PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Thiền Là Gì ?

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Nguyên Đăng

Suốt bốn mươi lăm năm
đức Phật chỉ thuyết giảng hai điều: (1) Khổ và (2) con đường đưa đến sự diệt
Khổ
. Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề
khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh mà thiền
Phật giáo gọi là samatha (thiền chỉ).

Định
nghĩa Thiền

Thiền
là môt từ thực sự khó định nghĩa ở bất cứ ngôn ngữ nào và thường gây bối rối
cho độc giả. Vậy nó có nghĩa là gì?

Theo
tự điển tiếng anh Oxford, thiền là sự thực hành suy tư sâu sắc trong tĩnh lặng
để cho tâm của người thực hành an tịnh. Còn tư điển Merriam-Webster thì đưa ra
hai định nghĩa khác nhau: thứ nhất, thiền là ngâm mình trong sự trầm tư mặc
tưởng
hay sự phản tỉnh; thứ hai, thiền là tham dự vào việc luyện tâm (như tập
trung vào hơi thở hay trì tụng một câu thần chú lặp đi lặp lại nhiều lần[1])
với mục đích hướng đến sự tỉnh thức tâm linh ở một cấp độ cao.

Và
theo tự điển Cambridge, thiền là hoạt đông hướng sự tập trung của bạn vào một
đối tượng (có thể là một hoạt động mang tính chất tôn giáo hoặc một phương thức
nào đó để được trầm tĩnh và buông xả).

Nói
chung, tất cả những định nghĩa này đều mang cùng một ý nghĩa: đó là sự nỗ lực
hết mình để ràng buộc tâm vào một điểm duy nhất vì dường như người ta không có
khả năng tập trung vào hai đối tượng trong cùng một thời điểm.

Suy
cho cùng, chúng ta thường có khuynh hướng dùng từ “thiền” để mô tả những sự
thực tập có tính trầm tư mặc tưởng hay những sự thực hành phản ánh sự suy
nghiệm.

Dựa
trên
ý nghĩa này, thiền không nhất định mang ý nghĩa tôn giáo. Mà đúng hơn,
thiền là một phần tri nghiệm tự nhiên của con người chúng ta, và nó có thể được
dùng làm phương thuốc trị liệu để gia tăng sức khỏe cũng như nâng cao hệ miễn
dịch trong con người chúng ta.

Bất
kỳ ai ngắm nhìn mặt trời lúc hoàng hôn hay chiêm ngưỡng một bức tranh nghệ
thuật mà cảm thấy trầm tĩnh và nội tâm thanh thoát đều ít nhiều thưởng thức gia
vị của thiền. Nói như vậy, thiền Phật giáo là gì? Trước hết chúng ta khảo sát
thiền Phật giáo theo cách hiểu của ngươi bình thường trước.

Ngpithien

Một buổi ngồi thiền tại Thiền Viện Chơn Không Vũng Tầu

Thiền
Phật Giáo Theo Quan Điểm Bình Dân

Khi
được hỏi về thiền, ai trong chúng ta dường như đều có cùng câu trả lời bất kể
chúng ta là ai đi nữa. Người bình thường hay liên tưởng đến thiền Phật giáo
theo một trật tự sau đây: thứ nhất, thiền giả phải tìm một nơi thanh vắng như
chùa, hay một góc phòng, hay một khóa tu thiền; nghĩa là người ta phải tách
mình ra khỏi đời sống thường nhật bận rộn.

Điều
tiếp theo họ nên làm là ngồi kiết già, thẳng lưng, và nhắm mắt.

Sau
cùng, họ điều chỉnh sao đó để tập trung vào một đối tượng cụ thể.

Tại
Vietnam, người Phật tử thường quen với việc Niệm Danh Hiệu của đức Phật A Di
Đà
. Họ có thể dùng một xâu chuỗi 108 hạt hoặc 18 hạt hay 54 hạt để biết chính
xác
số lần niệm Phật.

Tuy
nhiên
, những ai có trí nhớ tốt không nhất thiết phải dùng xâu chuỗi. Hầu như
bất kỳ buổi lễ nào liên quan đến Phật giáo, phật tử Việt Nam đều Niệm Phật A Di
Đà
, và xem việc Niệm Danh Hiệu Phật này là thiền định.

Nói
đúng
hơn, đây là tịnh độ trong thiền. Theo phật tử Việt Nam, niệm danh hiệu
Phật A Di Đà là để tịnh hóa cái tâm khỏi phiền não và vọng tưởng. Chúng ta
không rõ quan điểm thiền trên bình diện chung có hợp với quan điểm thiền của
đức Phật hay không? Bởi thế, tôi muốn dành phần tới để bàn về quan điểm thiền
của đức Phật.

Thiền
Phật Giáo theo quan điểm của đức Phật

Theo
Đại Kinh Saccaka (Mahāsaccaka-Sutta), câu chuyện về cuộc đời đức
Phật
tường thuật nhiều tình tiết liên quan đến sự giác ngộ cũng như giáo lý của
ngài.

Lúc
lên bảy tuổi, ngài theo phụ vương dự lễ Hạ Điền, khi ngài rời cung điện lần đầu
tiên, và ngài đã chứng kiến lễ Hạ Điền. Lúc ấy, ngài nhận ra đươc thực trạng
đời sống bên ngoài thế giới nhung lụa. Chứng kiến lễ Hạ Điền mở ra cho Sĩ Đạt
Tha (Siddhartha) một viễn cảnh mới lạ về thế giới bên ngoài. Những gì
diễn ra trong lễ Hạ Điền này đã tạo trong ngài mối ưu tư sâu thẳm. Ngài chứng
kiến
người nông phu quật liên hồi lên thân trâu đang cày cực nhọc. Tại đấy,
ngài chứng kiến nhiều sự kiện mà trước đó ngài chưa hề được thấy trong hoàng
cung
.

Ngài
lặng lẽ thoát khỏi không khí buổi lễ và muốn được an trú một mình. Rồi ngài cảm
thấy
tâm ngài đưa ngài về trạng thái an định. Ngài quán sát tường tận lưỡi cày
cứa từng miếng đất trên thửa ruộng. Rôi ngài chứng kiến lưỡi cày nghiền nát côn
trùng trên thửa ruộng, và chim chóc mổ xé những sinh vật nhỏ hơn.

Ngài
tự hỏi mình: tại sao chúng sinh lại khổ đau như vậy? Ngài liền nghĩ, nếu phụ
vương ta không làm lễ Hạ Điền, ắt hẳn những loài sinh vật này sẽ không bị sát
hại
như thế.

Ngài
liền nhận chân ra mọi thứ đều có mối tương quan chặt chẽ. Mỗi hành động đều đem
lại kết quả, điều sau này trở thành giáo lý cốt lõi của ngài.

Sĩ
Đạt Tha chuyên chú sâu thẳm vào vấn đề này. Ngài chỉ chuyên tâm vào sự di
chuyển
của lưỡi cày trên đám ruộng cùng những hậu quả theo sau của nó; và ngài
đã chứng đắc Jhāna, một trạng thái tâm thức trở thành bước đầu tiên trên
lộ trình giác ngộ của ngài. Theo tự điển Pali-Anh, Jhāna là một trạng
thái
hỷ lạc[2].

Điểm
liên hệ giữa sự kiện này với Thiền Phật Giáo về sau được hiểu là chuyên nhất
trên một đề mục với sự tĩnh lặng. Chúng ta cũng có thể suy ra rằng chính với
cái tâm tĩnh lặng, đức Phật đã khám phá ra một giáo lý quan trọng khác là học
thuyết
Từ Bi (metta) cho thế gian đang khổ đau, khi ngài chứng kiến
chúng sinh đấu tranh, sâu xé nhau để tìm kiếm sự sống cho mình, phải sát hại
chúng sinh khác.

Một
chi tiết quan trọng khác trong cuộc đời đức Phật liên hệ đến thiền là khoảnh
khắc trước khi ngài thành đạo. Sau khi từ bỏ cung điện, ngài theo học với hai
vị thầy trứ danh lúc bây giờ là Āḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta. Không lâu sau
khi nhận họ làm thầy, ngài chứng đến thiền thứ bảy và thứ tám – Vô Sở Hữu Xứ và
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Ngài
vẫn kết luận rằng đây không phải là con đường đem lại an lạc và giải thoát.
Ngài gia nhập nhóm năm nhà tu khổ hạnh và bắt đầu tu tập theo lối khổ hạnh hành
xác
như họ. Ngài cố gắng tìm ra chân lý qua sự tu tập ép xác.

Tuy
nhiên
, con đường giác ngộ vẫn xa lánh người tu sỹ trẻ tuổi. Ngài trở nên ốm yếu
và bệnh tật; thân thể còn chỉ như nắm xương. Ngài nhận chân ra rằng không thể
tìm cầu giác ngộ bằng lối tu khổ hạnh như thế này.

Ngài
quyết định dùng thức ăn trở lại và một cách tự phát ngài nhớ lại sự chứng
nghiệm
lúc ngài tham dự lễ Hạ Điền.

Sau
này Phật kể lại cho Aggivessana như sau: “Ta biết, trong khi phụ thân Ta,
thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây
diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”. Khi an trú như vậy,
Ta nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?” Và này
Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: “Đây là đạo
lộ đưa đến giác ngộ
“. Rồi Ta suy nghĩ: “Ta có sợ chăng
lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?” Này Aggivessana, rồi
Ta suy nghĩ: “Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất
thiện
“[3].

Sau
khi nhớ lại sự kiện thưở ấu thơ, nhà tu sy trẻ tuổi Sĩ Đạt Tha không còn tự ép
buộc
ngài vào lối tu khổ hạnh hành xác nữa. Ngài bắt đầu quan sát tâm qua sự di
chuyển
của từng hơi thở đi vào và hơi thở đi ra. Ngài thấy sự cảm thọ hiện hữu
khắp thân thể cho đến nơi lỗ mũi theo cách thức dần dần đưa tâm đến tĩnh lặng,
an định, buông thư, minh giải và thanh tịnh[4].

Ngài
tiếp tục hành thiền lối này, vượt qua tứ thiền rồi thành Phật.

Tóm
lại
, theo quan điểm của người viết, quan điểm thiền của đức Phật có thể được mô
tả
theo hai cách sau đây: thứ nhất, hành giả thiền tông phải tìm một nơi thật
thanh vắng, gắn chặt tâm trên một đề mục thiền quán thích hợp với tâm tính của
họ, như đối tượng quán chiếu của Sĩ Đạt Tha là theo dõi sự di chuyển của lưỡi
cày; bước thứ hai là nỗ lực hết mình để an trú tâm trên đối tượng đã được chọn
cho đến khi hành giả khiến tâm an tịnh.

Một
khi tâm đã an tịnh, hành giả sẽ thể nhập sâu lắng vào bản tính của một hiện
tượng
nào đó mà họ muốn thấu triệt. Trong trường hợp của đức Phật, khi quán sát
lưỡi cày trên thửa ruộng sâu lắng với cái tâm tuyệt đối an tịnh, ngài nhận chân
rằng hữu tình chúng sinh đấu tranh lẫn nhau để sinh tồn và cam chịu khổ đau.

Chứng
kiến
sự khổ đau của chúng sinh với tâm quán chiếu như vậy, có lẽ đây là điểm
khởi thuỷ để đức Phật thuyết giảng học thuyết về Từ Bi. Từ Samatha
thường được dịch là an bình hay tỉnh thức trong tiếng Anh
(tranquility or calm), và Vipassana được dịch là quán[5]
có lẽ cũng bắt đầu từ câu chuyện về cuộc đời đức Phật được chép trong Đai Kinh
Saccaka.

Điều
đáng bàn là quan điểm ban sơ của đức Phật về thiền được phát triển và diễn
giảng rộng hơn dựa những bài kinh nói về thiền trong tạng Pāli.

Thiền
Trong Kinh Tạng Pāli

Giữa
những kinh nói về thiền trong tạng kinh điển Pāli, phải nói rằng Kinh Đại Niệm
Xứ
(Mahāsatipatthana sutta) là Kinh tiểu biểu và quan trọng bậc nhất. Có
thể nói rằng toàn bộ hệ thống thiền phật giáo được cô đọng trong kinh này.
Những Kinh quan trọng khác về thiền như Kinh Quán Niệm Hơi Thở hay Nhập Tức
Xuất Tức Niệm
(Ānāpānasati sutta), Kinh Thân Hành Niệm (Kāyagatāsati
sutta),
hay Kinh Niệm Xứ (Satipatthana sutta) chỉ là những sự diễn
giảng rộng thêm dựa trên nền tảng của kinh Kinh Đại Niệm Xứ. Bởi tầm quan trọng
của kinh này đối với hệ thống thiền học phật giáo, người viết xin lấy kinh này
để bàn về nội dung của thiền học.

Theo
trình tự và cấu trúc của Kinh Đại Niệm Xứ, thiền gồm có bốn thành phần chính
yếu
: thứ nhất là quán niệm thân (kāyānupassanā); thứ hai là quán cảm thọ
(vedanānupassanā);
thứ ba là quán niệm tâm (cittānupassanā); và thứ
tư là quán niệm pháp (Dhammānupassanā).

Quán
thân
gồm có quán niệm hơi thở ra vào (anāpāna), quán bốn hành động của
thân – đi, đứng, nằm, ngồi (iriyāpatha), liễu tri (sampajañña), quán
bất tịnh
của thân thể (paṭikulamanasika pabba), quán các giới – đất,
nước, lửa, gió (dhātumanasika), quán chín giai đoạn thối rữa của thân
thể
(navasivathika).

Nói
ngắn gọn, có tất cả mười bốn thành phần về quán thân.

Quán
thọ bao gồm có ba loại: lạc thọ (sukkha), khổ thọ (dukkha), và
bất khổ bất lạc thọ (adukkhamasukkha).

Quán
tâm
bao gồm quán tâm tham và tâm vô tham, tâm sân và tâm vô sân (dosa
and vitadosa), tâm si và tâm vô si, tâm tán loạn và tâm thâu nhiếp, tâm
quảng đại và tâm không quảng đại, tâm hữu hạn và tâm vô lượng, tâm có định và
tâm không định, tâm giải thoát và tâm không giải thoát. Có tất cả mười sáu
thành phần quán về tâm nhưng chúng thường được xem là một thành phần duy nhất
là quán tâm.

Quán
pháp
gồm có quán năm triền cái – tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo
hối
và nghi (nīvaraņa), năm thủ uẩn – sắc, thanh, hương, vị, và
xúc ( khanda), sáu nội ngoại xứ (āyatana), bảy giác chi –
niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, và xả (bojjhaṅga), bốn
sự thật hay bốn thánh đế – khổ đế, tập đế, diệt đế, và đạo đế (ariyasacca).
Nói tóm lại, có tất cả năm thành phần về quán pháp (Dhamma)[6].

Bài
viết này không phải dành riêng để bàn về nội dung của Kinh Đại Niệm Xứ, mà chỉ
dựa vào nó để trình bày ngắn gọn phương pháp hành thiền. Theo nhận định của
người viết, có hai điểm chính yếu đáng quan tâm trong Kinh Đại Niệm Xứ cũng như
trong nền thiền học phật giáo của kinh tạng Pāli.

Thứ
nhất
, tất cả bốn phép
quán (thân, thọ, tâm, và pháp) đều dựa trên nền tảng chính niệm. Hay nói khác,
thiền được hiểu là nói đến những sự thực tập nhất định được y cứ bằng việc
thiết lập chính niệm. Từ “satipatthāna” bắt nguồn từ tiếp đầu ngữ sati,
có nghĩa là chính niệm, và tiếp vị ngữ pathana, có nghĩa là nền
tảng[7].

Một
cách rõ ràng, satipatthāna mang nghĩa là nền tảng của chính niệm. Chính
niệm
cấu thành bốn thành phần tu tập đưa đến sự giác ngộ, và nó được nhận thức
là kim chỉ nam cho tất cả các phương pháp thực hành thiền định.

Bốn
thành phần quán niệm không gì khác hơn là quán thân, quán cảm thọ, quán tâm, và
quán pháp.

Điều
thứ hai
người viết muốn nhấn
mạnh
là, tất cả giáo pháp của đức Phật (Buddhadhama) đều có liên đới với
thiền định. Những gì được dạy trong Kinh Đại Niệm Xứ bao hàm tất cả những gì
đức Phật đã thuyết giảng trong suốt bốn mươi lăm năm. Kinh Đại Niệm Xứ không
chỉ nói về thiền định mà còn trình bày toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật giáo.

Lý
do
để chúng ta khẳng định điều này là những gì đức Phật thuyết giảng cho thế
gian
đều bắt nguồn từ sự khám phá, chứng nghiệm, và nếm vị ngọt của chính pháp
một cách thực tiễn và thực nghiệm từ bản thân ngài qua sự thực hành thiền định
hơn là những học thuyết có tính lý thuyết suông và siêu hình.

Và
chúng ta không rõ giáo lý thiền được giải thích như thế nào trong văn học và
luận tạng Phật giáo về sau. Do đó, phần tới sẽ được dành để khảo sát thiền dựa
theo quan điểm trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga) của Buddhaghosa
(Phật Âm).

Thiền
Phật Giáo trong Luận Tạng

Trong
Thanh Tịnh Đạo Luận, Buddhaghosa trình bày thiền dưới bốn mươi đề mục (kammaṭṭhāna).

Đó
là Định Mười Biến Xứ (10 kasinas): đất, nước, lửa, gió, xanh,
vàng, đỏ, trắng, không gian, và ánh sáng.

Định
Bất Tịnh Quán
(10 asubha):
tướng phình trướng, tướng bầm xanh, thây chảy mủ, tướng nứt ra, tướng bị gặm
khói, tướng rã rời, tướng phân tán rã rời, tướng máu chảy, tướng trùng ăn, và
tướng bộ xương.

Mười
Tùy Niệm
(10 anussati):
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, niệm chết,
thân hành niệm, niệm hơi thở, và niệm an bình.

Các
Phạm Trú
(4 Brahmavihāra):
từ, bi, hỷ, và xả.

Các
Vô Sắc Xứ (arūpasamāpatti): không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu
xứ
, và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tưởng về Bất Tịnh trong thức ăn (1) và phân
tích Bốn Đại (1).

Giữa
bốn mươi đề mục thiền, mười biến xứ (kasinas) được tìm thấy trong tạng
kinh
(Suttapiṭka) thuộc tam tạng hệ Pāli[8]. Quán Bất Tịnh được
tìm thấy trong Kinh Đại Niệm Xứ, Kinh Niệm Xứ, Kinh Quán Niệm Hơi Thở và Kinh
Thân Hành Niệm
. Mười Tùy Niệm được chép trong Kinh Tăng Chi (Tập I);
trong Bốn Phạm Trú, Từ và Bi được nói đến trong Kinh Từ Bi (Metta
Suttā),
và trong phần Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhidamagga) thuộc
Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya); hỷ và xả được bàn đến trong
phần Thất Giác Chi (
Bojjhaṅga Pabba) thuộc Kinh Đại Niệm Xứ. Bốn
Vô Sắc
được tìm thấy trong kinh Tăng Chi (tập IV); Tuởng về Bất Tịnh
trong Thức Ăn
cũng được tìm thấy trong kinh Tăng Chi (tập IV); và phần Phân
Tích Bốn Đại được nói đến trong Đại Kinh Dấu Chân Voi (Mahāhatthipadopama
Sutta).

Nhìn
lướt qua danh sách bốn mươi đề mục thiền, chúng ta thấy rằng Buddhaghosa làm
được một công trình rất lớn lao là hệ thống hóa bốn mươi đề mục thiền theo một
trình tự có tính học thuật cao.

Cho
dù tất cả bốn mươi đề mục đều được tìm thấy trong kinh tạng Pāli, thiền Phật
giáo
, theo Buddhaghosa, vẫn khác rất nhiều với thiền được đề cập trong kinh
tạng
Pāli nói chung và kinh Đại Niệm Xứ nói riêng. Không ai biết chắc rằng tại
sao Buddhaghosa lại phân loại bốn mươi đề mục theo cách như vậy. Theo sự mô tả
trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga), Buddhaghosa gợi ý rằng hành
giả
thiền tông nên chọn đề mục thiền nào phù hợp với căn tính của họ.

Buddhaghosa
nói rằng có sáu loại căn tính khác nhau: đó là tánh tham, sân, si, có niềm tin,
thông minh, và phỏng đoán (greed, hate, delusion, faith, intelligence, and
speculation)[9]. Đơn cử là, Buddhaghosa tuyên bố rằng những ai có tính khí tham
nên quán tưởng bất tịnh và thực hành Thân Hành Niệm; những ai có tính sân nên
quán tưởng bốn biến xứ – xanh, vàng, đỏ, và trắng cũng như bốn phạm trú – từ,
bi, hỷ, và xả; những ai có tánh si và phỏng đoán nên quán niệm hơi thở; những
ai có niềm tin nên quán tưởng sáu Tùy Niệm – Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng,
Niệm Giới, Niệm Thí, và Niệm Thiên; những ai có tính khí thông minh nên quán
niệm
an bình, niệm Chết, sự Bất Tịnh trong thức ăn, và bốn đại – đất, nước,
lửa, và gió.

Theo
nhận xét của người viết, thiền Phật giáo theo quan điểm được mô tả trong Thanh
Tịnh Đạo Luận
như sau:

Để
mang lại lợi lạc và thành công trong việc hành thiền, hành giả phải nhận ra
được tính khí của chính mình. Có lẽ đây là lý do tại sao Buddhaghosa thiết lập
và hệ thống hóa bốn mươi đề mục thiền quán. Buddhaghosa cũng giải thích thêm
rằng trong trường hợp hành giả không nhận ra căn tính của chính mình, họ phải
cần có một thiền sư hay một pháp lữ giỏi và có kinh nghiệm để hướng dẫn (Kalyāṇa
Mitta
), yếu tố cũng được nhắc đến trong Thanh Tịnh Đạo Luận.

Theo
người viết, hệ thống của Buddhaghosa là một điểm thật sự lôi cuốn nhưng cũng
khá thách đố. Nói như vậy là bởi vì hành giả vẫn hoàn toàn đối mặt với thất bại
cho dù có sự hướng dẫn của minh sư hay thiện hữu tri thức. Minh sư hay thiện
hữu tri thức
không ít lần đọc sai tư tưởng của người khác.

Cần
nhấn mạnh lại rằng đại ý quan trọng nhất trong phương pháp thiền của
Buddhaghosa là, người ta cố gắng nhận ra căn tính của mình. Chúng ta không đoan
chắc rằng hệ thống thiền này có phản ánh đúng những gì đức Phật dạy hay không.
Bốn mươi đề mục thiền đã có mặt trong kinh điển Pāli.

Điểm
đáng chú ý là không phải tất cả kinh điển trong tạng Phật giáo nguyên thủy đều
do Phật thuyết giảng, có thể do chư thánh đệ tử của Phật nói và được Phật chấp
thuận
. Theo dòng thời gian, như Phật giáo nói chung, giáo lý về thiền cần tự
điều chỉnh để thích nghi với nhiều nền văn hóa khác nhau mà nó du nhập.

Lời
Kết

Chúng
ta
thấy không có nhiều thay đổi trong phương pháp hành thiền từ thời đức Phật
cho đến ngày hôm nay. Điểm cốt lõi của thiền Phật giáo vẫn còn được lưu hành.

Một
cách khái quát, hành giả thiền tông cần thực hiện hai bước quan trọng: thứ
nhất, nỗ lực để an tịnh cái tâm của mình; thứ hai, cái tâm an tịnh sẽ giúp hành
giả
tuệ tri sâu thẳm vào những gì mà họ thực sự muốn khám phá.

Trong
ý nghĩa này, thiền là trung tâm trong hệ thống giáo lý của đức Phật. Bất kỳ học
thuyết
nào mà đức Phật đã thuyết giảng trong kinh điển Phật giáo nguyên thủy
đều có liên đới đến thiền như chúng ta đã bàn khi nói về Kinh Đại Niệm Xứ.

Nói
một cách khác, suốt bốn mươi lăm năm đức Phật chỉ thuyết giảng hai điều: (1)
Khổ và (2) con đường đưa đến sự diệt Khổ. Để diệt trừ cái khổ, người ta phải
nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta
phải cần có một cái tâm an tịnh mà thiền Phật giáo gọi là samatha (thiền
chỉ
).

Như
mặt hồ phẳng lặng, với cái tâm an tịnh, người ta có thể nhìn thấu suốt những gì
bên dưới nó. Đây là điều Phật giáo gọi là Vipassana (thiền
quán
).


[1]
Trì niệm chú không được đề cập trong văn học Pali. Có lẽ đây là một sự phát
triển về sau của Niệm Phật (Buddhaussati, Recollection of the Buddha).

[2]
Nyanatiloka (1952). Buddhist Dictionary: Manuals of Buddhist Terms and
Doctrines
. Sri Lanka: Buddhist Publication Society

[3]
Đại Kinh Saccaka (bản dịch ht Thich Minh Châu).

[4]
BBC movie- the Life of The Buddha.

[5]
Nyanatiloka (1952), Sđd, trang 292 và 364.

[6]Maurice
Walshe (trans) (1987). The Long Discourses of the Buddha (A Translation
of the Digha Nikaya). Boston: Wisdom Publications trang 335-50.

[7]
Nyanatiloka (1952). Sđd, trang 307.

[8]
http://en.wikipedia.org/wiki/Kasina

[9]
Nyanamoli, Bhikkhu (1956). The Path of Purification (VisuddhiMagga). Singapore:
Singapore Buddhist Meditation Centre, trang 102.

Tin bài có liên quan

Vô Ngã Vô Ưu

Vô Ngã Vô Ưu

Vị Trí Của Thiền Quán Trong Tu Tập Phật Giáo

Vị Trí Của Thiền Quán Trong Tu Tập Phật Giáo

Vì Sao Tu Thiền Định

Vì sao tu thiền định

Về Một Lời Khuyên Tu Thiền

Về một lời khuyên tu thiền

Vài Ghi Chú Rời Về Thiền

Vài Ghi Chú Rời Về Thiền

Ứng Dụng Bảy Yếu Tố Giác Ngộ Trong Quá Trình Thực Hành Thiền Định

Ứng dụng bảy yếu tố giác ngộ trong quá trình thực hành thiền định

Tương Quan Giữa Thiền Và Tịnh

Tương Quan Giữa Thiền Và Tịnh

Tứ Vô Lượng Tâm

Tứ vô lượng tâm

Tư Tưởng Thiền Học Trần Thái Tông

Tu Thiền Định Bằng Cách Chuyên Tâm Vào Một Điểm

Tu thiền định bằng cách chuyên tâm vào một điểm

Load More

Discussion about this post

Thế Sự Nhiễu Nhương !

Thế Sự Nhiễu Nhương !

THẾ  SỰ  NHIỄU  NHƯƠNG !Minh Mẫn Cuộc sống là phiền não, mang thân chúng sanh luôn gặp nhiều khổ đau;...

Chánh Niệm Trên Tính Không Của Tâm

Đức Đạt Lai Lạt Ma CHÁNH NIỆM TRÊN TÍNH KHÔNG CỦA TÂM Bản dịch Việt : Đặng Hữu PhúcTrích từ:...

Đây Là Tâm Tôi, Sáng Tỏ Và Trống Không

Đây Là Tâm Tôi, Sáng Tỏ Và Trống Không

ĐÂY LÀ TÂM TÔI, SÁNG TỎ VÀ TRỐNG KHÔNGTác Giả Tsoknyi RinpocheMinh Hằng Dịch Sang Tiếng Việt Photo by Zoltan...

Buông Gánh

Buông gánh

Nói về một bậc Thánh đã giải thoát sanh tử và khổ đau, trong Kinh tạng, Thế Tôn thường dùng...

Miền Hạnh Phúc Thênh Thang

Miền hạnh phúc thênh thang

MIỀN HẠNH PHÚC THÊNH THANG Lê Đức Dục   Thật lạ kỳ, trong những giấc mơ của mình tôi vẫn...

Tìm Cầu Thượng Sư Chân Chính

Tìm Cầu Thượng Sư Chân Chính

TÌM CẦU THƯỢNG SƯ CHÂN CHÍNH Nếu như không biết mục đích, cách thức của việc tìm cầu Thượng sư...

Điện Thư Chia Buồn Đlht. Thích Trí Tịnh Viên Tịch Của Đức Karmapa Đời Thứ 17

Điện Thư Chia Buồn Đlht. Thích Trí Tịnh Viên Tịch Của Đức Karmapa Đời Thứ 17

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Một Số Nghi Lễ Trong Phật Giáo Theravada

Một Số Nghi Lễ Trong Phật Giáo Theravada

MỘT SỐ NGHI LỄ TRONG PHẬT GIÁO THERAVADA S.B. Silanandabhivamsa Nghiệp Đức dịch Phật giáo không có một số nghi...

Tìm Hiểu Phước Bố Thí – Tỳ Khưu Hộ Pháp – Sách Ebook Pdf

Tìm Hiểu Phước Bố Thí – Tỳ Khưu Hộ Pháp – Sách ebook PDF

MỤC LỤC Lễ Bái Tam BảoLời Nói ĐầuPhước Thiện (Puññakusala)Phước Thiện Bố ThíNhững Nhân Vật Xuất Sắc Về Hạnh Bố...

Tịnh Nghiệp Tam Phước tập 2

Trong nhà Phật, chúng ta xem qua sự cầu học của đại đức xưa, cái lễ cử này rất nhiều....

Pháp Quán Đại Bi, Asanga (375-430) Ngài Vô Trước

Pháp Quán Đại Bi, Asanga (375-430) Ngài Vô Trước

ASANGA (375-430)NGÀI VÔ TRƯỚCPHÁP QUÁN ĐẠI BIBản dịch Anh ngữ: “Asanga’s Teaching of Great Compassion.”Trích từ : Essential Tibetan Buddhism....

Chánh Niệm Cơ Bản

Chánh Niệm Cơ Bản

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Hai Thứ Tự Do

Hai Thứ Tự Do

Nền văn hóa phương Tây hiện đại chỉ công nhận loại tự do đầu tiên, tự do thỏa mãn dục...

Nhận Diện Và Yêu Mến Cuộc Đời

NHẬN DIỆN VÀ YÊU MẾN CUỘC ĐỜI Thích Thái Hòa Có nhiều vị tương đối có chút trí thức và...

Giải Pháp Vượt Qua Những Khủng Hoảng Thời Đại

Giải pháp vượt qua những khủng hoảng thời đại

Một sự giải thích mới mẻ về khái niệm Bồ-tát Quán Thế Âm cùng sự ứng dụng giáo lý Bồ-tát...

Thế Sự Nhiễu Nhương !

Chánh Niệm Trên Tính Không Của Tâm

Đây Là Tâm Tôi, Sáng Tỏ Và Trống Không

Buông gánh

Miền hạnh phúc thênh thang

Tìm Cầu Thượng Sư Chân Chính

Điện Thư Chia Buồn Đlht. Thích Trí Tịnh Viên Tịch Của Đức Karmapa Đời Thứ 17

Một Số Nghi Lễ Trong Phật Giáo Theravada

Tìm Hiểu Phước Bố Thí – Tỳ Khưu Hộ Pháp – Sách ebook PDF

Tịnh Nghiệp Tam Phước tập 2

Pháp Quán Đại Bi, Asanga (375-430) Ngài Vô Trước

Chánh Niệm Cơ Bản

Hai Thứ Tự Do

Nhận Diện Và Yêu Mến Cuộc Đời

Giải pháp vượt qua những khủng hoảng thời đại

Tin mới nhận

Phật là gì?

Người được Phật dự báo trước cái chết

Cảm kích ân đức của Chư Phật và Chư Bồ Tát

Làm thế nào để thoát khỏi bóng đen của những nỗi buồn phiền?

6 chân lí của hạnh phúc từ lời Phật dạy

Đức Phật và những di huấn sau cùng

Danh ngôn lời vàng Phật dạy về 4 hạng người

Nhờ thờ Phật mà thoát khổ

Phật dạy tâm bi tình yêu thương chân thật

Lời Phật dạy về đẹp và xấu

Lời dạy sau cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập niết bàn

Đức Phật và câu chuyện “cày ruộng và gieo hạt”

Lời Phật dạy về hai hạng người chìm trong nước

Chùa Long Phước, Ấp Giồng Chùa, Xã Nhuận Phú Tân, Huyện Mỏ Cày Bắc, Bến Tre

Tôi tin Phật

Đạo Phật là đạo yêu đời

Vì sao con người làm khổ nhau?

Chùa Long An (Chùa Ông Một) Quận Cái Răng, Tp. Cần Thơ

Phật là đấng Pháp vương

15 điều Phật dạy về đối nhân xử thế nên ghi nhớ

Tin mới nhận

“Cầu Pháp”

Tìm Tĩnh Lặng Trong Mâu Thuẩn Của Cuộc Đời

Như Thế Nào Là Giải Thoát

Nhân quả công bằng khi đủ duyên

Luận Biện Trung Biên

Đạo đức con người thời nay

Cuộc chiến Trung-Nhật 1931-1945: Phật giáo mỗi bên đã làm gì?

Nhân Duyên Của Giàu Và Nghèo

Lời Phật dạy về pháp môn niệm Phật

Đã gieo trồng thiện căn dẫu chết cũng không sợ

Trời hại mới chết

Trái Sung Chữa Tan Sỏi Mật, Điều Mà Ít Ai Biết – Lương Y Phan Văn Sang

Miến Điện: Ca Tụng Chư Tăng Đạo Phật By Sao Noan Oo – Thích Quảng Ba Dịch

Từ tết chay đến cuộc thi “ăn chay hạnh phúc” lần thứ 2

Em về nhớ giùm anh

Tam Pháp Ấn – Giáo Lý Trong Đạo Phật

Đức Phật Cảm Hóa Angulimāla: Nhiều Bài Học Quý

Về ý nghĩa của “sự phơi bày cái-đang-là”

Kiến Tánh Thành Phật

Nhạc Niệm Phật

Tin mới nhận

Kinh Tạng Pali (.Pdf)

Nên Biếu Quà Tặng Cho Ai?, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm

Đức Phật dạy có bốn loại vợ chồng sống chung với nhau

Pháp ngữ trong Kinh Kim Cang (2)

Về Một Số Vấn Đề Trong Kinh Lăng Già Phạn-Hán

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 319)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 02)

Đức Phật Từng Cảm Nhận Các Giác Cảm Đau Đớn

Đại Phương Quảng Viên Giác Kinh Lược Giải

Đời Là Cõi Tạm, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Hướng Dẫn Đọc Kinh Trường Bộ

Ba Loại Bệnh Nhân, Kinh Tăng Chi Bộ (song ngữ)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 36)

Đại Lễ Phật Đản Vesak Năm 2022 tại Liên Hợp Quốc và Tòa Bạch Ốc

Tám Điều Giác Ngộ – Ứng Dụng Kinh Bát Đại Nhân Giác Trong Cuộc Sống

Những pháp đoạn trừ và nuôi dưỡng năm triền cái

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 21)

Kinh Từ Bi (Metta Sutta) – Song Ngữ Việt Và Anh

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 298)

Tin mới nhận

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 229)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 78)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 282)

Nghiên cứu về thú hướng tái sanh qua dấu hiệu nóng, lạnh của thân thể

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 70)

Hỏi Đáp Khai Thị – HT. Tịnh Không chính thức trả lời những hiểu lầm về dự báo đại nạn năm 2012

Từng Bước Thực Hành Thần Chú Đại Bi

“Tưởng Niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 291)

PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 29)

Niệm Phật Sinh Tịnh Độ

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 4)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 15)

Báo cáo tâm đắc về việc học tập Nữ Đức (Tập 4)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 47)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 71)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 264)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 103)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 274)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

Chinese (Simplified)EnglishFrenchGermanJapaneseKoreanRussianSpanishVietnamese