HẠNH NGUYỆN
Đức Bồ Tát Quán
Thế Âm
Đại-lãn
Hiện tướng bản thể vũ
trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất
hòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mười
đầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay,
kẻ đó không biết được hòa âm vũ trụ trong trò chơi này. Nói thế không có nghĩa
là bản thể vũ trụ ở trong tình trạng phân sáp làm đôi vàđối lập nhau; nhưng nó
chỉ là một. Tuy thế, về mặt tùy thể, chúng ta nhìn bản thể vũ trụ như là một
phức thể, tùy theo kiến giác của mỗi chúng ta. Vì tùy thể này, nói lên được sự
hiện hữu của duyên nghiệp trong mỗi chúng ta đang ở trong tình trạng sinh khởi,
nối tiếp và ràng buộc vào nhau, mà hiện ra các khổ tướng báo thân có sai khác.
Nhưng về mặt nhất thể , thì hiện tướng chính là bản thể, và bản thể chính là
hiện tướng.
Do đó, cuộc đại hòa âm,
hay bất đại hòa âm trong vũ trụ, cũng tùy theo đó mà hiện hữu như một thực tại
giữa chúng ta, không thể không chấp nhận. Vì kẻ biết được hay không biết được
trò chơi cùng đang nằm trong quỹ đạo của ý niệm, nhưng khi ý niệm vừa khởi lên,
liền sau đó phát hiện ra âm thanh hoặc tương đồng hoặc tương khắc với với thế
giới âm thanh bên trong hay bên ngoài. Tuy nhiên trong thế giới ngũ trược này,
hầu hết chúng sanh đã mang vào trong mỗi tướng thể một khổ quả nào đó, cùng nằm
trong một cộng nghiệp không thể tránh khỏi luật tắc luân hồi, đã mang và sẽ đưa
chúng sanh vào con đường khổ. Chính vì khổ ngiệp của chúng sanh đang vây khổn
mà các đức Phật Thế tôn cùng các vị Bồ tát xuất hiện ra thế gian này, với hạnh
nguyện đại từ, đại bi, ban vui cứu khổ cho mọi loài. Cùng ở trong hạnh nguyện
đó, sự xuất hiện của Bồ tát Quán Thế Âm được các kinh công nhận là độc đáo nhất
trong hạnh nguyện của các vị Bồ tát. Ngài đã chứng ngộ bằng âm thanh qua nhĩ
căn viên thông, và lấy âm thanh là tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tất
cả chúng sanh. Với danh hiệu Đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn Quán Thế
Âm Bồt tát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa hạnh nguyện đó.
Trong nhiều bộ kinh, có
nói về đức Quán Thế Âm Bồ tát; nhưng chúng ta không thấy đề cập đến phương pháp
chứng ngộ của Ngài. Duy bộ kinh Lăng Nghiêm có đề cập đến sự chứng ngộ ấy, kinh
Lăng Nghiêm trực chỉ ghi rõ rằng: Sau khi đức Thế tôn gạn hỏi chỗ sở chứng của
24 Thánh đệ tử xong, đến lượt Bồ tát Quán Thế Âm bày tỏ chỗ sở chứng của mình
như sau: ” Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: Tôi nhớ là: hà sa số kiếp về
trước, có một vị Phật hiệu là Quán Thế Âm; vị Phật đó dạy tôi muốn vào chánh
định thì phải theo nghe-nghĩ-tu. Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyên
biến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ
duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tướng động
và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên như vậy, thì nghe và đối tượng bị nghe
đều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tượng của bị giác đều không khi
không giác đã tròn đầy, thì không và đối tượng .không đều diệt. Khi sinh và
diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt.” Thế giới phơi mở
trước chúng ta như là một hiện hữu, vượt khỏi không gian thời gian. Cảnh giới
này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vô
vi. Cảnh giới này trên đồng với Như Lai một từ lực, dưới hợp với tất cả chúng
sanh trong sáu đường, và đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng.
Đến đây, chúng ta thấy
hạnh nguyện của Quán Thế Âm trong kinh Lăng Nghiêm cùng kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ
Môn, gặp nhau trong lòng bi ngưỡng đối với chúng sanh đại thể. Nhưng về ý nghĩa
danh từ có sự khác nhau. Trong kinh Lăng Nghiêm ý nghĩa luôn luôn ở trong chiều
hướng phản phục cái nghe nơi tự tánh. Như vậy, cái nghe ở trong chiều hướng
nội. Một khi tâm đã phản phục, thời cảnh sở quán sẽ không còn, nên không có sự
đối đãi giữa năng và sở nữa. Lúc đó Như lai tạng tâm sẽ hiển bày ra trước mắt.
Lúc đó tâm năng văn và cảnh sở văn sẽ tiêu tan dung hội. Như vậy kinh Lăng
Nghiêm lập cứ trên nhân hạnh mà gọi là Quán Thế Âm. Ngược lại trong kinh Pháp
Hoa, phẩm Phổ Môn lại lập cứ trên quả đức để hiển nghĩa, thì Âm chính là tiêu
đích của văn tầm cứu. Dù là tịch thinh hay là động thinh, nghe của Quán Thế Âm
Bồ tát cũng thấu suốt tất cả. Âm thinh từ trạng thái tâm lý đến lúc phát ra
ngoài, phải qua một tiến trình chuyển động của cơ thể. Có sự liên hệ giữa một ý
niệm khi phát khởi, và các sợi thần kinh liên hệ chuyển động để thoát ra ngoài
cửa miệng, lúc đó mới tạo thành âm thanh thật sự. Âm thanh này sẽ dàn trải ra
vô tận, và sẽ tạo thành âm thanh sống của vũ trụ. Trong những biến động tiếp
giao này, cùng với những âm thanh khác, sẽ tạo ra những điệu hòa âm, hay bất
hòa âm, tùy theo lối dung nạp của mỗi âm thanh từng người, từng loại chúng
sanh. Ở đây trạng thái tịch thanh không tự hữu, mà chỉ hiện hữu trong mỗi
người, mỗi sự vật, chính ngay trong ý niệm, trong mặc thức, không phát ra bên
ngoài, hay chưa khởi phát ra ngoài, nhưng nó có tác động của tâm thức can thiệp
vào. Ở đây, còn gọi là tâm thanh, là tiếng nói của tâm.
Vậy, âm là biểu tượng ý
nghĩa cuộc sống, thế giới ngoại tại của chúng sanh trong pháp giới duyên khởi
này chính là hiện tướng của nghiệp tướng vô minh con người đang lôi kéo con
người trong bể khổ sanh tử luân hồi. Những khổ đau tai nạn của kiếp người, cùng
tiếng kêu gào van xin, cầu cứu của chúng sanh trong bể khổ đã làm cho nguyện
lực độ sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm phát sinh. Ngài đã cùng nhĩ căn viên thông,
thường xuyên quán sát và nghe tiếng cầu cứu của chúng sanh, tùy theo căn cơ của
từng loại mà Ngài hóa độ, cứu vớt .
Ở đây, về ý nghiã danh
xưng, chúng ta thấy sự khác biệt giữa kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa trong
lòng bi nguyện của Ngài. Một đàng hướng nội nghe bản thể tự tánh, tức là Như
Lai tạng tâm và đó cũng chính là bản thể của chúng sanh, của vũ trụ mà lập cứ
(theo nhân hạnh) để cứu vớt; một đàng hướng ngoại nghe quả khổ của chúng sanh,
cùng tiếng cầu cứu mà lập cứ (theo quả đức) để cứu vớt . Nếu căn cứ nơi nhân và
quả để hiểu thì làm sao có sự gặp gỡ hạnh nguyện giữa Kinh Lăng Nghiêm và kinh
Pháp Hoa trong lòng bi nguyện của Ngài? Đó là câu hỏi cần đặt ra và cần giải
đáp. Sự xuất hiện của Ngài vì lòng bi ngưỡng vô úy, cùng với chúng sanh cùng
một thể tánh. Ngài đã mang danh hiệu Đại Từ Đại Bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn
Quán Thế Âm Bồ Tát, nói lên lòng bi ngưỡng vô úy đó . Lòng bi ngưỡng vô úy mà
chúng sanh đã đánh mất, thay vào đó lòng sợ hãi. Chính vì lòng sợ hãi mà con
người luôn ở trong tình trạng lo đối phó, nhưng đối phó với phương pháp chạy
trốn thực tại, tìm cách né tránh với tương lai . Mà tương lai là những gì chưa
xảy đến với họ hay sẽ không xảy đến. Vì sợ hãi lo âu nên con người tự đánh lừa
chính mình và dần dần trở thành vong thân. Từ đó thần thánh, ma quỷ, Thượng đế
được xuất hiện bởi con người và do con người đặt ra, con người lấy đó làm nơi
nương tựa. Cuộc sống của chúng ta đầy dẫy những biểu tượng, biểu tượng của sợ
hãi, do đó chúng ta đã tự đánh mất bản tính vô úy của ta. Con người không dám
nhìn thực tại, không dám nhìn vào chính mình, không dám sống với thực tại, luôn
luôn sống với tương lai; mà tương lai là những gì ảo tưởng. Con người luôn tìm
cách nắm bắt những ảo tưởng đó để rồi thất vọng đau khổ .
Trong truyền thống triết
lý siêu hình Tây phương, vì sự sợ hãi này mà Thượng đế xuất hiện. Thượng đế đã
được lý trí con người đặt ra để tôn thờ謠là nơi tương tựa của những con người yếu bóng
vía, đầy lòng sợ hãi với hiện tại, với tương lai. Tự đặt con vào sự cứu rỗi của
Thượng đế, tự họ đánh mất bản tánh của họ . Họ làm nô lệ cho một Thượng đế bên
ngoài, họ đã vong thân và Thượng đế thần thánh đã ngự trị, chi phối cuộc sống
họ. Kể từ Socrates mãi cho đến Athur Schopenhauer, giai đoạn này Thượng đế đã
được đề cập đến nhiều, nhất là thời kỳ trung cổ, thời kỳ kinh viện, Thượng đế
được coi như là thần linh, ban phước giáng họa và mãi đến Hegel .
Hegel đã quan niệm:
Thượng đế là một nhân cách hóa của con người và con người là nhân cách của
Thượng đế. Thượng đế chính là ý niệm tuyệt đối . Ông giải thích Thượng đế của
ông theo sách Sáng Ký và ba ngôi của Ky Tô giáo bằng biện chứng pháp của ông
theo ba tiến trình; đề, phản đề, tổng hợp đề . Ông bảo rằng : “Chính
Thượng đế đã vong thân, Thượng đế đã đẻ ra hình ảnh Ađam và Eva nơi vườn địa
đàng, và chính Adam và Eva đã phản lại lời dặn dò của Thượng đế khi nghe lời dụ
dỗ con rắn (tượng trưng cho ác quỷ sa tăng) mà ăn phải trái cấm thiện ác, để rồi
từ đó về sau con người mắc phải tội tổ tông (nguyên tội) và bị đày đọa trong
khổ đau, càng khổ đau con người càng tạo nên tội lỗi. Để chuộc lại tội lỗi này,
Thượng đế đã cho Jésus giáng thế, và bị đóng đinh trên cây thập tự giá, để chịu
tội cho thế gian; khi đó con người trở lại trạng thái ban sơ nơi vườn địa đàng.
Để rồi ông kết luận Thượng đế là con người và con người là Thượng đế. Đó là
giai đoạn chung cuộc của lịch sử tương lai .
Từ Hegel đến Schopenhauer,
quan niệm Thượng đế thay đổi dần và biến mất từ Schopenhauer . Với quyển
“Vũ trụ như là ý lực”, ông đã phủ nhận Thượng đế. Ông là người đầu
tiên mang truyền thống Đạo học Đông Phương thổi vào Âu Châu một luồng sinh khí
mới mẻ, và mạnh mẽ nhất là Nietzsche với chủ trương “con người siêu nhân”
và ông đã nói; “Thượng đế đã chết” (Das Got Isto). Như thế Thượng đế
thực sự đã vắng mặt trên thế gian này. Mãi đến Heidegger, danh từ Thượng đế
không còn được nhắc đến nữa. Nền siêu hình học hiện đại mà người đại diện cho
nền triết lý Tây Phương là Heidegger đã không nhắc đến một Thượng đế nào, ông
chỉ đề cập đến tính thể của hiện thể tại thế (Dasein) của con người mà thôi .
Những vấn đề xa xôi chưa đến trong tương lai, không phải là vấn đề bận tâm của
ông. Ông chỉ biết hiện tại, sống với hiện tại, tìm ra những vấn đề liên hệ giữa
con người với con người, giữa cuộc sống và con người cùng sự hiện hữu chính
mình. Theo ông đó là những bâng khuâng của con người, cần phải tìm ra sợi dây
liên hệ đó. Có thế con người mới làm chủ được chính mình và làm chủ được cuộc
sống; lúc này con người sẽ không còn sợ hãi nữa, họ sống một cách bình thản
chấp nhận tất cả dù là cái chết đi nữa, cũng không sợ sệt, vui cười với cái
chết. Họ đã đến gần Đông phương với tinh thần vô úy.Nhưng đó chỉ là một thiểu
số có tinh thần thượng thừa, đã nhìn ra được trò chơi của vũ trụ trong suy
niệm. Họ đã chấp nhận hiện tại và sống với hiện tại, chơi với hiện tại bằng một
thái độ lì lợm, kiêu hãnh với chính mình mà không bao giờ sợ hãi .
Discussion about this post