năm 1199, sư sãi bị giết, thư viện bị đốt sạch và
biến cố này đã đánh dấu trang cuối cùng của lịch sử
Phật giáo kéo dài mười bảy thế kỷ trên phần đất này
của địa cầu.

Lời kết

Mười
bảy thế kỷ hiện diện của Phật giáo trên đất Ấn đã
đi vào lịch sử, nhưng rất nhiều di tích vẫn còn đó. Ajanta hiện ra với chúng ta hôm nay như một kỳ quan ngoại
hạng của một thời Phật giáo vàng son. Trên quần đảo Inđônêxia,
Phật giáo cũng đã từng hiện diện hơn một ngàn năm và
cũng đã đi vào lịch sử, chứng tích lưu lại là ngôi đền
Phật giáo Borobudur lớn nhất thế giới vẫn sừng sững trên
hòn đảo Java như muốn tiếp tục thách đố với với thời
gian
. Quy luật vô thường tác động lên tất cả mọi hiện
tượng
trong vũ trụ này, không có một ngoại lệ nào cả.
Tất cả mọi hiện tượng đều liên kết với nhau mà chuyển
động, Ajanta cũng là một hiện tượng vì thế cũng không
tránh khỏi cơn lốc của vô thường. Tóm lại thiết nghĩ
cũng không có gì khác hơn để góp ý thêm cho phần kết luận
này, chỉ xin phép được kể ra đây một câu chuyện khám
phá
hoàn toàn khác hẳn để cùng với người đọc suy tư.

Nếu
trung úy James Alexander của quân đội viễn chinh Anh quốc trong
một cuộc săn bắn ở Ấn độ đã tình cờ khám phá ra một
kỳ quan được xếp vào gia tài văn hóa của nhân loại, thì
tại một nơi khác cũng có một trung úy khác là Henri de Ponchalon
trong quân đội viễn chinh Pháp tại An Nam trong một cuộc săn
bắn cũng đã tình cờ khám phá ra một thứ gì đó mà biết
đâu cũng có thể làm cho chúng ta xao xuyến tận đáy lòng
? 

Quân
đội viễn chinh Pháp do đề đốc hải quân Rigault de Genouilly
chỉ huy đổ bộ lên bán đảo Tiên Trà (ngày nay gọi là Sơn
Trà) ngày 1 tháng 9 năm 1858 để đánh chiếm Đà Nẵng. Trong
đoàn quân này có một viên trung úy tên là Henri de Ponchalon
rất say mê săn bắn và đồng thời cũng là người duy nhất
trong đạo quân viễn chinh ghi chép vào nhật ký của mình từng
chi tiết một những biến cố của cuộc đánh chiếm thuộc
địa và cả những cảm nghĩ cũng như những biến cố đã
xảy ra với mình. Cách hành văn của ông thật giản dị và
chân thật, từ cách suy nghĩ cho đến những xúc cảm trong
ông. Sau đó nhiều năm thì các trang nhật ký của ông được
xuất bản thành sách với tựa đề “Đông Dương, những
kỷ niệm của một chuyến du hành và một cuộc chiến,1858-1860
”
(INDO-CHINE, Souvenirs de voyage et de campagne, 1858-1860, nhà xuất
bản Alfred Mamé et Fils, Editeurs, 1896
). Sau đây là phần trích
dịch
(trang 162 đến 167) kể lại một vài chuyên săn bắn
của tác giả Henri de Ponchalon :

Ngày
20 tháng 3
: Một lô-cốt được xây dựng trên đỉnh
cao nhất của bán đảo Tiên Trà dùng làm địa điểm quan
sát
và cũng để bảo vệ toàn vùng phía sau lưng doanh trại
; tôi được giao phó trọng trách mang trung đội dưới quyền
của tôi đến đóng giữ nơi này trong tám ngày.

Sau
một cuộc hành trình cực nhọc chúng tôi cũng đã đến được
nơi đóng quân. Thật là một quang cảnh tuyệt vời ! Dưới
chân tôi mây thật thấp che phủ cả doanh trại Tiên Trà ;
chỉ cần đảo mắt là tôi có thể nhìn thấy hết các tiền
đồn của quân đội viễn chinh, ngoài xa là biển cả và những
ngọn núi đá hoa (Ngũ Hành Sơn), tôi nhìn thấy cả con sông
nhỏ và các vị trí của kẻ thù. Khu rừng nguyên sinh chung
quanh lô-cốt đầy sinh vật và các loại thú để săn : nào
là cọp, beo, mèo rừng, chồn đèn, tê tê, heo rừng, hươu,
hoẵng, khỉ đột, gà rừng, loại sóc đào hang (rat palmiste),
v.v… Cha tôi là một người liều lĩnh và say mê săn bắn,
nếu ông ta mà được ở đây thì sẽ thích lắm ! Tiếc thay
! thằng con trai của ông ta thì chỉ được phép lẩn quẩn
chung quanh lô-cốt mà thôi ; hắn còn phải canh chừng cho sự
an toàn của doanh trại.

Hoangphong-Ajanta-02
Sóc
đào hang (rat palmiste)

Ngày
21 tháng 3
: Tôi vừa giết được một con khỉ lọ nồi
(douc). Tại một khúc quanh trên một con đường mòn rất khó
đi tôi vụt trông thấy một con khỉ khổng lồ hai chân màu
đỏ đang bám trên cây. Con khỉ hoàn toàn bất động và cứ
nhìn tôi chăm chăm; tôi đưa súng lên vai, nó phóng sang cành
khác : tôi bóp cò, nó rơi xuống đất và bị thương nặng.
Phải thú nhận rằng tôi hết sức xúc động khi chạy đến
bên cạnh nó và nhìn thấy con vật đáng thương hai mắt nửa
khép nửa mở hình như đang cầu khẩn tôi tha mạng cho nó.
Quyết định của tôi thì lại không phù hợp tí nào với
sự xúc động của tôi ; nó bảo tôi phải tóm lấy con khỉ
và tôi liền đấm vào gáy con khỉ một quả thật mạnh rồi
lôi xác nó một cách thật oai hùng đem về giao cho tên đầu
bếp. Đến bữa cơm tối, tôi mời thêm hai tên trung sĩ dưới
quyền của tôi.

 Hoangphong-Ajanta-03Hoangphong-Ajanta-04
Khỉ
lọ nồi (Douc, tên khoa học Pygathrix nemaeus)

Ngày
22 tháng 3
: Thịt khỉ lọ nồi vẫn được xem là tuyệt
hảo
nhất, nhưng theo tôi thì thịt loài sóc đào hang mà tôi
vừa bắn được một con sáng nay thì phải nói là thơm tho
hơn hết.

Tên
thuộc hạ của tôi – phải công nhận hắn thật tháo vác –
vừa dựng lên cho tôi một căn lều thật xinh xắn, tôi dùng
nó làm nhà ăn và chỗ nghỉ trưa. Duỗi chân trên chiếc võng
đong đưa, tôi mơ màng nghĩ đến chuyến du hành đẹp đẽ
này rồi cũng sẽ chấm dứt, đến một trận chiến đang diễn
ra thật thú vị, đến sự khen thưởng mà tôi hằng mong đợi,
đến khu rừng nguyên sinh mà tôi đang ước mơ sẽ tạo được
tại nơi này những thành tích săn bắn rạng ngời và rồi
tôi ngủ thiếp đi.

Khi
ngày đã hết, dưới ánh trăng sáng tôi cố tìm một nơi để
mai phục. Đêm hôm qua có tiếng hươu kêu ngay bên cạnh lô-cốt. Sau một giờ chờ đợi thì có tiếng gầm của thú dữ vọng
lại báo cho tôi biết đã đến lúc phải chuẩn bị ; tôi
liền chạy đến nơi ẩn nấp. Cạnh lô-cốt bỗng có một
con vật chân rất ngắn chạy băng ngang đường, tôi bèn nhả
đạn và giết được một con tê-tê, tê tê là một con vật
thuộc loài có vú thuộc họ động vật thiếu răng, chuyên
ăn kiến ; toàn thân có một lớp giáp màu đen ; thịt của
của nó không ăn được.

Hoangphong-Ajanta-05
Con
tê tê

Ngày
23 tháng 3
: ……………..

Ngày
24 tháng 3
: Tôi giết được một con gà rừng lông đen
; săn loại thú này rất khó. thức từ lúc ba giờ sáng tôi
ngồi rình thật im hơn một giờ đồng hồ dưới một lùm
cây. Con gà chạy xẹt ngang mặt tôi như một tia chớp ; tôi
nhả một phát đạn vào cái hạnh phúc nhỏ bé ấy. Quả thật,
vào bữa cơm tối hôm đó thì tôi mới biết là công lao ngồi
chờ của tôi ban sáng đã được đền bù thật hậu hĩnh
; thịt gà rừng thật vô cùng tuyệt hảo. 

Ngày
25 tháng 3
: Nếu đừng bị chuyển đi nơi khác và cứ
được ở đây thì thích thú biết chừng nào ! Được ở
lại giữa cảnh rừng đầy ắp muôn thú như thế này thì
tôi chẳng phải là người sung sướng nhất thế gian hay sao
? Ngày nhỏ tôi vẫn thường ước mơ được sống như Lỗ
Bình Sơn (Robinson Crusoé). Lỗ Bình Sơn sống một mình trên
một hòn đảo hoang thì chắc gì đã sung sướng hơn tôi trong
khu rừng nguyên sinh này ? Tên hầu cận Thứ Sáu (Vendredi) của
ông ta làm gì sánh kịp với tên thuộc hạ Dulout vô cùng hào
hùng của tôi ? Dưới bóng mát của những gốc cổ thụ trăm
năm, tôi chỉ muốn ngâm lên những câu thơ của thi hào Chateaubriand
mà cha tôi đã một lần ngâm nga khi đi săn trong khu rừng Écouves
thật đẹp gần tỉnh lỵ Alençon, bỗng nhiên tiếng ngâm của
cha tôi bất thần dừng lại vì có một con hoẵng chạy ngang,
cha tôi hạ được nó tại một khúc quanh trên một con đường
mòn :

Giữa
khu rừng yên lặng, trong cảnh cô quạnh đáng yêu, 


Tôi
chỉ muốn ôm lấy những bóng râm chưa hề ai biết đến !


Trong
những khúc quanh âm u, cứ ngỡ rằng mình đang lạc lối,


Trong
lòng thanh thản không một chút lo âu.


………………………………………………………….

Chao
ôi ! sao hạnh phúc thế này, ước gì tôi được sống trọn
kiếp nơi đây,


Xa
loài người, giữa tiếng suối reo róc rách.


Mong
rằng mọi người hãy cứ quên tôi đi, nơi chốn quạnh hiu
này,


Dưới
bóng mát của loài cây du, tôi thiếp đi trên tấm thảm đầy
hoa.

Ngày
26 tháng 3
: Hôm qua khi thám hiểm chung quanh đồn
canh, tôi khám phá được một chỗ mà khỉ lọ nồi thường
kéo đến đùa giỡn. Cứ thấy tôi là chúng bỏ chạy. Sáng
hôm nay, khe khẽ tôi luồn vào các bụi cây để nấp và tôi
bắn được một con khỉ đang nhảy nhót trên cành. Tôi vô
cùng
ngạc nhiên khi trông thấy một con khỉ khác từ trên
cây tụt ngay xuống đất ôm lấy xác con vật bị bắn chết
rồi chạy vào rừng vừa kên lên những tiếng kêu thương
thống thiết ! Quả thật là một bản năng tuyệt vời ! 

Vài
lời góp ý
:

Trung
úy James Alexander khám phá ra một hang động bỏ quên hơn một
ngàn năm và ngày nay đã được Liên Hiệp Quốc xếp vào gia
tài
văn hóa của nhận loại, trung úy Henri de Ponchalon thì nhìn
thấy một con khỉ từ trên cây tụt xuống đất để ôm xác
đồng loại chạy vào rừng và phát lên những tiếng kêu thương
thống thiết. Hình ảnh con khỉ ôm xác đồng loại chạy vào
rừng đã được trung úy Henri de Ponchalon ghi lại bằng một
dòng chữ trong một quyển sách nhỏ đã ngủ yên hơn một
trăm năm trong thư viện quốc gia Pháp. 

Người
đọc cũng có thể tự hỏi tại sao lại đem so sánh hai câu
chuyện
không có gì liên hệ với nhau như thế ? Thật vậy,
hai sự kiện thuộc vào hai lãnh vực khác nhau. Hang động Ajanta
thuộc vào lãnh vực vật-chất thu hút được hàng nghìn du
khách
đến viếng mỗi ngày, người đến xem có thể chụp
ảnh và sờ mó được, trong khi đó thì tình thương yêu đồng
loại
của một con thú lại thuộc vào lãnh vực phi-vật-chất
nên khó nắm bắt và không lôi kéo được sự quan tâm của
con người. Cũng thế, rất dễ cho chúng ta so sánh giữa của
cải
của một người giàu có và sự thiếu thốn của một
kẻ cơ hàn, nhưng lại rất khó cho chúng ta so sánh giữa của
bố thí
của một người dư thừa và những xúc cảm từ tâm
hiện ra trong lòng của một người nghèo khó. Cũng thế, rất
dễ cho cơ quan Văn hóa Liên Hiệp Quốc biểu quyết xếp các
hang động Ajanta vào gia tài văn hóa của nhân loại, nhưng
nếu có một thành viên nào đó nêu lên ý kiến cần phải
bảo vệ lòng yêu thương đồng loại trong lòng một con thú
thì có lẽ các thành viên khác cũng chỉ biết cười trừ
mà thôi.

Khi
thấy con khỉ liều chết từ trên cây tụt xuốt đất ôm
lấy xác của đồng loại chạy vào rừng thì trung úy Henri
de Pochalon kêu lên : “Quả thật là một bản năng tuyệt
vời
!”, trong khi đó thì chính ông lại không nhìn thấy
cái bản năng thú tính và hung bạo trong lòng mình, đang khích
động mình tìm kiếm một miếng ăn “ngon”, sự thỏa mãn khi
nhả một viên đạn vào một sinh vật khác. Thật vậy, ngày
nay nếu muốn chiêm ngưỡng di tích Ajanta thì cũng không đến
nỗi khó lắm, nhưng lại vô cùng khó khăn cho chúng ta nếu
chúng ta muốn khám phá ra một hang động thật sâu kín và
sinh động với bệ thờ và xá lợi đang bị che lấp trong
một nơi thầm kín của đáy lòng mình.

Bures-Sur-Yvette,
06.07.10


Hoang
Phong

Hoangphong-Ajanta-06
Một
con khỉ từ trên cây tụt xuống để nhặt xác của con khỉ
bị bắn chết

(ảnh
trích trong sách của Henri de Ponchalon, trang 167)

Phụ
lục
1: Hình ảnh các hang Ajanta, Bedsa, Bhaja và Kharla

Hoangphong-Ajanta-31
Karla
caves

Hoangphong-Ajanta-30
Bhaja
caves

Hoangphong-Ajanta-32
Bedsa
Caves 1000 years old.

Hoangphong-Ajanta-20
Ajanta

Hoangphong-Ajanta-08
Ajanta
Caves

Hoangphong-Ajanta-09
Water
Falls, Ajanta Caves

Hoangphong-Ajanta-12

Hoangphong-Ajanta-13

Ajanta-Motngaydong-03

Ajanta-Motngaydong-04

Ajanta-Motngaydong-06

Bên
trong Ajanta Caves:

Hoangphong-Ajanta-17

Hoangphong-Ajanta-18

Ajanta-Motngaydong-08

Hoangphong-Ajanta-07

Hoangphong-Ajanta-19

Hoangphong-Ajanta-21
Reclining
Buddha carved in the Ajanta Caves in Northern India, 
dating
to the 2nd century B.C

Hoangphong-Ajanta-25

Hoangphong-Ajanta-23
Tranh
vẽ trong Ajanta Caves

Hoangphong-Ajanta-22
Temptation
of Mara, painting of mural in Cave 1, Ajanta, 
1875-1876,
Museum no. IS.13-1885

Hoangphong-Ajanta-24
Ajanta
Bodhisattva

 

______________________________________________

Bài đọc thêm:

AJANTA
Choáng ngợp hàng nghìn tượng Phật thiêng xuyên núi.

(Source: Discovery kênh 14)

Đây có thể coi là một trong những di sản lớn nhất về đạo Phật còn lưu giữ được đến ngày nay.

Nằm ẩn mình
trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên
Deccan (Ấn Độ), hang động Ajanta đã bị lãng quên trong
một thời gian dài.

Vào năm 1819, một nhóm người Anh đi săn cọp trong khu vực này đã tình cờ phát hiện hệ thống hang động Ajanta. Quần thể hang động Ajanta là di tích quý giá đại diện cho thời kỳ Hưng thịnh của Phật giáo tại Ấn Độ.

 

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-01-08C3C

Ajanta tọa lạc ở lưng chừng núi, bên dưới hang động là lòng vực cùng dòng sông
Waghora uốn khúc. Hang
động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong
vách núi đá thẳng đứng cao 76m.

Di tích hang động Ajanta
có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu
phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang
theo số thứ tự.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-02-08C3C

Quần thể hang động Ajanta không được tạo dựng trong một thời kỳ liên tục nên các nhà nghiên cứu phân chia
các hang động theo
từng thời kỳ xây dựng.

Nó gồm hai
phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu vào thế kỷ II TCN gồm hang số 8, 9, 10, 12, 13, 15A
mang màu sắc của Phật giáo nguyên thủy.

Cụm hang
sau được xây dựng vào thế kỷ V, mang màu sắc Phật giáo mới. Tuy nhiên, một số hang vẫn còn chưa được hoàn tất.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-03-08C3C

Dù vẫn còn một số hang vẫn chưa được hoàn thành,
Ajanta vẫn là quần thể chùa hang
vô cùng lớn trên thế giới do bàn tay
con người tạo ra.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-04-08C3C

Một trong
những điểm đặc biệt của quần thể hang động này chính là một số lượng khổng lồ các bức tượng điêu khắc về đạo Phật. Đây được coi là những tác phẩm hội họa đẹp nhất của nghệ thuật Phật giáo.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-05-08C3C

Ngay những bước chân đầu tiên tham
quan quần thể kiến trúc này, du
khách
có thể bắt gặp những khung cảnh hết sức vĩ đại.

“Mặt tiền” của hang động, hàng dài tượng Phật được đục đẽo bằng tay vô cùng khéo léo
ngay trên bề mặt của vách đá, hay cả một điện thờ với những cột trụ vô cùng chắc chắn được tạo nên bởi các nghệ nhân ngay
trong lòng núi đá.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-16-9Dd38

Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa.

Họ sinh
hoạt
và tu hành
trong không gian chật hẹp. Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-13-08C3C

Hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện của các nhà tu hành. Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật.

Thời kỳ này hoàn
toàn
không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy, Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.

 

Nhóm hang động thứ 2, tượng Phật hiện diện khắp nơi. Có tượng Phật ngồi thể hiện rằng, đã đạt được sự giác ngộ dưới cội bồ đề, xung quanh là sự cám dỗ của quỷ ma.

Trước khi
giác ngộ, Đức Phật đã trải qua nhiều giai đoạn tu luyện, tất cả đều được thể hiện qua hàng loạt tác phẩm điêu khắc trong hang.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-10-08C3C

Có được các tác phẩm tượng Phật đạt đến vẻ đẹp đỉnh cao như thế là nhờ vào các họa sĩ và nhà điêu khắc đã thấm nhuần Phật pháp. Chính họ đã góp phần rất lớn tạo nên giá trị cho quần thể hang động Ajanta.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-07-08C3C

Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ VII là giai đoạn phát triển của nghệ thuật Phật giáo tại hang động Ajanta. Đó là những bức bích họa được vẽ trên tường trong hang động.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-09-08C3C

Cách mà những người thợ dùng để tạo ra những tác phẩm của mình cũng vô cùng độc đáo. Theo
một số tài liệu, nguyên liệu chính để làm nên những bức vẽ chính là đá cuội và các loại rau quả.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-17-608E9

Rau quả được nghiền nát ra để tạo thành 1 chất keo, sau đó được nghiền tiếp với các viên sỏi đầy màu sắc để tạo ra một loại “sơn” cho những tác phẩm này.

Minh chứng rõ nhất chính là những hình tượng Phật trên những bức tường ở hang số 10 dù đã trải qua nhiều thế kỷ nhưng vẫn không hề bị phai màu.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-08-08C3C

Có thể nói, nghệ thuật hội họa của người Ấn Độ cổ đại đã đạt đến chất lượng hoàn hảo về màu sắc cũng như bố cục. Các tác phẩm này đã qua cuộc thử nghiệm thành công của thời gian.

Ajanta-Hang-Dong-Ando-Teeniscover-Kenh14-06-08C3C

Quần thể chùa hang Ajanta là di tích lịch sử lớn nhất thế giới đã được UNESCO công nhận vào năm 1983. Đây có thể coi là một trong những di sản lớn nhất về đạo Phật còn lưu giữ được đến ngày nay.

 

 

 

 

Tin bài có liên quan

Xứ Phật Tình Quê – Thích Hạnh Nguyện; Thích Hạnh Tuấn

Vườn Lộc Uyển (Sarnath)

Vườn Lộc Uyển (Sarnath)

Về Thăm Đất Phật 4

Về Thăm Đất Phật 3

Về Thăm Đất Phật 2

Về Thăm Đất Phật 1 – Phim Ký Sự Phật Giáo Tại Ấn Độ

Về Thăm Đất Phật 1 – Phim Ký Sự Phật Giáo Tại Ấn Độ

Vài Ghi Chú Về Pho Tượng Phật Giáo Tạc Từ Một Khối Thiên Thạch – Hoang Phong

Vài Ghi Chú Về Pho Tượng Phật Giáo Tạc Từ Một Khối Thiên Thạch – Hoang Phong

Trụ Đá Asoka (ấn Độ), Xuất Xứ Và Ý Nghĩa

Thiên Trúc Tiểu Du Ký – Thiện Phúc

Theo Dấu Chân Phật – Kỳ 1

Theo Dấu Chân Phật – Kỳ 1

Load More

Discussion about this post

Chân Dung Dấu Ấn Nghệ Thuật

Chân Dung Dấu Ấn Nghệ Thuật

Chân dung DẤU ẤN NGHỆ THUẬTThích Nữ Huệ Trân      HT. Thích Quảng Thanh (Buổi trưa, Thứ Tư ngày...

Thầy Chính Trung Xuất Khẩu Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam Ngay Tại Việt Nam

Thầy Chính Trung xuất khẩu văn hóa Phật Giáo Việt Nam ngay tại Việt Nam

THẦY CHÍNH TRUNG XUẤT KHẨU VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM NGAY TẠI VIỆT NAM Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng...

Hốt Bụi Ném Người Trên Gió Chỉ Làm Bẩn Mình

Hốt bụi ném người trên gió chỉ làm bẩn mình

Điều đặc biệt hy hữu trong pháp thoại dưới đây Đức Phật không dùng ảnh dụ có sẵn mà dựa...

Mùa Phật Đản, Nhớ Lời Dạy Của Phật

Mùa Phật Đản, Nhớ Lời Dạy Của Phật

MÙA PHẬT ĐẢN, NHỚ LỜI DẠY CỦA PHẬTHoàng Phước Đại  Mùa Phật đản ( PL2559 - DL2015), Mùa kỉ niệm...

Giới Thiệu Lịch Sử Truyền Dịch Bát-Nhã Tâm Kinh

Giới Thiệu Lịch Sử Truyền Dịch Bát-nhã Tâm Kinh

GIỚI THIỆU LỊCH SỬ TRUYỀN DỊCH BÁT-NHÃ TÂM KINH Phước Nguyên 1/ KINH BẢN VÀ HUYỀN THOẠI a. Truyền bản thủ pháp...

Từ, Bi, Hỷ, Xả Trong Kinh Pháp Cú

Từ, Bi, Hỷ, Xả Trong Kinh Pháp Cú

TỪ, BI, HỶ, XẢ trong KINH PHÁP CÚTâm Minh Ngô Tắng Giao        Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) Đức...

Hút Thuốc, Uống Bia Có Vi Phạm Giới Luật?

Hút thuốc, uống bia có vi phạm giới luật?

HÚT THUỐC, UỐNG BIA CÓ VI PHẠM GIỚI LUẬT? Quang Minh   Trong sinh hoạt hàng ngày, đã không ít...

Khai Thị Về Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo

Khai Thị Về Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo

KHAI THỊ VỀ BA MƯƠI BẢY PHÁP HÀNH BỒ TÁT ĐẠOĐại sư Garchen Rinpoche Có thể nói rằng trong vòng...

Thập Thiện Nghiệp

THẬP THIỆN NGHIỆPHT. Thích Thiện Hoa(Trích từ Phật Học Phổ Thông) A. MỞ ĐỀ Thập Thiện Nghiệp là cội gốc...

Mandala – Sự Hợp Nhất Của Từ Bi Và Trí Tuệ Theo Quan Kiến Kim Cang Thừa

Mandala – Sự Hợp Nhất Của Từ Bi Và Trí Tuệ Theo Quan Kiến Kim Cang Thừa

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Tìm Hiểu Khái Quát Về A Lại Da Thức

Tìm Hiểu Khái Quát Về A Lại Da Thức

TÌM HIỂU KHÁI QUÁT VỀ “A-LẠI-DA THỨC” Thích Nữ Hằng Như   I. DẪN NHẬP Một người được ghi nhận...

Niềm Ân Huệ Của Bệnh Nan Y

Niềm ân huệ của bệnh nan y

Đã có những bệnh viện và trung tâm lớn hiện đang chữa rất hiệu quả bệnh nan y mà nếu...

Giới Sa-Di, Oai Nghi, Luật Nghi Và Lời Khuyến Tu Của Tổ Quy Sơn

Giới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn

Lời giới thiệu - HT. Thích Giác Toàn Điều 7: Không được ca múa, chơi các nhạc cụ, không đến xem...

Từ Đạo Phật Việt Nam Nghĩ Về Cuộc Đối Thoại Giữa Các Nền Văn Hoá Á – Âu

Từ Đạo Phật Việt Nam Nghĩ Về Cuộc Đối Thoại Giữa Các Nền Văn Hoá Á – Âu

TỪ ĐẠO PHẬT VIỆT NAM NGHĨ VỀ CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA CÁC NỀN VĂN HÓA Á – ÂU Thái Nam Thắng...

Nụ Hôn Đồng Tính Với Sư Thầy Dưới Góc Nhìn Truyền Thông

Nụ Hôn Đồng Tính Với Sư Thầy Dưới Góc Nhìn Truyền Thông

"NỤ HÔN ĐỒNG TÍNH" VỚI SƯ THẦY DƯỚI GÓC NHÌN TRUYỀN THÔNG Thích Thanh Thắng Nhân vụ việc này, Giáo...

Chân Dung Dấu Ấn Nghệ Thuật

Thầy Chính Trung xuất khẩu văn hóa Phật Giáo Việt Nam ngay tại Việt Nam

Hốt bụi ném người trên gió chỉ làm bẩn mình

Mùa Phật Đản, Nhớ Lời Dạy Của Phật

Giới Thiệu Lịch Sử Truyền Dịch Bát-nhã Tâm Kinh

Từ, Bi, Hỷ, Xả Trong Kinh Pháp Cú

Hút thuốc, uống bia có vi phạm giới luật?

Khai Thị Về Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo

Thập Thiện Nghiệp

Mandala – Sự Hợp Nhất Của Từ Bi Và Trí Tuệ Theo Quan Kiến Kim Cang Thừa

Tìm Hiểu Khái Quát Về A Lại Da Thức

Niềm ân huệ của bệnh nan y

Giới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn

Từ Đạo Phật Việt Nam Nghĩ Về Cuộc Đối Thoại Giữa Các Nền Văn Hoá Á – Âu

Nụ Hôn Đồng Tính Với Sư Thầy Dưới Góc Nhìn Truyền Thông

Tin mới nhận

5 nguy hại dành cho người nói đặt điều, 5 lợi ích dành cho người nói đúng!

Lời dạy của đức Phật về ăn chay

Cảnh báo website xuyên tạc giáo lý nhà Phật

Đi tìm ý nghĩa của cuộc đời

Đức Phật lập ra đạo để dạy loài người hiểu biết những gì?

Chỉ mất vài phút mỗi ngày, đổi lại một lối sống lành mạnh

50 Năm Nhìn Lại Phật Giáo Tranh Đấu 1963

Lòng tôn kính Phật vô biên

Sư ông Trúc Lâm giảng về “Tuệ giác của Đức Phật”

Đêm tri ân mừng Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia tại chùa Ba Vàng

Câu chuyện nhân quả trong cuộc đời Đức Phật

Vị Phật quá khứ hay Nhiên Đăng Cổ Phật là ai?

Lời Phật dạy về minh và vô minh

Lời Phật dạy về hai hạng người không biết chán đủ

Tôi tin Phật

Được gặp Đức Phật

Thiên ma dâng ngọc nữ

Ác giả ác báo theo quan điểm của nhà Phật

Đức Phật được tạo lập tượng và tôn thờ như thế nào?

Lời Phật dạy về nguyên nhân phung phí tài sản

Tin mới nhận

Điều Khẩn Yếu Sau Khi Mãn Phần – Trích Niệm Phật Thập Yếu

Tu Theo Kim Cang Có Ngày Thành Phật

Học làm Phật

Y giáo phụng hành mới có thể chứng quả

Bệnh Dịch Covid-19 Và Phật Pháp

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo (1892-1940)

Đức Phật và những loại cây trong kinh điển

Vượt Trên Cả Chư Thiên

Sống trọn vẹn từng ngày

“Địa Chỉ Các Chùa Việt Nam Hải Ngoại

Băn khoăn hiếu nghĩa vẹn toàn ?

Khảo về việc ban y tía cho tăng nhân của các vị hoàng đế Trung Hoa

Từ Bi Và Tinh Thần Bất Bạo Động Theo Truyền Thống Đại Thừa

Một chiến-sĩ đã gục ngã trong nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng

Hướng dẫn về một tang lễ Phật giáo đúng đắn

Quán niệm vô thường để xả ly, buông bỏ

Phẩm 25: Phổ Môn

Chấm dứt những lễ hội dã man!

Trở Về Thực Tại

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 123)

Tin mới nhận

Khổ Đau Phát Sinh Và Vận Hành Như Thế Nào? Kinh Acela-sutta

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 124)

Sách “Nhận Thức Quán – Mười liệu pháp chánh niệm” của tác giả Henepola Gunaratana

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 131)

PHẬT THUYẾT PHÁP ẤN KINH

Kinh Bách Dụ: Đứa bé được chiếc bánh hoan hỷ

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 160)

Ngày Tết đọc Kinh Phật

Sn 4.1 — Kama Sutta: Kinh Về Tham Dục & Sn 4.2 — Guhatthaka Sutta: Kinh Về Thân Giam Trong Hang Động

Thuyết Pháp Với Giọng Ca (song ngữ)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 164)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 77)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 66)

Luận Giải Kinh Căn Bản Pháp Môn (Mūlapariyāya Sutta)

Nghi Thức Tụng Niệm Trong Truyền Thống Phật Giáo Nguyên Thủy

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 101)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 40)

Sen Nở Trời Phương Ngoại, Thầy Nhất Hạnh Giảng Kinh Pháp Hoa

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 253)

Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 03)

Tin mới nhận

Phương Thức Niệm Phật Của Phật Giáo Nam Tông Và Bắc Tông

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 20)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 142)

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 1)

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 13)

Niệm Phật Kiếm (Sự Tích Ngài Cưu Ma La Thập)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 234)

Lợi Ích Khi Niệm Phật (Phần 2)

Đọc sách ngàn lần – Tập 6

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 89)

Khóa Tu Phật Thất

Khuyên Người Niệm Phật Tập 3

Thi Kệ Niệm Phật

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 202)

Thư Trả Lời Hộ Niệm

Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 64)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 107)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 153)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 302)

Tuệ Quán Nẻo Về Chân Như

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.