– Có điều lạ là không biết tại sao người xưa lại nói Tham Thiền và Hành Thiền để rồi vô tình người sau hiểu lầm mà biến thành “Tham lam thiền” và “Hành hạ thiền”.
Chúng ta cần biết mục đích thật sự của Đạo Phật là gì, Đạo Phật không như những Tôn giáo khác hay một số phương pháp hành trì khác.
Đa số hành trì với mục đích trở thành hay đạt được lý tưởng sở cầu gì đó. Thí dụ muốn Tiểu ngã thành Đại ngã, muốn đến Thiên Đàng, muốn đắc Định, đắc Tuệ này Tuệ kia hoặc muốn thành Phật, thành Bồ Tát, muốn tới cõi Cực Lạc, Niết-bàn v.v… Nhưng thật ra Thiền là đốt cháy tất cả mọi lý tưởng ảo đó để đối mặt với hiện thực. Thiền dịch từ vài thuật ngữ, như từ “Jhāna” nghĩa là sự đốt cháy, động từ “Jhāyati” là thiêu đốt, đốt cháy hoặc thắp sáng. Còn từ “bhāvanā” nhiều người dịch là tu tập hay phát triển nhưng nên dịch là phát huy thì đúng hơn, bởi vì phát huy có nghĩa là đã sáng sẵn rồi chỉ cần sử dụng cái sáng đó ra thôi, còn tu tập thì có tính rèn luyện, chỉnh sửa, và phát triển lại là ít làm thành nhiều, nhưng cái tâm chói sáng (pabhassaracitta) mà đức Phật dạy thì không tăng không giảm.
Ngôn ngữ Thiền rất bí hiểm, có nhiều dịch giả không biết gì Thiền nhưng giỏi tiếng Anh hoặc một ngôn ngữ nào đó rồi dịch sách Thiền, nên khi dịch vô tình đã phản lại Thiền, cho nên Thiền là không thể dịch, mà chỉ nói thẳng ra từ cái cái thấy – thực chứng. Trong đạo Phật cái chính là thấy ra sự thật mà dẫn đầu là Chánh kiến. Chánh kiến có nghĩa là thấy sự thật, thấy mọi sự mọi vật đúng như tánh tướng thể dụng của nó. Trong khi những tôn giáo khác đề cao những yếu tố phụ như đắc Định, đạt Thần thông, được an lạc v.v… nói chung là họ luôn nỗ lực rèn luyện thành sở đắc gì đó mà họ vọng cầu để chứng tỏ tài năng của bản ngã mà thôi!
Đạo Phật chính yếu là thấy ra Sự Thật, nhưng Sự Thật vốn đầy đủ nơi mỗi người, và ở khắp mọi nơi, đặc biệt là đầy đủ nơi chính mình nên đức Phật dạy chỉ cần nhìn lại (Ehipassiko) thực tại hiện tiền (opanayiko) thì thấy ngay (sandiṭṭhiko) không trải qua thời gian (akāliko) mà người trí liền tự chứng (paccattaṃ veditabbo viññūhi). Nên Thiền Tông nói “thấy thì thấy ngay, đắn đo suy nghĩ là sai” nghĩa là thấy thì thấy trực tiếp không qua tưởng là, nghĩ là, cho là… của lý trí vọng thức. Chánh kiến là trực nhận sự sinh diệt của mọi hiện tượng thân thọ tâm pháp.
Thiền không
cần phải tìm kiếm, chỉ ngay đây mà thấy. Cái gì thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm được đều là thực kiện. Thực kiện là
sự thật, chỉ có
ảo tưởng mới biến
sự thật thành ảo mà thôi, còn
sự thật vẫn
sự thật như nó đang là. Từ “bổn lai”, “như thị”, “hiện hữu” đều chỉ “cái đang đây” hay “cái vốn như nó đang là”.
Thí dụ “
bổn lai vô nhất vật” tức cái đang như thế là như thế, không thể cho nó là gì cả. Tưởng là, cho là chỉ vẽ rắn thêm chân nên đều là ảo! Cũng giống như
đức Phật tự gọi là “Như Lai” để chỉ “cái đang đây” thay vì nói Ta, Tôi theo
tục đế.
“Cái đang là” là chân lý, là sự thật, là mọi sự mọi vật như chính nó, có thể thấy ngay nơi thực tại thân thọ tâm pháp, không phải là lý tưởng cao xa huyễn hoặc. Do đó đức Phật dạy:
Tự mình nương chính mình,
Không nương nhờ ai khác,
Trở về tánh thuần tịnh,
Là chỗ nương hy hữu”.
Hầu hết các Tôn giáo lại nương tựa vào tha lực ở bên ngoài. Nhưng thật ra tha lực và tự lực không phải là hai. vì nếu nói tha lực và tự lực tức nói có ngã có nhân, đưa đến quan niệm tiểu ngã, đại ngã. Chỉ có Sự Thật bao trùm khắp mọi nơi, khi ở trên pháp tướng thì thấy muôn sai ngàn biệt, nhưng khi ở trong pháp tánh thì vạn pháp đồng nhất – bất nhị – không có tự lực, tha lực gì cả. Nói tu phải tự lực là không đúng, vì tự lực là bản ngã, nhưng nói phải nhờ tha lực cũng sai vì như thế bản ngã càng được tăng cường. Nói tự nói tha nhưng cũng đều là Pháp cho nên không có gì là tự mà cũng không có gì là tha cả.
Ví như nước ở đại dương, bên này do duyên khởi lên một cơn sóng, bên kia do duyên cũng khởi lên một cơn sóng, rồi sóng này cho mình là “tự” và thấy sóng kia là “tha”, nên mới cho là có tự lực và tha lực. Nếu thấy tất cả là nước thì không còn tự hay tha gì nữa cả. Tự tha chỉ là ảo tưởng. Cho nên, việc đầu tiên và cuối cùng của người tu là thấy Pháp – thấy Sự Thật (tánh, tướng, thể, dụng) như nó đang là mà thôi. Hay như đức Phật dạy rất giản dị: trọn vẹn rõ biết khi đi, khi ngồi, khi thở, khi uống, khi ăn v.v… soi sáng thực tại đang là chính là Thiền.
Khi đi không tự rõ biết tức Vô Minh, khi đi tự rõ biết tức Minh. Thiền chỉ là soi sáng lại thực tại thân thọ tâm pháp để thấy ra Sự Thật, đó gọi là chánh kiến. Có chánh kiến thì sẽ có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Nhiều người cố tu làm sao để suy nghĩ, nói năng, hành động cho đúng, cố đạt được thiền định cho cao v.v… rồi đặt ra phương pháp, khuôn mẫu này nọ để hành trì nhưng họ không thấy rằng phải có chánh kiến (thấy biết đúng) mới có hành vi thân khẩu (ngữ, nhiệp, mạng) và tâm (tấn, niệm, định) tốt được. Nếu nhận thức không đúng mà cố làm cho tốt thì cái gọi là tốt đó cũng chỉ là sai xấu mà không hay.
Thiền có rất nhiều định nghĩa, không có định nghĩa nào nhất định mà chỉ tùy vào căn cơ trình độ người hành khác nhau mà nói. Có thể nói Thiền là đọc lại cuốn sách chính mình hay chính mình là cuốn sách mà mỗi người cần phải đọc nó hằng ngày. Đơn giản như các xướng ngôn viên đọc các bản tin từng chữ chạy lên màn hình, hiện ra chữ nào họ đọc chữ đó. Thiền cũng vậy, hãy đọc từng “chữ” – từng sự kiện – diễn ra đang sinh diệt nơi thân như khi đang đi, đứng, ngồi, nằm v.v…, thậm chí Đức Phật còn dạy cả khi đi vệ sinh; nơi tất cả biểu hiện của cảm xúc, cảm giác; nơi trạng thái hoặc thái độ Tâm và nơi sự tương giao hay mối quan hệ với hoàn cảnh xung quanh.
Thái độ tâm có tính chủ động và trạng thái tâm có tính thụ động, khi có một thái độ thì thường kèm theo các trạng thái. Thí dụ như tâm nổi sân là thái độ, liền ngay đó kèm theo các trạng thái tâm như bực bội, bức xúc, nóng nảy, bất an… (chưa kể những trạng thái nơi thân như nhiệt độ tăng, tim đập mạnh, thần kinh căng thẳng… và cảm giác khổ). Những sự kiện diễn biến xảy ra đó đang giúp mình đọc được Sự Thật nơi chính mình mà không cần tìm kiếm đâu xa. Nếu khởi tâm tìm kiếm thì liền đánh mất thời-vị-tính của thực tại, mất đi cái tại đây bây giờ như nó đang là. Đơn giản như cầm ly nước lên, uống, nuốt, để ly nước xuống… như thế nào nước đều trọn vẹn thấy biết rõ ràng minh bạch là Thiền. Toàn bộ đời sống diễn ra nơi mình đều là đối tượng để soi sáng, nếu biết soi sáng lại toàn bộ đời sống ấy, không loại trừ bất cứ điều gì, thì đó chính là Thiền.
Trong thời đức Phật tại thế, khi có người tìm đến vấn Đạo, Phật chỉ ra Sự Thật ngay nơi người đó, người đó liền nhìn lại chính mình và lập tức thấy ra (chứng ngộ). Học cách chỉ thẳng đó của Phật, chúng ta nên thấy ra nguyên lý để mỗi người tự trở về với chính mình hầu có thể tự thấy ra Sự Thật chứ không theo bất cứ phương pháp hay khuôn mẫu nào để phải hành theo. Thiền là giác ngộ ra thực tại thân tâm nên mỗi người mỗi riêng không ai giống ai. Nhưng vì tiện lợi cho nhiều người nên phải định ra thời gian đến chùa hành thiền, nghe giảng, tham vấn. Đó chỉ là học tập để biết thiền là gì thôi. Đến khi thông suốt thiền là gì thì đừng nghĩ rằng chỉ có thiền trong chùa mà cần phải trở về với chính mình để tự trải nghiệm, chiêm nghiệm và chứng nghiệm sự thật trong toàn bộ đời sống ngay đây và bây giờ.
Hỏi: Thưa Thầy, con biết mình có tánh ích kỷ làm sao cho tánh ích kỷ được đổi thưa Thầy?
– Việc thay đổi tính ích kỷ không phải là chính, mà cái chính là thấy ra nó: thấy ra cái tâm ích kỷ và thông suốt được toàn bộ diễn biến của nó như thế nào. Từ sự quan sát thấy được tâm ích kỷ sẽ thấy ra sâu xa hơn, thấy ra nguyên nhân, hậu quả của nó. Nếu chưa thông suốt được tính cách của ích kỷ và nguồn gốc của nó mà muốn loại trừ, tiêu diệt nó thì coi chừng sẽ không bao giờ giác ngộ được sự thật về nó, hay cũng là giác ngộ chính mình.
Ích kỷ có sinh có diệt, có mặt tốt, mặt xấu, có vị ngọt, sự nguy hại, có nguyên nhân, hậu quả như thế nào thì cứ thấy như thế thôi, đừng cố tìm kiếm chủ quan. Thí dụ như đọc câu “Hôm nay tôi đi chợ” khi đọc từng chữ thì chưa biết nói gì, nhưng khi đọc đến chữ cuối tự nhiên hiểu hết cả câu. Cứ đọc thôi, chữ nào xuất hiện thì đọc, đọc hết thì tự nhiên thấy ra toàn bộ sự việc. Nếu không chịu đọc mà muốn dẹp nó đi để đổi qua cái khác thì sẽ không bao giờ thấy ra diễn biến của toàn bộ sự thật.
Đầu tiên là thấy, khi thấy ra thì có thể tùy duyên mà đối trị hay đáp ứng cho đúng tốt thì đâu có sao. Thí dụ như thấy đói nên cần ăn thì không sao, nhưng không thấy đói mà ham ăn thì mới sai xấu. Khi thấy ra thì sẽ biết nó có tiến trình nhân quả của nó, có cái đúng cái sai của nó, cho nên nếu chưa thấy ra mà đã vội thay đổi hay loại bỏ nó đi là thiếu chín chắn. Nên đừng vội kết luận ích kỷ là xấu hay tốt mà phải thấy thái độ đang diễn ra thế nào.
Đúng tốt, sai xấu chỉ thấy được khi nó đang diễn ra thôi. Không có cái đúng cái sai nào có thể
kết luận được, vì cái đúng bây giờ lát nữa có thể sai rồi, như đồng hồ chỉ đúng với giờ
hiện tại nhưng sau đó là giờ khác rồi. Đừng vội
kết luận điều gì mà chỉ nên
quán triệt trình tự diễn biến của nó:
thông suốt được sự
sinh diệt,
nhân quả,
lợi hại của
sự kiện thì mới thấy ra được lẽ thật.
Mục đích chính của Đạo Phật là thấy ra Sự Thật. Trong khi hầu hết các Tôn giáo khác thì mục đích là làm sao hết ích kỷ, làm sao tâm được định, làm sao đạt được cái này cái kia nên vẫn còn loay hoay trong Tam Giới. Tuy mục đích của Đạo Phật là chỉ thấy ra Sự Thật nhưng một khi đã thấy ra thì mọi việc sẽ tự chuyển hoá dễ dàng. Nếu chưa giác ngộ mà muốn giải thoát là sai ngay từ đầu.
Trong
Phật giáo có hai từ “Giác ngộ và giải thoát” nhưng phần lớn người tu chỉ muốn
giải thoát thôi chứ không muốn
giác ngộ. Nhưng
nếu không giác ngộ thì không thể nào
giải thoát được.
Nếu không giác ngộ mà cố thoát ra cái này thì liền bị
ràng buộc vào cái khác thôi, chỉ có
giác ngộ mới thực sự
hoàn toàn giải thoát.
Hỏi: Thưa Thầy, nguyên nhân của luân hồi sinh tử là cái ngã. Dẫu biết mình còn ngã nhưng cứ thấy hoài mà không hết, kính Thầy giúp cho con cách nào để hết ngã?
–
Vấn đề không phải là hết ngã hay không. Một khi đã thấy ra cái ngã thật sự là gì rồi thì không
cần phải cố loại trừ nó vì nó đâu có thật. Nhưng do chưa thực sự thấy ra cái ngã có thật hay không nên nó vẫn còn đó trong
tư tưởng,
vì vậy chỉ cần thấy ra cái ngã một cách
minh bạch thôi, còn hết hay không hết là việc của pháp, không phải việc của mình. Chúa có câu
nói thật hay “
Con cứ lo việc của Chúa còn việc của con để Chúa lo“. Nói theo Thiền thì có nghĩa là:
Con cứ sống trọn vẹn tỉnh thức với Pháp, còn chuyện cái ngã đã có Pháp lo. Sống
trọn vẹn tỉnh thức với
pháp chính là
thường tinh tấn
chánh niệm tỉnh giác để thấy rõ thân thọ
tâm pháp thì sẽ không còn cái ngã
ảo tưởng.
Ví dụ, trong nhà bếp có đủ thứ gia vị như chanh, đường, muối, ớt v.v… người không biết rõ tính chất các gia vị đó nên nấu ăn nêm muối quá mặn, hoặc thêm chanh quá chua v.v… ăn không được rồi cho là do muối, do chanh nên muốn loại bỏ hết đi. Y như anh chàng miền Thượng nọ (dân tộc miền núi) khi về đồng bằng trao đổi hàng hoá, họ không có muối, nên khi ăn chút muối với cơm thấy ngon quá, rồi đổ cả chén muối vào cơm thì không còn ăn được nữa. Vấn đề là do không thấy biết đúng bản chất của muối chứ không phải loại bỏ muối đi.
Thiền theo cách tu luyện pháp này bỏ pháp kia cũng vậy, cứ điều gì cho là tốt với mình thì cố mà tu luyện cho bằng được, điều gì cho là xấu với mình thì muốn dẹp bỏ đi cho xong rồi tưởng đó là đã giải thoát thì cực kỳ sai lầm. Tóm lại do không thấy biết rõ ràng nên mới sinh ra cái ngã ảo tưởng mà thôi.
Như chỉ cần thấy ra tánh, tướng, thể, dụng của các thực phẩm và gia vị thì sẽ nấu được bữa cơm thơm ngon và bổ dưỡng, cũng vậy giải thoát không phải là loại bỏ điều này, sở đắc điều kia mà do thấy biết sự thật thì liền giải thoát khỏi si mê lầm lạc trong nhận thức và hành vi.
Thiền Tứ Niệm Xứ là đọc lại cuốn kinh thân thọ tâm pháp để thấy ra toàn bộ sự thật nơi chính mình. Đơn giản như tay đưa lên, tay để xuống đều biết rõ như thế này thôi cũng đủ để ngay đây thấy được tâm, tâm sở, sắc và Niết-bàn rồi. Cái Thấy biết như chân như thật là Tuệ tri, là Đạo Đế nên ngay đó thấy Diệt Đế tức là Niết-bàn. Khi tay đưa lên để xuống không có Tập Đế, không có Khổ Đế tức là Niết-bàn, là Vô Ngã. Lúc đó không còn phân vân hết ngã hay không nữa, vì đã thực chứng bản chất thật của tất cả pháp là Vô Ngã.
Trong Vi Tiếu có viết câu chuyện về “Niết-bàn” như sau:
“Một thiền sinh tự cho mình đã suốt thông Tam Tạng, chỉ còn tinh tấn hành trí là sẽ đạt được Niết-bàn. Nhưng anh hành đến sốt ruột cũng chưa thấy Niết-bàn đâu.
Anh bèn đến cầu kiến Sư:
– Lý sự con đều đã trải qua mà vẫn chưa đạt được Niết-bàn, bây giờ phải làm sao?
Sư nói:
– Niết-bàn là tịch tịnh (santi), là nguội lạnh (sīta) mà ngươi nôn nóng như thế làm sao đạt được?“
Đạo Phật đặc biệt không giống các Tôn giáo khác ở chỗ không rèn luyện để trở thành cái gì cả, mà chỉ thấy ra sự thật mà sự thật vốn đã hoàn hảo từng sát na, từng milimét rồi!
Discussion about this post