HÃY TỰ MÌNH LÀM
Bhante Henepola Gunaratana
Diệu Liên Lý Thu linh Việt dịch
Bhante Henepola Gunaratana xuất gia năm 12 tuổi ở
Kandy, Sri Lanka. Tu tập làm sadi trong
tám năm, tỳ kheo được bảy năm, sau đó Sư mới rời Sri Lanka năm 1954 để đến Ấn Độ
phục vụ cho những người thuộc giai cấp hạ lưu. Năm 1968, Sư đến Mỹ và trở thành vị Tổng Thư Ký Danh Dự (Honorary
General Secretary) của Hội Phật giáo, một tự viện ở Washington D.C. Trong thời gian đó, Sư cố gắng lấy bằng tiến
sĩ về triết học ở Đại học American, nơi sau này Sư trở thành vị Tuyên Giáo Phật giáo ở đó. Sư đã
hoằng pháp trên khắp thế giới trong hơn 40 năm. Sách của Sư gồm có Chánh Niệm Cơ Bản (Mindfulness in Plain English), Hành
Trình Đến Chánh Niệm (Journey to Mindfulness); Bát Chánh Đạo: Con Đường Đưa Đến
Hạnh Phúc (Eight Mindful Steps To Happiness) và Con Đường Thiền Chỉ & Thiền Quán (The Path of Serenity and Insight)
(ND: Tất cả các sách này đều có
bản dịch tiếng Việt). Năm 1988, Bhante Gunaratana trở thành chủ tịch
của Hội Bhavana ở High View, phía tây tiểu bang Virginia. Trung tâm này khuyến khích việc tu thiền Quán
(Vipassana) và đời sống xuất gia.
Đại đức Ananda, là vị thị giả đã theo Đức Phật suốt hai mươi
lăm năm. Đức Phật đã nhiều lần
khuyên ông phải cố gắng thật nhiều để đạt được Giác Ngộ. Đại đức đã thông suốt các Pháp và việc
hành thiền. Tuy nhiên Đại đức Ananda
vẫn hoan hỷ phục vụ Đức Phật và các vị tỷ kheo khác, ngài không
quan tâm lắm đến việc đạt Giác Ngộ cho bản thân, nhưng cuối cùng dưới
áp lực lớn khi 499 vị A-la-hán hội tụ lại trong kỳ Phật giáo vân
tập lần thứ nhất. Họ khẳng định
rằng Đại đức phải chứng đắc trước ngày đã định để mở hội nghị, ba
tháng sau ngày Đức Phật nhập diệt.
Đức
Phật đã khuyên: “Này hỡi các vị tỳ kheo, hãy hành thiền. Đừng dễ duôi. Đừng để tâm các ông chứa
đầy uế nhiễm. Đừng khóc than rằng:
Cuộc đời đầy trắc trở, đầy khổ não, đầy đớn đau, muộn phiền”. Tâm không phát triển bằng cách hành
thiền chánh niệm sẽ tạo ra phiền não, bức rức, lo âu. Đừng mãi khóc than, mãi tạo bao lỗi
lầm. Các ông không thể chạy trốn
thực tế”.
Cuộc
đời không chỉ toàn màu hồng. Nó gồ
ghề, khi lên khi xuống. Đó là thực
tế mà chúng ta phải đối mặt hằng ngày. Việc hành thiền chánh niệm cũng giống như bộ nhún của một
chiếc xe. Nếu bộ phận này không
tốt, chúng ta sẽ thấy xe khó lái như thế nào. Cỗ xe này của chúng ta –bao gồm thân và
tâm- luôn gặp những khó khăn như thế. Không có nơi nào để chúng ta có thể chạy trốn chúng. Ngay nếu như ta có thể lên mặt trăng
(ngày nay là điều khả thi), thì ta cũng mang cái thân và tâm với bao
uế nhiễm còn đầy trong tâm. Chúng
kiên trì đeo bám theo ta đến bất cứ nơi nào, chúng ám ảnh ta, ngày
đêm. Phần đông giải quyết các vấn
đề của mình bằng ba giải pháp.
Thứ
nhất, họ tư duy rằng vấn đề là “ở thế giới bên ngoài”. Do đó, họ nghĩ là nếu họ có thể thay
đổi thế giới, cố gắng giải quyết những căn bệnh xã hội, thì họ có
thể giải quyết vấn đề của bản thân. Họ muốn làm cho môi trường “sạch, đẹp”, không còn ô nhiễm, vì
họ nghĩ chỉ khi đó họ mới có thể sống hạnh phúc. Vi thế họ cuồng nhiệt tham gia thay đổi
xã hội, đôi khi đến mức quá đáng. Dĩ nhiên, ước muốn cải tiến các căn bệnh xã hội, hành động
đó tự nó rất đáng khuyến khích. Vì họ thấy khổ đau, nên động lòng thương rồi phát khởi hành
động. Họ có thể hoàn toàn chìm
đắm trong việc cố gắng chữa các căn bệnh xã hội. Họ có thể nghĩ rằng họ không còn có
vấn đề nhưng thực sự là họ đã quên những vấn đề đang âm ỉ bên trong
họ. Họ vẫn tiếp tục phải chịu
những nỗi đau không được chữa trị của riêng họ vì lý do chính là họ
không còn thời gian dành cho bản thân nữa. Những người này đầy lòng cảm thông,
hiểu biết, luôn sẵn sàng phụng sự xã hội không kể đến bản thân hay
chờ đợi một đền đáp nào từ xã hội. Họ nghiền ngẫm những điều tuyệt vời về những người cao thượng
như thế, những người không màng đến việc tìm kiếm giải thoát cho
riêng mình để phụng sự xã hội. Tuy
nhiên, các hoạt động bên ngoài có thể ngăn trở ta giải quyết các vấn
đề của bản thân.
Chúng
ta sống trong xã hội với nhiều người khác, nhưng mỗi người chúng ta
lại có một thế giới riêng của mình: quan điểm, tư duy, sự hiểu biết
riêng của chúng ta về thế giới bên ngoài. Do đó, mỗi người chúng ta lại hành động theo tư duy, quan điểm
của riêng mình. Do nghĩ rằng tất
cả mọi vấn đề mà ta phải đối mặt là từ thế giới bên ngoài mang
đến, nên ta hướng năng lượng ra ngoài, với niềm tin rằng tham gia làm
việc gì đó để chuyển đổi xã hội sẽ giúp giải quyết vấn đề của
chúng ta.
Cách suy nghĩ thứ hai mà người ta bám
víu vào để giải quyết vấn đề của họ là cho rằng họ chẳng có vấn
đề gì cả. Họ tin rằng tất cả mọi
thứ đều là ảo tưởng. Họ nghĩ:
“Chỉ có tôi hiện hữu, tôi quan trọng nhất, tôi không quan tâm đến điều
gì khác nữa, tất cả chỉ có tôi”.
Cách thứ ba để giải quyết vấn đề cá
nhân là trốn chạy những vấn đề đó.
Chúng ta tạm thời có thể được an ủi,
tạm thời thấy an ổn khi nghĩ rằng vấn đề là ở thế giới bên ngoài,
hay ta không có vấn đề gì cả, hoặc hướng sự chú tâm của chúng ta
đến những điều khác, tảng lờ như
không có vấn đề gì hay chạy trốn vấn đề.
Không thể có giải pháp thực sự nào
trong những phương cách trên. Theo
Đức Phật, giải pháp thực sự là khám phá ra cách để thanh lọc công
cụ, cái làm cho thế giới hạnh phúc hay khổ đau, bình an hay khốn
khổ, thoải mái hay muộn phiền. Công
cụ đó chính là tâm. Và thanh lọc
tâm là một trong những mục tiêu của thiền minh sát.
Như tất cả chúng ta đều biết, mọi tư
duy, lời nói và việc làm của ta đều xuất phát từ tâm. Tâm là người cầm cờ chạy trước. Tất cả các trạng thái mà ta trải
nghiệm đều do tâm tạo. Chúng được
tạo ra trong tâm, do tâm điều khiển, hướng dẫn: tâm là thầy của chúng,
tâm là người tạo tác ra chúng. Hành động hay nói năng với một trạng thái tâm ô nhiễm thì khổ
đau sẽ theo sau như bánh xe sẽ theo chân con bò. Hành động hay nói năng với trạng thái
tâm trong sạch, thì hạnh phúc sẽ theo sau giống như chiếc bóng sẽ theo
hình”. (Pháp Cú 1-2)
Hình ảnh của con bò kéo xe được dùng
để mô tả vấn đề của chúng ta là phù hợp nhất. Con bò đâu có thích thú gì khi phải
kéo xe. Nó đâu có hạnh phúc gì
với gánh nặng này; đâu phải là thú vui. Con bò đáng thương này đang
phải chịu đựng. Cả sức nặng của
chiếc xe đè lên vai, lên cổ và nó rất đau đớn. Nếu không phải sinh ra làm kiếp trâu bò
thì nó đã sung sướng biết bao. Duyên hợp của con bò có thể so sánh với duyên hợp của vô minh,
ngu dốt –không thể thấy sự thật như nó là. Một cuộc sống chưa giác ngộ thì đầy vô
minh và có đủ loại uế nhiễm. Do
đó, người chưa giác ngộ có hành động, lời nói, ý nghĩ với tâm uế
nhiễm sẽ rất giống với con bò luôn phải khổ đau vì phải kéo chiếc
xe nặng nề. Ngược lại khi nói hay
làm với tâm trong sạch, chúng ta cảm thấy hạnh phúc, không hối hận,
không khổ đau nào theo sau ta.
Mục đích sống của chúng ta là trau
dồi bản thân từng ngày để được hạnh phúc. Chúng ta làm rất nhiều thứ để được
hạnh phúc. Tuy nhiên, gần như tất
cả những gì chúng ta làm để được hạnh phúc lại đưa đến bất hạnh,
khổ đau và phiền não vì tâm chúng ta không thanh tịnh. Chỉ có tâm thanh tịnh mới đem lại hạnh
phúc, chứ không phải bất cứ thứ gì khác. Vì thế mục đích đầu tiên của việc
hành thiền là thanh lọc tâm để được bình an, hạnh phúc.
Mục đích thứ hai của việc hành thiền
là để chế ngự khổ đau, oán thán. Khi vị thiền giả bắt đầu nhận biết sự thật, vị ấy có thể
chịu đựng và chế ngự phiền muộn, khổ đau do vô thường mang đến.
Mục đích thứ ba của việc hành thiền là
để chế ngự được khổ đau, tuyệt vọng do tham sân gây ra.
Mục đích thứ tư là để nương theo con
đường trí tuệ, con đường chân chánh đưa đến giải thoát khỏi sầu,
khổ, thất vọng, oán thán. Đó là
con đường của minh sát tuệ –con đường duy nhất giải thoát ta khỏi khổ
đau.
Mục đích thứ năm của việc hành thiền
là để giải thoát bản thân hoàn toàn khỏi tâm bệnh, uế nhiễm, tham,
sân và si.
Năm mục đích này là năm mục đích rất
cao thượng. Tất cả những mục đích
khác trong thiền tập, chúng ta không cần phải quan tâm đến vì chúng
không thể mang cho ta những kết quả như vừa kể, giúp ta thực sự bình
an, hạnh phúc bằng cách xóa bỏ các vấn đề của chúng ta. Không phải bằng cách cố ý gạt bỏ hay
trốn tránh chúng mà chúng ta đối mặt với chúng bằng tâm chánh niệm,
và đối phó với chúng ngay khi chúng vừa khởi lên trong tâm.
Nhiều người muốn hành thiền mà không
có chút kiến thức cơ bản gì về thiền. Họ cho rằng kiến thức về các lý thuyết thiền là trở
ngại. Thái độ này có thể so sánh
với thái độ của người lữ hành muốn đi đến một nơi nào đó. Anh ta rất tự tin nơi bản thân và nghĩ rằng
chỉ cần có lòng tự tin là anh ta sẽ đi được đến đích. Có thể anh ta cũng có phương tiện -một
chiếc xe chẳng hạn. Rồi, khi vào
trong xe, ngồi sau tay lái, anh ta bắt đầu lái đi. Tuy nhiên anh ta chẳng có chuẩn bị gì
cho cuộc hành trình. Không biết đường
đi, không biết tình trạng đường xá ra sao, hay thời tiết thế nào. Anh ta cũng chưa nghiên cứu bản đồ. Anh ta chỉ vỏn vẹn có chiếc xe, kinh
nghiệm lái xe và lòng tự tin. Có
thể xe đã có đầy đủ nhiên liệu và những thứ khác, nên người lái xe
chỉ ngồi vào xe và lái đi. Anh ta
có thể phải lái rất xa, tốn không ít tiền xăng, thời gian và sức
lực. Thật vậy, chỉ việc lái xe đi
tới có thể đưa anh ta đến đâu đó, nhưng chưa chắc đó là đích đến của
anh. Một người tài xế khôn ngoan,
ngược lại, sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng bản đồ, có sơ đồ đường đi và có
thể đã tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm hơn.
Nếu người lái xe đó muốn đến thành
phố W. và nếu có một nơi với tên gọi như thế thì chắc chắn là anh
ta sẽ tìm ra nơi đó. Tương tự,
chúng ta cần có một mục đích khi hành thiền. Chúng ta muốn đạt được mục đích, biến
mục tiêu thành hiện thực. Như thế
chúng ta cần có hướng dẫn. Chúng
ta thực sự không cần nhiều những triết lý viễn vông. Nhưng những lời hướng dẫn là các bảng chỉ
đường để chúng ta đi theo mà biết (không phải đoán) là chúng ta đã đi
đúng hướng. Dĩ nhiên là chúng ta
cần có sự tự tin, nhưng chỉ có thế thì chưa đủ. Chúng ta còn cần cả sự hiểu biết, tri
thức về lý thuyết.
Vậy thì thiền là gì? Chúng ta phải làm gì để thanh lọc được
tâm, chế ngự được khổ đau, oán thán, thất vọng, để đi được trên con
đường tiến tới giải thoát khỏi khổ đau, phiền não và luân hồi –thế
giới của sinh tử?
Có con đường để đi đến đó. Khi nói đến ‘Con Đường’, nhiều người bị
dị ứng. Có thể họ nghĩ rằng
người nói đang có mục đích vụ lợi, đang muốn đả phá mọi thứ trên
đời, nên họ nói, “Nếu đó là con đường duy nhất thì chúng tôi chưa
sẵn sàng để đi theo nó”. Khi chúng
ta muốn đi đến thành phố W. thì cũng có nhiều cách để đến đó. Ngày nay đi bằng máy bay là nhanh
nhất. Ở những thời điểm khác,
người ta có thể dùng xe, thuyền hay chỉ với đôi chân của mình. Nhưng dù phương tiện di chuyển bằng gì,
chúng ta vẫn phải đi hết quãng đường mới tới được thành phố W. Điều quan trọng là chúng ta đến được
đích –dầu nhanh hay chậm. Do đó,
“Con đường” có nghĩa là “Con đường Chánh niệm” đưa ta vượt qua quãng
đường để đến đích.
Tuy nhiên, ở đây con đường Chánh niệm
không nằm trong không gian địa lý nào. Nó nằm ngay nơi tâm ta. Chúng
ta phải thể hiện một số việc. Sự
thể hiện đó cũng là “Con đường” –con đường vung trồng tâm để ta hoàn
thành cuộc hành trình. Vung trồng
tâm có nghĩa là pháp hành chánh niệm. Khi chánh niệm vắng mặt, khi chúng ta không luôn tỉnh thức, thì
chúng ta bị những chuyện khác lôi cuốn. Chúng ta bị nhấn chìm trong bao phiền não. Chúng ta không thể nhìn sự vật như
chúng là. Để có thể đến được
đích, chúng ta cần hiểu rõ mình đang ở đâu. Sự hiểu biết rõ ràng đó là do chánh
niệm mà có. Những thứ khác chúng
ta làm hay những phương cách khác mà chúng ta hành theo đều có mục
đích riêng của chúng. Chúng ta biết
là chúng không giúp thanh lọc được tâm ta.
Chính thuật ngữ Thiền cũng có nghĩa
là vung trồng. Khi nói, “Chúng ta vung
trồng một mảnh vườn”, ai cũng đều hiểu ý nghĩa của việc đó. Chúng ta biết là phải có đất đai, có
phương tiện trồng trọt. Chúng ta
phải làm một số việc như chặt cây để khẩn hoang đất, nhổ sạch cây
cỏ dại, cày xới đất nhiều lần trước khi có thể bón phân. Sau đó chúng ta có thể bỏ giống, vung
trồng cho đến khi được mùa hái quả. Việc hành thiền cũng giống như thế, chúng ta cũng cần vung
trồng tâm ta. Chúng ta không ngồi
một chỗ để đợi điều gì đó sẽ xảy ra. Chúng ta có thể nói rằng mình đã dành nhiều thời gian hành
thiền. Nhưng ngồi một chỗ không làm
gì thì không phải là hành thiền. Và chỉ theo dõi hơi thở thôi cũng chưa đủ. Dĩ nhiên, chánh niệm về hơi thở là một
phần quan trọng của việc hành thiền. Nhưng chỉ theo dõi hơi thở mà không có chút chánh niệm nào có
thể được gọi là pháp hành thiền chỉ, nhưng đó không phải là Chánh
Định. Tuy nhiên, chúng ta cũng bắt
đầu bằng cách theo dõi hơi thở. Phương cách hành thiền chỉ có trong Phật giáo này được gọi là
thiền Vipassana hay thiền tuệ. Có
nhiều hướng dẫn trong phương pháp hành thiền Vipassana. Những lời hướng dẫn này có thể thấy
trong kinh Tứ Niệm Xứ.
Bốn phạm trù chánh niệm là: niệm
thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp. Chúng ta sẽ lần lượt giải thích sau đây.
Trước hết hãy nói về niệm thân. Niệm thân được chia làm sáu phần. Đầu tiên là hơi thở. Tại sao hơi thở lại được bao gồm trong
phần niệm thân? Vì hơi thở là một
phần của thân. Như chúng ta đã
biết, thân là do tứ đại hợp thành: đất, nước, gió và lửa. Do đó khi chúng ta muốn niệm thân thì
cần bắt đầu bằng hơi thở là một thành phần của gió.
Khi hành pháp thiền này, chúng ta không trú trong một miền đất
thần tiên nào. Chúng ta không cố
gắng để tự thôi miên. Không cố gắng
để lý giải những yếu tố tiềm ẩn, huyền bí trong vũ trụ. Không cố gắng để hòa vào trong vũ trụ,
để trở thành ‘nhất thể’ với vũ trụ. Tất cả những thứ đó chỉ là sáo ngữ. Chúng ta chỉ cố gắng sử dụng ngay
chính thân và tâm của mình. Chúng
ta quán niệm thân, tâm, và các hành của chúng. Chúng ta quán sát chúng vì chúng luôn
theo ta như bóng với hình. Thân và
tâm này là phòng thí nghiệm của ta. Tất cả mọi thứ ta cần đều đã có ngay nơi đó –nguyên liệu thô,
thành phần hóa chất, gas, nhiệt, nước, gió –tất cả đều ở đây. Trong thân này, trong tâm này, ta có tất
cả ở nơi đây. Phòng thí nghiệm đó
là thân và tâm này. Chúng ta cần
phải luôn quán sát chúng trong ta. Tôi không thể làm việc trong phòng thí nghiệm của người
khác. Mỗi người phải làm việc
trong chính phòng thí nghiệm của mình. Nhưng phần đông chúng ta bỏ quên phòng thí nghiệm của mình mà
lại cố tìm cách len vào phòng thí nghiệm của người khác. Chúng ta quán sát xem người này làm
gì, người kia ăn gì, người nọ giao tiếp với ai, đi đâu, đọc gì, có
bao nhiêu tiền, vân vân và vân vân. Chúng ta luôn quên phòng thí nghiệm của bản thân. Có thể chúng ta còn không bao giờ biết
trong phòng thí nghiệm của mình có gì nữa. Nhờ vào pháp hành thiền tuệ, chúng ta
sẽ biết quay vào bên trong, quán sát những gì đang xảy ra ngay nơi thân
và tâm này, ngay giây phút này, một cách cẩn thận và đầy chánh niệm. Thiền Vipassana là như thế đó; là sự
quán sát một cách hệ thống trong phòng thí nghiệm của bản thân.
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Nguồn:
Bhavana Society, USA, http://www.bhavanasociety.org, 2003)
Discussion about this post