PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Kinh Khemaka: Ưng Vô Sở Trụ

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

KINH KHEMAKA: ƯNG VÔ SỞ TRỤ
Nguyên Giác

 

Kinh SachPhật Giáo là đạo giải thoát, vượt bờ sinh tử, xa lìa muôn kiếp mê lầm bể khổ. Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si. Và ngài nói, chìa khóa xa lìa phiền não là tam học: giới định huệ. Như thế, cả phiền não và xa lìa phiền não đều là tâm. Ngắn gọn, Phật Giáo là pháp tu tâm.

Câu hỏi nơi đây là, tu tâm như thế nào? Kinh Phật đã kể ra nhiều trường hợp, cho thấy có nhiều lối vào đạo. Trong đó, có ít nhất hai kinh ghi cụ thể là “giáo pháp ngắn gọn” (Dhamma in brief) chỉ đơn giản là:

Trong cái nhìn, chỉ là cái được nhìn; trong cái nghe, chỉ là cái được nghe…

Cả hai kinh ngắn gọn đều không bàn gì khác, không bảo phải tu chỉ, không bảo phải tu quán, chỉ nói hãy “sống cái như thị” (chớ có ưa hay ghét, chớ có thêm hay bớt). Đó là Kinh Bahiya (1) và Kinh Malunkyaputta (2). Đặc biệt, Kinh Bahiya cho thấy du sĩ ngoại đạo Bahiya nghe lời Đức Phật dạy xong, và giây phút sau đã đắc quả A La Hán mà không cần tới ngồi xuống, không cần hít thở chỉ với quán.

Có nghĩa là, tự trong cái thấy, cái nghe đã có sẵn giới định huệ. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn đã ghi lời ngài Huệ Năng rằng đó là tự tánh giới, tự tánh định, tự tánh huệ.

Trong Thiền sử Việt Nam cũng có lời dạy như thế. Thiền sư Thích Thanh Từ thường trích dẫn bài thơ của ngài Phước Hậu:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,

Học hành không thiếu cũng không dư,

Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,

Chỉ nhớ trên đầu một chữ “Như”… (3)

Chữ “Như” trong thơ của ngài Phước Hậu chính là Kinh Bahiya, là Kinh Malunkyaputta. Lối vào đạo này là cửa tâm, là không có cửa để vào, vì tức khắc các pháp đã sẵn đủ.

*

Có một cách tiếp cận khác, từ Kinh Kim Cang, còn gọi là Kinh Kim Cương. Đặc biệt, Kinh Kim Cang có nhiều liên hệ tới văn học Việt Nam. Vì lý do nào, Kinh Kim Cang được giới trí thức, văn nghệ sĩ VN ưa thích? Không rõ. Phải chăng lời dạy “không nên trụ vào bất kỳ sắc thanh hương vị xúc pháp nào”… là thích nghi nhất, vì giới trí thức, văn nghệ sĩ vốn rất mực nhạy cảm với sắc thanh hương vị xúc pháp, vì đó là duyên để sáng tác văn học? Không rõ.

Câu chuyện nổi bật là thi hào Nguyễn Du trong thời gian đi sứ bên Trung Hoa đầu thế kỷ thứ 19, khi hành hương Phân Kinh Thạch Đài, nhìn thấy cảnh sau ngàn năm hoang phế, đã làm bài thơ “Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài,” trorng đó có lời tâm sự:

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,

Kỳ trung áo chỉ đa bất minh

Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ,

Chung tri: vô tự thị chân kinh.

Dịch  nghĩa:

Ta đọc kinh Kim Cương hơn ngàn lần

Ý nghĩa uyên áo trong kinh, phần nhiều không hiểu

Tới khi đến dưới đài Phân Kinh này,

Mới biết rằng kinh không chữ mới thật là chân kinh…

Hay như, Thầy Tuệ Sỹ, trong bài viết tựa đề “Ý Nghĩa Đề Kinh Kim Cang” đăng trên tập san Pháp Luân 58, ghi nhận về sức mạnh của kinh này:

“Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, Kinh Kim cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi, và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.”

Trong khi đó, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, trong “Gươm Báu Trao Tay,” đã kể về kinh nghiệm với Kinh Kim Cang, trích:

“Một lần nọ, tôi hỏi một vị Sư “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” có phải là câu hay nhất trong kinh Kim Cang không thì Sư nhẹ nhàng bảo không, trong kinh Kim Cang câu nào cũng hay cả! Quả thật dần dần tôi cũng thấy ra kinh Kim Cang chỗ nào cũng hay cả, mà hình như ngày càng hay hơn, nhất là khi… áp dụng vào đời sống hằng ngày, đúng như Edward Conze nói. Cách viết, cách trình bày từng chữ từng câu trong kinh Kim Cang chặt chẽ, thuyết phục và nói chung là… hấp dẫn! Tôi bị cuốn hút vào Kim Cang cũng như trước kia với Tâm Kinh…” (4)

Như thế, Kinh Kim Cương như dường đã gắn liền với một phần của văn học dân tộc…

*

Kinh Kim Cương khá dài, chứa đựng nhiều lời dạy. Nơi đây, chúng ta chỉ dẫn ra một cửa vào đạo thường được nói tới: ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.

Kinh nói, chớ nên trụ vào sắc thanh hương vị xúc pháp mà sanh tâm. Hãy giữ tâm không chỗ trụ. Tức là, chớ có trụ tâm vào bất kỳ pháp nào, như thế diệu tâm mới hiển lộ.

Chữ “sanh” đây nên hiểu là “hiển lộ” — và không nên nghĩ là cái gì sanh ra cái gì. Cũng như gương sáng, không sanh ra cảnh gì hết, nhưng chỉ nên nói là cảnh hiển lộ ra, khi bụi không còn.

Một phiên bản rất ngắn của Kinh Kim Cương, chỉ dài chưa tới một trang, là Bát Nhã Tâm Kinh. Trong đó dạy rằng hãy quán sát năm uẩn – sắc thọ tưởng hành thức – là không, nhưng đây không phải hư vô luận, vì Tâm Kinh nói rằng quán như thế mới “viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.”

Tới đây, chúng ta thử nêu một câu hỏi: Kinh Kim Cương thường được Phật Giáo Bắc Tông xem như giáo pháp ngắn gọn cho Thiền Tông. Quý thầy thường kể rằng, khi ngài Huệ Năng nghe ngài Hoằng Nhẫn giảng tới câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” là hốt nhiên hiểu hết, không còn thắc mắc gì về Kinh Phật nữa. Nhưng lời dạy này khác hẳn lời dạy chữ “Như” ghi lại trong Kinh Bahiya.

Có nơi nào trong Tạng Pali nói rằng “ưng vô sở trụ” là pháp ngắn gọn để qua bờ sinh tử hay không? Kinh Khemaka Sutta có kể tương tự như thế. Rằng “bất kỳ uần nào trong sắc thọ tưởng hành thức không nên được nhìn như ‘cái tôi’ hay liên hệ tới ‘cái tôi’…” Nghe một môn đệ của Đức Phật nói xong như thế, khoảng 60 vị tỳ kheo lập tức đắc thánh quả — theo các dịch giả Anh dịch và bản chú giải Tích Lan, tất cả 60 vị tỳ kheo nghe xong là đắc quả A La Hán.

Tóm gọn lại kinh này, bất kỳ uần nào cũng không là ngã (tôi) hay ngã sở (của tôi). Kinh Phật có sức mạnh tuyệt vời như thế. Vừa nghe xong, đắc thánh quả ngay. Khi nói tức khắc, có nghĩa là tự tâm đã sẵn đủ.

Năm uần là quốc độ của sự chấp thủ cái tôi, cái của tôi;  là nơi trú ẩn của chấp giữ “cái tôi” và “cái của tôi”… Trong ngũ uần, có lẽ sắc uẩn có sức lôi cuốn nhất, vì sắc uẩn bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý… và chúng ta ai cũng mắt ưa thấy đẹp, tai ưa nghe du dương…

Kinh Khemaka Sutta có nhiều điểm đặc biệt. Kinh không do Đức Phật thuyết, chỉ do ngài Khemaka trùng tuyên. Lúc đó, ngài Khemaka đã vào quả vị thánh, theo các nhà phân tích, có thể là ở quả vị Bất Lai.

Ngài Piya Tan phân tích, rằng ngay cả một vị thánh (chỉ trừ bậc A La Hán) cũng vẫn còn khái niệm về “cái tôi” nhưng không hề xem có cái tôi nào hết, không hề xem bất kỳ (hay tất cả) các uần (sắc thọ tưởng hành thức)_ hay  bất cứ những gì ngoài đó là “tôi” hay “của tôi”…

Kinh kể rằng các vị sư cao niên đang ngụ ở Ghasita’s Park, gần Kosambi, gửi nhà sư Dasaka tới thăm bệnh nhà sư trưởng lão Khemaka đang ngụ trong một cánh rừng ở Jujube Park. Nhà sư Dasaka đi tới đi lui 4 lần trong một ngày để chuyển lời nhắn giữa nhà sư Khemaka và nhóm 60 vị sư. Như thế, nhà sư Dasaka đi đường dài khoảng 2 yojanas (22.5 km = 14 miles).

Lý do chư tăng không tới thăm ngài Khemaka vì chỗ của ngài Khemaka hẹp, trong khi 60 vị sư quá đông. Cũng không thỉnh ngài Khemaka tới, vì ngài Khemaka đang bệnh nặng. Nhưng ngài Khemaka biết ước mơ trong tâm chư tăng, nên cuối cùng gượng bệnh để tới.

Kinh Khemaka có nói tới hương của hoa. Ngài Bodhi phân tích rằng nhóm 60 vị sư chưa hề đắc quả thánh nào, nên ngộ nhận rằng ngài Khemaka đã đắc quả A La Hán vì được nghe rằng ngài đã rời 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham và sân), nhưng ngài Khemaka cho biết rằng ngài tuy không chấp thủ uần nào là tôi hay của tôi, nhưng dù với thánh vị Bất Lai cũng vẫn còn “mùi hương chủ thể” – mùi hương về cái tôi dựa vào năm uần còn lảng vảng trong kinh nghiệm (Even for the non-returner, an “odor of subjectivity” based on the five aggregates still lingers over the experience).

Trong lời bình của Trưởng Lão Thi Kệ, cho biết nhà sư Dasaka trong một kiếp trước đã ra lệnh cho một vị A La Hán làm một số việc cho nên kiếp này sinh làm nô lệ, sau mới có cơ may xuất gia. Piya Tan ghi chú rằng nhà sư Dasaka bị xem là lười biếng, ưa ngủ. Trưởng Lão Thi Kệ cho biết, Đức Phật từng khiển trách nhà sư Dasaka, và rồi ngài Dasaka tinh tấn và đắc quả A La Hán.

Ghi nhận rằng chỉ trong một ngày liên lạc giữa Đại sư Khemaka và nhóm 60 vị sư, ngài Dasaka đi bộ (hiểu là đi nhanh, có chỗ trong Kinh Khemaka nói là ngài Dasaka chạy) xa tới 22.5 km, nghĩa là ngài đã vượt qua thời kỳ làm biếng. Và khi được đưa vào Trưởng Lão Thi Kệ, có nghĩa là ngài Dasaka đã đắc quả A La Hán, và nhân duyên tuy không được nói minh bạch, nhưng hiểu là từ Kinh Khemaka Sutta, vì ngài Dasaka là một trong nhóm “khoảng 60 nhà sư” tức khắc đắc quả A La Hán cuối bài Kinh này.

Có một chi tiết để ghi nhận: ngay cả một vị đã đắc thánh quả thứ ba, tức quả Bất Lai, vẫn còn phảng phất dư vị khái niệm ‘Tôi là,” và Kinh này dạy rằng hãy chăm chú quan sát tâm, nhìn vào chỗ tập khởi và biến diệt – thế rồi, tự nhiên các chấp thủ “Tôi là” sẽ bị bật hết gốc rễ.

Kinh Khemaka Sutta có nhiều bản Anh dịch, hẳn cũng là vì lời dạy “vô sở trụ” (không trụ vào đâu hết, non-clinging) có sức mạnh rất là độc đáo. Nối kết các bản dịch đó sẽ ghi cuối bài này (5).

*

Sau đây là bản dịch Kinh Khemaka Sutta, chủ yếu dựa theo bản Anh dịch của Đại sư Bodhi.

 

Saṃyutta Nikāya 22
Kinh dạy về các uẩn
89. Khemaka

 

Một hôm, nhiều vị sư cao niên đang ngụ cư ở Kosambi tại Ghosita’s Park. Lúc đó, Đại sư Khemaka đang ngụ cư ở Jujube Tree Park, bệnh nặng, đau đớn, suy kiệt.

Rồi, vào buổi chiều, các vị sư cao niên rời các nơi ẩn cư, nói với Đại sư Dasaka rằng: “Bạn hiền Dasaka ơi, hãy tới Đại sư Khemaka và nói với sư: ‘Các sư cao niên nói với hiền hữu Khemaka rằng: Chúng tôi hy vọng rằng sư sẽ khỏe lại, đỡ hơn. Chúng tôi hy vọng rằng cảm thọ đau đớn của sư giảm bớt và không tăng, và rằng thọ giảm đau đó sẽ được nhận ra.’”

“Xin vâng, quý bạn hiền.” Đại sư Dasaka đáp, và đi tới gặp Đại sư Khemaka và nói lời nhắc.

Đại sư Khemaka trả lời: “Quý bạn ơi, tôi không thấy đỡ chút nào. Cảm thọ đau đớn đang tăng mạnh hơn trong tôi, không giảm, và thọ đau tăng này, không phải giảm, được nhận ra (tuệ tri).”

Đại sư Dasaka trở lại các vị sư cao niên, nói lời Đại sư Khemaka đã nói. Các sư cao niên nói với Đại sư Dasaka: “Bạn Dasaka ơi, hãy tới sư Khemaka và nói: ‘Các sư cao niên nói với ngài, hiền hữu Khemaka. Nhóm năm uẩn này ưa làm chấp thủ (subject to clinging), bạn ơi, Đức Phật đã nói như thế; rằng sắc uẩn ưa làm chấp thủ, thọ uẩn ưa làm chấp thủ, tưởng uẩn ưa làm chấp thủ, hành uẩn ưa làm chấp thủ, thức uẩn ưa làm chấp thủ. Đại sư Khemaka có xem bất cứ thứ gì như là ngã  hay ngã sở trong nhóm năm uần ưa làm chấp thủ này không?”

“Vâng, quý bạn hiền,” Đại sư Dasaka trả lời, và tới Đại sư Khemaka và nói lời nhắn.

Đại sư Khemaka trả lời: “Nhóm năm uần này ưa làm chấp thủ đã được Đức Phật nói tới; rằng, sắc uẩn ưa làm chấp thủ… thức uẩn ưa làm chấp thủ. Trong nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ, tôi không xem bất cứ gì là tôi hay của tôi.”

Rồi Đại sư tới các vị sư cao niên và nói lại những lời Đại sư Khemaka nói. Họ trả lời: “Đại sư Dasaka ơi, hãy tới Đại sư Khemaka và nói với ngài: ‘Các sư cao niên nói với hiền huynh Khemaka rằng: huynh ơi, nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ đã  được Đức Phật nói tới; rằng, sắc uẩn ưa làm chấp thủ… thức uẩn ưa làm chấp thủ. Nếu Đại sư không xem bất cứ gì trong nhóm năm uần ưa làm chấp thủ như là ngã hay ngã sở, rời thì ngài là một vị A La Hán, người đã phá hủy mọi phiền não.”

“Xin vâng,” Đại sư Dasaka trả lời, và tới Đại sư Khemaka và nói lại như thế.

Đại sư Khemaka trả lời: “Nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ này đã được Đức Phật nói tới; rằng sắc uẩn ưa làm chấp thủ… thức uẩn ưa làm chấp thủ. Tôi không xem bất cứ gì trong nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ là ngã (tôi) hay ngã sở (của tôi), nhưng tôi chưa là một vị A La Hán, bậc đã phá hủy mọi phiền não. Các bạn ơi, khái niệm ‘Tôi là’ vẫn chưa biến mất trong tôi trong liên hệ tới nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ này, nhưng tôi không xem bất cứ gì trong đó là ‘Đây tôi là.’”

Rồi, Đại sư Dasaka tới các vị sư cao niên, và kể lại những gì Đại sư Khemaka đã nói. Các sư trả lời: “Bạn Dasaka ơi, hãy tới Đại sư Khemaka và nói với ngài: ‘Các sư cao niên nói với ngài, hiền huynh Khemaka: Hiền huynh Khemaka, khi nài nói về cái “Tôi là” – cái gì mà huynh nói về như “Tôi là” chớ? Ngài nói về sắc như “Tôi là,” hay ngài nói về “Tôi là” xa lìa khỏi sắc? Ngài nói về thọ… về tưởng… về hành… về thức như “Tôi là,” hay ngài nói về “Tôi là” xa khỏi thức? Khi huynh nói về cái “Tôi là,” huynh Khemaka ơi, cái gì là cái huynh nói về như là “Tôi là”?”

“Xin vâng,” Đại sư Dasaka  trả lời, và tới Đại sư Khemaka và nói lại như thế.

“Đủ rồi, huynh Dasaka ơi! Tại sao huynh cứ chạy mãi tới lui? Mang gậy của tôi tới nhé, huynh ơi. Tôi sẽ tự tới gặp các sư cao niên.”

Rồi, Đại sư Khemaka, chống gậy, tới gặp các sư cao niên, nói lời chào mưng, và ngồi xuống một bên. Các sư cao niên nói với ngài: “Huynh Khemaka ơi, khi ngài nói về cái ‘Tôi là’… cái gì ngài đang nói về như là ‘Tôi là’?”

“Các huynh ơi, tôi không nói về sắc như ‘Tôi là,’ cũng không nói về ‘Tôi là’ xa lìa khỏi sắc. Tôi không nói về thọ như ‘Tôi là’… cũng không về tưởng như ‘Tôi là’… cũng không nói về hành như ‘Tôi là’… cũng không nói về thức như ‘Tôi là,’ cũng không nói về ‘Tôi là’ xa lìa khỏi thức. Các huynh ơi, mặc dù khái niệm ‘Tôi là’ chưa biến mất trong tôi liên hệ tới năm uẩn này ưa làm chấp thủ, tôi vẫn không xem bất cứ thứ gì trong chúng như ‘Đây tôi là.’

“Các huynh ơi, hãy giả dụ như có mùi hương của một bông sen xanh, đỏ hay trắng. Có ai sẽ nói là đúng nếu người đó sẽ nói, “Mùi hương là thuộc vào các cánh hoa,’ hay ‘Mùi hương là thuộc vào cọng hoa,’ hay ‘Mùi hương là thuộc vào nhụy hoa’?”

“Không phải, huynh ơi.”

“Và như thế nào, các huynh ơi, để trả lời nếu muốn trả lời cho đúng?”

“Huynh ơi, trả lời cho đúng thì  nên là: “Mùi hương là từ hoa.”

“Quý huynh ơi, cũng như thế, tôi không nói về sắc như ‘Tôi là,’ không nói về ‘Tôi là’ xa lìa khỏi sắc. Tôi không nói về thọ như ‘Tôi là’… không về tưởng như ‘Tôi là’… không nói về hành như ‘Tôi là’… không nói về thức như ‘Tôi là,’ không nói về ‘Tôi là’ xa lìa khỏi thức. Quý huynh ơi, mặc dù khái niệm ‘Tôi là’ chưa biến mất trong tôi trong liuên hệ tới năm uẩn này ưa chấp thủ, tôi vẫn không xem bất cứ gì trong chúng như là ‘Đây tôi là.’

“Quý huynh ơi, mặc dù một vị thánh đệ tử đã rời bỏ năm hạ phần kiết sử, dù vậy trong liên hệ tới năm uẩn ưa làm chấp thủ, vẫn còn lảng vảng trong vị đó khái niệm sót lại ‘Tôi là,’ một thèm muốn ‘Tôi là,’ một khuynh hướng ẩn tàng ‘Tôi là’ mà chưa bị nhổ hết gốc rễ. Có lúc nào sau đó, vị này chú tâm quan sát sự tập khởi và biến diệt trong nhóm năm uần ưa chấp thủ: “Sắc như thế, khởi lên như thế, biến diệt như thế; thọ như thế… tưởng như thế… hành như thế… thức như thế, khởi lên như thế, biến diệt như thế.’ Khi vị này chú tâm quan sát sự tập khởi và biến diệt trong năm uẩn ưa chấp thủ, khái niệm sót lại của ‘Tôi là,’ cái tham muốn ‘Tôi là,’ cái khuynh hướng ẩn tàng ‘Tôi là’ trước đó chưa bị nhổ hết gốc rễ — lúc đó sẽ bị nhổ bật gốc rễ.

“Các huynh ơi, hãy giả như một tấm vải dính đất và có vết bẩn rồi, và chủ tấm vải đưa cho người thợ giặt. Người thợ giặt sẽ chà sát vải bằng muối giặt, nước tẩy, hay phân bò, và xả bằng nước sạch. Mặc dù rằng tấm vải sạch và tinh tuyền lại, nó sẽ vẫn còn phảng phất mùi sót lại của muối giặt, nước tẩy hay phân bò trước đó chưa biến mất đi. Người thợ giặt sẽ trao vải lại cho người chủ. Người chủ sẽ cất vào một hòm ủ mùi hương, và mùi sót lại của muối giặt, nước tẩy hay phân bò trước đó chưa biến mất rồi sẽ biến mất.

“Quý huynh ơi, cũng như thế, mặc dù một thánh đệ tử đã rời bỏ năm hạ phần kiết sử, nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ vẫn còn phảng phất trong vị đó khái niệm còn sót lại ‘Tôi là,’ một niềm tham muốn ‘Tôi là,’ một khuynh hướng ẩn tàng ‘Tôi là’ mà vẫn chưa bị nhổ bật gốc rễ… Khi vị này chú tâm quan sát sự tập khởi và biến diệt trong năm uẩn ưa làm chấp thủ, khái niệm sót lại ‘Tôi là,’ niềm tham muốn ‘Tôi là,’ khuynh hướng ẩn tàng ‘Tôi là’ trước đó chưa bị nhổ bật gốc rễ — lúc đó sẽ bị nhổ bật gốc rễ.”

Khi nghe thế, các vị sư cao niên nói với Đại sư Khemaka: “Chúng tôi không nêu câu hỏi để làm bận tới Đại sư Khemaka, nhưng chúng tôi nghĩ rằng Đại sư Khemaka có khả năng giải thích, giảng dạy, tuyên thuyết, thiết lập, làm sáng tỏ, phân tích và làm dễ hiểu lời dạy của Đức Phật một cách chi tiết. Và Đại sư Khemaka đã giải thích, giảng dạy, tuyên thuyết, thiết lập, làm sáng tỏ, phân tích và làm dễ hiểu lời dạy của Đức Phật một cách chi tiết.”

Đó là những gì Đại sư Khemaka đã nói. Các vị sư cao niên vui mừng, hạnh phúc khi nghe Đại sư Khemaka tuyên thuyết. Và trong khi kinh này được tuyên thuyết, tâm của 60 vị sư cao niên, và của Đại sư Khemaka được giải thoát toàn triệt nhờ tâm không chỗ trụ, tâm không bám dính.

 

GHI CHÚ:

(1) Kinh Bahiya. Xem : http://thuvienhoasen.org/a14273/bai-phap-khan-cap-bahiya-sutta 

(2) Kinh Malunkyaputta. Xem: http://thuvienhoasen.org/a23653/kinh-malunkyaputta-va-giao-phap-ngan-gon

(3) Tiến Thẳng Vào Thiền Tông. Xem:

http://www.thuong-chieu.org/uni/KinhSachThiKe/Thien/TienThangVaoThienTong/Html/05.htm

(4) Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm. Xem: http://thuvienhoasen.org/a17122/ung-vo-so-tru-nhi-sanh-ky-tam  

(5) Các bản Anh dịch Kinh Khemaka Sutta.

Bản Thanissaro Bhikkhu:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.089.than.html

Bản Maurice O’Connell Walshe:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.089x.wlsh.html

Bản Bhikkhu Bodhi:

https://suttacentral.net/en/sn22.89

Bản Piya Tan:

http://dharmafarer.org/wordpress/wp-content/uploads/2009/12/14.13-Khemaka-S-s22.89-piya.pdf

Tin bài có liên quan

Vượt Thoát Sợ Hãi

Vì sao trong giới luật, Phật không cho đệ tử của ngài ca hát và nghe ca hát?

Ước Hẹn Với Sự Sống

Ước hẹn với sự sống

Tra Cứu Kinh Trường Bộ

Tra cứu kinh Trường Bộ

Tiếng Gầm Sư Tử Của Tôn Giả Xá Lợi Phất, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Thuyết Pháp Với Giọng Ca (Song Ngữ)

Thuyết Pháp Với Giọng Ca (song ngữ)

Thí Dụ Về Em Bé, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Thí Dụ Về Cây Đàn, Kinh Tăng Chi Bộ

Thí Dụ Về Biển Cả, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Thế Nào Là Tạng Kinh?

Load More

Discussion about this post

Làm Thế Nào Viruscorona Giúp Chúng Ta Hiểu Được Quan Điểm Phật Giáo Về Sự Tương Quan Lẫn Nhau

Làm thế nào viruscorona giúp chúng ta hiểu được quan điểm Phật giáo về sự tương quan lẫn nhau

LÀM THẾ NÀO VIRUSCORONA GIÚP CHÚNG TA HIỂU ĐƯỢC QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO VỀ SỰ TƯƠNG QUAN LẪN NHAU(How the...

Phỉ Báng Bậc Thánh

PHỈ BÁNG BẬC THÁNH Toàn Không 1)- TỲ KHEO CÙ BA LY: Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp...

Bàn Về Luân Hồi Và Số Mệnh

Bàn về luân hồi và số mệnh

Không bao giờ Phật giáo chủ trương sự đầu thai với ý nghĩa: “Linh hồn bỏ xác thân này để...

Nghiên Cứu So Sánh Học Thuyết Về Nghiệp

NGHIÊN CỨU SO SÁNH HỌC THUYẾT VỀ NGHIỆP Trong Bà La Môn Giáo, Kỳ Na Giáo, và Phật GiáoThích Nguyên...

Hãy Đọc Các Dòng Chữ Trong Tâm Thức Mình

Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình

HÃY ĐỌC CÁC DÒNG CHỮ TRONG TÂM THỨC MÌNHReading the Mind / Savoir lire notre esprit Upasika  Kee Nanayon |...

Thiền Tập Trong Bộn Bề Công Việc

Thiền tập trong bộn bề công việc

Phật tử Linh Hạnh hỏi: Người Phật tử tại gia sẽ thiền tập như thế nào trong bộn bề công...

Lời vàng xưa còn đó

Chúng ta lại thắc mắc: “Những người như thế có theo tôn giáo nào không?”. Lại phải trở về câu...

Thông Điệp Của Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc Chúc Mừng Quốc Tế Lễ Vesak Pl. 2564

Thông Điệp Của Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc Chúc Mừng Quốc Tế Lễ Vesak Pl. 2564

THÔNG ĐIỆP CỦA TỔNG THƯ KÝ LIÊN HỢP QUỐC CHÚC MỪNG QUỐC TẾ LỄ VESAK PL. 2564   “Vesak”, ngày...

Vài Nét Về Ngụy Kinh Và Thử Lý Giải Tại Sao Bản Ngụy Kinh Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Được Lưu Hành Lâu Dài Và Sâu Rộng?

Vài nét về ngụy kinh và thử lý giải tại sao bản ngụy kinh Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng được lưu hành lâu dài và sâu rộng?

VÀI NÉT VỀ NGỤY KINH VÀ THỬ LÝ GIẢI TẠI SAO BẢN NGỤY KINH PHẬT THUYẾT  ĐẠI BÁO PHỤ MẪU...

Chút Lòng Thơ Thới

Chút lòng thơ thới

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Ở lại bên này sông

Ở LẠI BÊN NÀY SÔNG Nhất Tâm - Quyết Vãng Sanh   Ông ta tên là Nguyễn Văn Tân. Một...

Mùa Xuân Hoa Và Thiếu Nữ

Mùa xuân hoa và thiếu nữ

Mùa xuân thường trụ trong tà áo xanh – Lê Nghị Trên bìa sách báo Việt  Nam xuất bản  trong dịp...

Một Thông Bạch Lạ Đời

Một thông bạch lạ đời

MỘT THÔNG BẠCH LẠ ĐỜI !!! Minh Mẫn Thông Bạch của Đạo Tràng (Chùa) Viên Giác ... “Trường hợp những...

Làm Sao Khi Chét – Vấn Có Nụ Cười Trên Môi ?

Làm Sao Khi Chét – Vấn Có Nụ Cười Trên Môi ?

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Gia Đình, Xã Hội Và Tâm Linh – Ứng Dụng Kinh Thiện Sanh Trong Cuộc Sống

Gia đình, xã hội và tâm linh – Ứng dụng kinh Thiện Sanh trong cuộc sống

Kinh Thiện Sanh là cẩm nang nhân bản cho người tại gia, thể hiện mối quan tâm của đức Phật...

Làm thế nào viruscorona giúp chúng ta hiểu được quan điểm Phật giáo về sự tương quan lẫn nhau

Phỉ Báng Bậc Thánh

Bàn về luân hồi và số mệnh

Nghiên Cứu So Sánh Học Thuyết Về Nghiệp

Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình

Thiền tập trong bộn bề công việc

Lời vàng xưa còn đó

Thông Điệp Của Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc Chúc Mừng Quốc Tế Lễ Vesak Pl. 2564

Vài nét về ngụy kinh và thử lý giải tại sao bản ngụy kinh Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng được lưu hành lâu dài và sâu rộng?

Chút lòng thơ thới

Ở lại bên này sông

Mùa xuân hoa và thiếu nữ

Một thông bạch lạ đời

Làm Sao Khi Chét – Vấn Có Nụ Cười Trên Môi ?

Gia đình, xã hội và tâm linh – Ứng dụng kinh Thiện Sanh trong cuộc sống

Tin mới nhận

Đức Phật dạy về hiếu đạo

3 sự kiện đặc biệt khi Đức Phật đản sinh

Lời dạy của Ðức Phật về dấu ấn ‘Thành đạo’

Lời Phật dạy: Khen chớ vội mừng, bị chê chớ vội buồn

Phật dạy: Chơn tâm phi tất cả tướng

Lời Phật dạy về nhân duyên

Lời Phật dạy về cách nuôi con cái nên người

Bởi đọc kinh mà không hiểu kinh

Đức Phật dạy thế nào là người đàn ông lý tưởng?

Giá trị bốn chân lý vĩ đại của Phật giáo: Tứ Diệu Đế

Chùa Long Thành Ấp: Mỹ Hòa- Xã Mỹ Hạnh Trung- Huyện Cai Lậy- Tỉnh Tiền Giang

Nhân duyên Đức Phật quở trách 2 vị đệ tử đệ nhất thần thông

Tại sao tay đức Phật chạm đất?

Chùa Vĩnh Phúc an vị tôn tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

Đức Phật và lời nguyện độ vị đệ tử cuối cùng trong nhiều kiếp

Cảm Nhận Về Đại Lễ Tri Ân Tưởng Niệm 50 Năm

LỄ KÍNH CHƯ PHẬT – TÔN KÍNH ĐỐI VỚI CHÚNG SANH KHÔNG ĐỒNG KHÔNG GIAN DUY THỨ (tập 3)

Phật dạy: Khéo chăm dưỡng người bệnh

Tâm Thư của Chùa Sắc Tứ Kim Sơn

Bốn nỗi khổ tinh thần theo lời Phật dạy

Tin mới nhận

Luật nhân quả có bất công hay không?

Phương tiện

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 2)

Sự xuất hiện phi thường của Đức Phật trong lịch sử nhân loại

Giải Nghi Về Nhân Quả – Thầy Thích Thanh Từ

Giải trừ khổ đau, ngược đãi

Nẻo Vào Thiền Học

Thống Kê Tín Đồ Tôn Giáo: Những Con Số Biết Nói – Thích Thanh Thắng

Tất cả âm thanh đều là tiếng thuyết pháp

Kinh Dhammika

Tìm Pháp Ở Đâu?

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 61)

Nhiều giáo thuyết, nhiều đường tu

Tìm Hiểu Về Khái Niệm Công Bình Của Amartya Sen Qua Tác Phẩm The Idea Of Justice Đỗ Kim Thêm

Giới Thiệu Pháp Thiền Nguyên Thủy Của Đức Phật

Kinh Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải

BẢN KINH PHỔ MÔN VIẾT TRÊN GIẤY LỚN NHẤT VIỆT NAM

Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng – Pháp Sư Thánh Nghiêm – Việt Dịch: Thích Tâm Trí

Ni Giới Việt Nam Ngày Nay – Thích Nữ Hương Nhũ

Bản Chất Cao Quý (Minh Mẫn)

Tin mới nhận

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 86)

Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya)

Ý Nghĩa Đề Kinh Kim Cang

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 42)

423 lời vàng của Đức Phật trong Kinh Pháp cú

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 03)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 50)

Kinh Bách Dụ: Ăn nửa cái bánh

Kinh Bách Dụ: Nói dối ngựa đã chết

Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật

Kinh Trường Bộ Thi Hóa

Suy Ngẫm Nhỏ Từ Một Bài Tựa Kinh Lăng Già

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 18)

Luận Về Pháp Hoa Kinh – An Lạc Hạnh Nghĩa

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 105)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 221)

Kinh Bahiya: Lời Dạy Cho Ông Bāhiya: Trong Cái Thấy Chỉ Là Cái Thấy (song ngữ)

Thí Dụ Về Biển Cả, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 84)

Tin mới nhận

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 35)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 246)

Đức Phật A Di Đà Và Cõi Tịnh Độ Cực Lạc

Lược Giảng Giáo Nghĩa Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 188)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 243)

Đường về cực lạc tịnh độ nhân gian

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 6)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 172)

Hoàn Tướng Hồi Hướng

Tịnh Độ Là Lòng Trong Sạch, Di Đà Là Tính Sáng Soi

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 111)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 292)

PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO KINH (Tập 2)

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 (Tập 7)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 280)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 115)

Sanh Tâm Vô Trú

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 117)

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 31)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.