KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 13)
Pháp
Sư Tịnh Không
Nguyện
thứ tư, “Sám hối nghiệp chướng”
Trước
tiên chúng ta phải nói rõ cái gì gọi là nghiệp chướng. Nghiệp là tạo tác, không
những làm ác có chướng ngại mà làm thiện cũng có chướng ngại. Làm ác quả báo
của bạn ở ba đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; nếu làm thiện, quả báo của bạn
ở ba đường thiện: cõi trời, cõi người, cõi A Tu La. Tóm lại một câu, bạn không
thể ra khỏi ba cõi, vậy chúng ta phải làm thế nào? Phật dạy chúng ta tu tịnh
nghiệp, đoạn tất cả ác tu tất cả thiện, không chấp trước, đó chính là tịnh
nghiệp. Chấp trước thì nghiệp này không tịnh, liền sanh chướng ngại, cho nên
nghiệp là tạo tác. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện nói rất hay, chúng ta không
thể không thừa nhận, kinh Phật nói: “chúng ta Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm
đều là đang tạo tội”. Vì sao? Bạn thử nghĩ xem, có chúng sanh nào khởi tâm
động niệm mà không vì “cái ta”. Ta chính là tội, ta chính là nghiệp. Mỗi
niệm đều vì ta. Có lẽ đối với đồng tu mới học, nghe được cách nói này trên Phật
kinh sẽ không cho là việc gì, từ xưa đến nay trong nước ngoài nước, có người
nào mà chẳng vì cái “ta”. Dân gian Trung Quốc còn có câu ngạn ngữ: “Người
không vì mình trời tru đất diệt”. Dường như khởi tâm động niệm vì ta được
mọi người cho rằng đó là lý đương nhiên, không vì ta thì còn có thể được xem là
người sao? Không sai! Không vì ta không được xem là người. Họ là Phật, là Bồ
Tát, họ tuyệt đối không phải người. Cho nên khi vừa vì “ta” thì đó mới
chân thật là người, người của sáu cõi không thể nào ra khỏi.
Vì
sao Phật phải nói cách nói này, chúng ta phải hiểu rõ ý của ngài. Phật nói: “Tất
cả chúng sanh thật có chân ngã”, cái thân này là giả, không phải chân ngã.
Cái giả mới luân hồi trong sáu cõi, còn chân ngã thì nhất định không luân hồi.
Không những không luân hồi sáu cõi mà ngay đến mười pháp giới cũng không có.
Chân ngã ở nơi đâu? Chân ngã ở nơi pháp giới Nhất Chân. Trong đại kinh nói,
Phật có ba thân, mỗi người chúng ta cũng đều có ba thân, bản thể của thân chúng
ta là pháp thân. Cho nên kinh Phật nói “Mọi người tu hành tu đến trình độ
tương đối liền chứng được pháp thân thanh tịnh”. Pháp thân thanh tịnh mới
thật là ta. Thiền Tông thường nói “Bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”,
cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra đó chính là pháp thân thanh tịnh,
kinh Hoa Nghiêm gọi là Tỳ Lô Giá Na Phật. Tỳ Lô Giá Na không phải là người, mà
là chân ngã của chính chúng ta. Thân thật của chúng ta gọi là Tỳ Lô Giá Na.
Tỳ
Lô Giá Na là tiếng Phạn, ý nghĩa của nó là “trùm khắp mọi nơi”, không
lúc nào không có, không nơi nào không có. Nếu ngay nơi đây không có chân ngã
thì cái thân giả này cũng không thể hiện tiền. Giả tướng nương vào chân ngã mà
sanh ra. Cái ngã này là thể, là tánh. Nương vào tánh thể chân thật mà hiện
tướng. Cho nên cái chân ngã nhất định có, bởi vì tất cả chúng sanh mê mất đi
chân ngã mới biến thành phàm phu. Mê mất không phải thật đã mất đi mà đó chỉ là
mê mất mà thôi, vì sao mê? Đem cái tướng giả này từ trong thể tánh chân thật
hiện ra những giả tướng. Kinh Hoa Nghiêm nói: “duy tâm sở hiện”. Tâm đó
là thật, chân tâm chính là chân ngã, pháp thân hiện ra giả tướng. Bạn chấp vào
cái tướng, hư là hư ở chỗ này. Hiện ra giả tướng nhưng bạn không biết nó là giả
tướng. Bạn chấp trước giả tướng và cho nó là thật, như vậy đồng nghĩa đem chân
tánh bỏ đi, đem giả tướng xem thành thật. Bạn phân biệt, chấp trước nên mới đem
nhất chân chuyển biến thành hoàn cảnh phức tạp, biến thành mười pháp giới,
thành sáu cõi, thành ba đường, vì sao biến đổi? Duy thức sở biến. Kinh Hoa
Nghiêm nói cụ thể: “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là thức”.
Hiện tại chúng ta thảy đều có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên cái
pháp giới Nhất Chân liền biến thành sáu cõi luân hồi.
Nếu
ở trong ba loại, chúng ta chỉ đoạn một loại, bỏ chấp trước, tức là trong tất cả
pháp thế gian pháp, xuất thế gian pháp, đích thực đều không có chấp trước, xin
thưa với các vị, sẽ không có sáu cõi. Sáu cõi chính là chấp trước biến hiện ra.
Chấp trước không còn, bạn liền siêu việt sáu cõi. Vì bạn còn có tâm phân biệt
quan hệ nặng nhẹ cho nên còn có pháp giới bốn thánh “Thanh Văn, Duyên giác,
Bồ Tát, Phật”. Tâm phân biệt của bạn rất nặng thì bạn là Thanh Văn, Duyên
Giác; tâm phân biệt của bạn rất nhẹ thì bạn là pháp giới Bồ tát, Phật. Mười
pháp giới do đây mà ra. Khi phân biệt không còn thì siêu việt luôn mười pháp
giới, bạn mới có thể “Phản bổn hoàn nguyên. Phản phác qui chân”. Chỗ này
gọi là vào pháp giới Nhất Chân.
Trong
pháp giới Nhất Chân, vị thứ của Bồ tát cũng không đồng nhau. Kinh Hoa Nghiêm
nói, 41 vị pháp thân đại sĩ, Phật, Bồ Tát, có trình độ cao thấp được chia thành
41 đẳng cấp. 41 đẳng cấp này từ đâu mà ra? Từ vọng tưởng. Người trong pháp giới
Nhất Chân còn có vọng tưởng, thế nhưng các vị phải biết, họ không có phân biệt,
không có chấp trước, và vọng tưởng tương đối nhẹ. Vọng tưởng cũng gọi là vô
minh. Nếu đoạn hết vô minh, đoạn hết 41 phẩm vô minh, bạn liền chứng được quả
vị cứu cánh viên mãn, cái chân ngã của chính mình hoàn toàn hồi phục viên mãn,
“bổn lai diện mục hiện tiền viên mãn”, đó chính là Phật quả viên giáo.
Đến chỗ này chúng ta mới nghĩ đến hai câu nói trên kinh Lăng Nghiêm: “Viên
Mãn Bồ Đề, Qui Vô Sở Đắc”. “Viên mãn Bồ Đề” là hồi phục bổn lai diện
mục của chính mình, tuyệt nhiên không một chút gì bạn mới có được.
Do
đó, Phật nói với chúng ta “Khởi tâm động niệm có một chữ ‘ta’”. “Ta”
chính là chấp trước kiên cố, chỉ cần có loại chấp trước này thì bạn không thể
ra khỏi ba cõi cũng không ra khỏi luân hồi. Cho nên đó là tội, là ác. Có “ta”
chính là tội, chính là ác. Huống hồ tất cả chúng sanh còn có chấp trước nghiêm
trọng cái “của ta”, như vậy mê đã quá nặng. Bạn chấp trước thân này là
ta thì đã đủ phiền não rồi, huống hồ thêm chấp trước cái “của ta”, chẳng
hạn cái nhà của tôi, tiền của tôi, quyến thuộc của tôi…, khi xuất gia thì đạo
tràng của tôi, như vậy đáng lo không? Thân này kéo theo một đống to sở hữu thì
làm sao có thể ra được ba cõi? Phật A Di Đà dù từ bi muốn kéo bạn đến thế giới
Tây Phương Cực Lạc cũng không kéo nổi vì những thứ bạn kéo phía sau quá nặng.
Cho
nên Phật dạy chúng ta nên xả: phải buông bỏ, phải bố thí, phải xả. Trước tiên,
xả hết cái ta sở hữu, xả vật ở ngoài thân. Sau đó xả hết chấp trước. Bạn ở trên
đạo Bồ đề liền không có chướng ngại. Do đó “Khởi tâm động niệm đều đang tạo
tội”, đạo lý chính chỗ này, ngàn vạn lần không nên bị những thứ huyễn tướng
này lừa gạt. Bạn có thể thấy tường tận thấu đáo chân tướng sự thật, đó gọi là
nhìn thấu. Thế nhưng, phàm phu chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, đời đời kiếp
kiếp bị mê ngay trong những giả tướng, chúng ta phải luân hồi sáu cõi với số
lần không thể tính điếm, cho nên tập khí vô cùng sâu, phiền não nhiều đời nhiều
kiếp mang đến, nghiệp chướng nặng. Do đó Phật dạy chúng ta phải tu pháp sám
hối, tiêu trừ nghiệp chướng.
Bản
thân phiền não là chướng ngại, chướng ngại Niết Bàn, đó là phiền não chướng. Sở
tri cũng là chướng ngại, chướng ngại Bồ Đề. Niết Bàn là tiếng Phạn, ý nghĩa bất
sanh bất diệt. Chúng ta vốn dĩ không sanh không diệt, thế nhưng hiện tại có
sanh có diệt, vì bạn có thứ làm chướng ngại bất sanh bất diệt của Niết Bàn, cho
nên bất sanh bất diệt biến thành sanh diệt, vô cùng bất hạnh. Tất cả phàm phu
có sanh diệt, có sanh tử nên họ có phiền não. Khi đoạn hết phiền não thì sanh
diệt không còn. Nói cách khác, không còn sanh tử nữa, trở lại với vốn dĩ không
sanh không tử.
Sở
tri chướng là kiến giải làm chướng ngại cho trí tuệ Bát Nhã đầy đủ trong tự
tánh của bạn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức
tướng Như Lai”. Đức tướng chính là Đại Niết Bàn, không sanh không diệt.
Chúng ta có tư tưởng, có kiến giải thì trí tuệ Bát Nhã của chúng ta không còn.
Nó bị chướng ngại mất, bị vặn cong biến chất thành tà tri tà kiến. Tư tưởng
kiến giải hoàn toàn trái ngược với chân tướng sự thật bởi vì nó có thị phi nhân
ngã, có tham sân si mạn, làm cho đức tướng biến thành sanh tử luân hồi, biến
thành tướng chúng sanh của mười pháp giới. Sự thật này nếu không phải Thế Tôn
xuất thế thì không ai biết được. Tất cả các nhà tôn giáo, nhà triết học, nhà
khoa học thế gian đều không cách gì nói rõ chân tướng sự thật này. Cho nên Thế
Tôn xuất hiện ở thế gian đem chân tướng của vũ trụ nhân sanh vì chúng ta nói
rõ.
Vậy
làm thế nào để hồi phục lại bổn lại diện mục của chúng ta? Làm thế nào hồi phục
trí tuệ đức tướng của chúng ta viên mãn? Học Phật quan trọng nhất với hạnh Phổ
Hiền là phương pháp tu hành cứu cánh viên mãn. Dùng lời hiện tại mà nói, ngài
nêu ra mười cương lĩnh đối với phương pháp sinh hoạt của chúng ta, tu lễ kính
đối với tất cả chúng sanh, với người với việc với vật phải có tâm thành kính và
giữ lễ; phải biết tán thán, phàm hễ tương ưng với tánh đức, chúng ta phải tán
thán, không tương ưng với tánh đức thì không tán thán, 53 vị đồng tham ở trong
Hoa Nghiêm có thí dụ rõ ràng. Thứ ba là “Quảng tu cúng dường”, điều này
nếu chỉ giảng hai giờ đồng hồ chắc chắn không đủ. Kinh Hoa Nghiêm, chương hồi
hướng thứ sáu giảng về tài thí, pháp thí, vô uý thí, tôi giảng mất một năm thì
làm sao có thể giả. Vì chúng ta không thật hiểu, ngày ngày đọc kinh lướt qua
cho nên tu hành không biết phải bắt đầu từ đâu, cứ cho rằng mình tu không tệ,
nhưng trên thực tế cách rất xa so với tiêu chuẩn Phật đã nói.
Nghiệp
chướng tập khí của chúng ta quá nặng, chính mình phải thừa nhận, phải khẳng
định thì mới có thể thay đổi. Thay đổi thành công, công đức sẽ rất thù thắng,
thánh nhân thế gian chúng ta thường nói “Con người không phải thánh hiền thì
làm gì không lỗi”. Có lỗi mà biết sửa thì lo gì không tốt, chư Phật Bồ tát
đều tán thán, vì sao? Vì bản thân chư Phật Bồ tát trước khi thành Phật cũng có
cả vô số lỗi lầm, tuy nhiên các ngài có thể thay đổi trở thành Phật Bồ tát,
được các cổ Phật trước đó tán thán. Ngày nay chúng ta cũng có thể thay đổi tự
làm mới, đoạn ác tu thiện, tất cả chư Phật Bồ Tát đều sẽ tán thán chúng ta.
Thay đổi trước tiên ở khoá mục tu hành.
Sám
hối. Sám là tiếng Phạn, dịch âm là “sám ma”, người Trung Quốc thích đơn
giản nên bỏ âm đuôi, chỉ dùng một âm “sám”. Văn tự Trung Quốc có một từ
gần nghĩa với chữ này là “hối”, có nghĩa hối hận. Cho nên pháp sư dịch
kinh liền đem hai chữ này hợp lại gọi là “sám hối”, danh từ này được
kinh Phật gọi là Phạn Hoa hợp dịch, chữ trước tiếng Phạn, chữ sau tiếng Trung
Quốc. Ý nghĩa của chữ sám là chính mình gây lỗi lầm nhưng có dũng khí nói với
mọi người. Còn ý nghĩa chữ hối của Trung Quốc là về sau sẽ không tái phạm lỗi
lầm, cũng như nhà Nho đã nói “bất quá nhị”, lỗi chỉ một lần, không có
lần thứ hai, nếu có lần thứ hai thì phải sửa đổi, và tự làm mới, đây gọi là
chân thật sám hối.
Ngày
nay, rất nhiều đồng tu học Phật nghe đến danh từ “Phổ Hiền hạnh nguyện”,
hay “Sám trừ nghiệp chướng” thì liền nghĩ đến việc lạy Lương Hoàng Sám,
lạy Thủy Sám, mở đàn Thủy Lục, hoặc có người ở nhà lạy Đại Bi sám, Tịnh Độ sám,
Hoa Nghiêm sám, Pháp Hoa sám,.v.v… Như vậy tội của bạn có thể sám trừ hết hay
không? Giả như vừa lạy Lương Hoàng Sám, tội liền được sám trừ, vậy thì rất hữu
hiệu. Nhưng nếu sau khi lạy vẫn không thể sám trừ, thì bạn liền biết có vấn đề.
Vấn đề không phải sai ở phương pháp, Lương Hoàng Sám, Thủy Sám, tất cả những
sám nghi đều không sai vì đều do các bậc tổ sư đại đức xưa căn cứ kinh giáo mà
biên soạn ra, đó đều là tinh hoa trong kinh giáo thì làm sao sai được. Sai ở
chỗ chúng ta không hiểu ý pháp, chỉ đem sám nghi chiếu theo rồi đọc lướt. Người
xưa nói “Đau mồm rất họng chỉ uổng công”, một mặt ta tụng còn một mặt
dập đầu. Mỗi ngày có dập một vạn cái giống như giã gạo cũng không thay đổi,
không hữu dụng. Vậy phải sám như thế nào? “Tùy văn nhập quán”, tùy theo
kinh văn, thay đổi tư tưởng sai lầm của bạn, đó mới là chân thật sám hối. Người
xưa nói, sám trừ nghiệp chướng có ba loại.
Loại
thứ nhất là “Phục nghiệp sám”.
Chúng ta có thể đè tội nghiệp của mình xuống, việc này tương đối dễ dàng. Thực
tế mà nói, ngày nay chúng ta niệm câu Phật hiệu, trì danh niệm Phật, mỗi câu
mỗi chữ đều là phục nghiệp sám. Nếu lấy giáo nghĩa để giảng thì tất cả pháp môn
đều là sám hối môn. Hai chữ “sám hối” hàm nhiếp tất cả pháp môn tu học
của Phật pháp, chỉ khác nhau ở phương thức sám hối, còn phương hướng, nguyên
lý, nguyên tắc đều giống nhau. Chúng ta đều dùng “niệm Phật” để tu pháp
sám hối. Bồ tát Đại Thế Chí dạy chúng ta phương pháp niệm Phật “nhiếp hết
sáu căn, tịnh niệm liên tục”. Bạn niệm câu Phật hiệu thì công phu liền tiến
bộ, liền có thể hàng phục được nghiệp chướng của chính mình. Sau khi hàng phục
thì đới nghiệp vãng sanh. Nếu không thể hàng phục được nghiệp chướng thì dù bạn
niệm câu Phật hiệu cũng không thể vãng sanh, người xưa gọi là “Một ngày niệm
mười vạn câu Phật hiệu, đau mồm rát họng chỉ uổng công”, không thể vãng
sanh. Vì sao? Bạn không thể hàng phục được phiền não. Ta ngày ngày tạo nghiệp,
nghiệp quá khứ tạo có thể mang đi, nghiệp hiện tại tạo không thể mang đi, phải
hiểu được đạo lý này.
Công
phu Phật hiệu của bạn nếu có thể hàng phục được phiền não, pháp môn niệm Phật
của chúng ta gọi là “công phu thành khối”. Phiền não chưa đoạn, nó không
khởi tác dụng. Phiền não vì sao khởi lên? thấy việc vừa lòng, khởi lên tham ái,
tâm tham khởi. Lúc đó “A Di Đà Phật!”, làm cho tâm tham bị đè xuống, “A
Di Đà Phật” tâm tham lại bị đè xuống nữa, gọi là công phu. Hoặc gặp phải
những việc không vừa mắt, phiền não liền khởi lên, tâm sân hận khởi, thì “A
Di Đà Phật!” lại đè tâm sân hận xuống, cứ thế “A Di Đà Phật! A Di Đà
Phật!”, luôn đè nó xuống, quyết không để nó khởi tác dụng. Đây gọi là niệm
Phật. Niệm Phật không phải xướng ca, hát cho Phật A Di Đà nghe. Ngay khi trong
tâm bạn một niệm không sanh thì có thể không cần niệm Phật vì lúc đó tâm của
bạn thanh tịnh. Còn tâm vừa mới động thì nên vội vàng niệm A Di Đà Phật, làm
cho phiền não tập khí của bạn, “hỉ nộ ai lạc ái ố dục” thảy đều đè
xuống, không để nó khởi tác dụng, đây chính là phương pháp sám trừ nghiệp
chướng hàng phục phiền não.
Tịnh
Tông chúng ta pháp môn nào cũng vậy, nhà Phật thường nói “không sợ niệm
khởi, chỉ sợ giác chậm”. Niệm là phiền não khởi hiện hành, nhưng vì sao
không sợ? Bạn nhất định sẽ khởi hiện hành, vì nếu không khởi thì bạn chính là
Phật Bồ tát tái lai. Đã là phàm phu nhất định sẽ khởi hiện hành, vấn đề ở chỗ
giác nhanh hay chậm. Giác rồi thì đối trị mê, cái giác này là đại biểu pháp môn
công phu tiến bộ của chúng ta. Giác chính là câu Phật hiệu đề khởi làm cho
phiền não bị chế phục. Mọi người phải biết niệm, công phu này dùng lâu sẽ sanh
ra sức mạnh, liền được Nhất Tâm Bất Loạn.
Nhất
Tâm Bất Loạn công phu sâu cạn cao thấp rất nhiều, không chỉ Lý Nhất Tâm, Sự
Nhất Tâm. Nếu nói Sự nhất tâm bất loạn thì Tiểu thừa Tứ quả Tứ hướng đều thuộc
về Sự Nhất Tâm Bất Loạn, như vậy Sự Nhất Tâm Bất Loạn chí ít có đến tám đẳng
cấp vì Tứ quả Tứ hướng có tám đẳng cấp. Còn nếu nói theo Viên giáo Bồ Tát, Sự
nhất tâm đó chính là Bồ Tát Thập Tín Vị, từ sơ phát tâm đến thập tín có đến
mười đẳng cấp, công phu sâu cạn khác biệt không như nhau. Như vậy Lý nhất tâm
đẳng cấp càng cao hơn vì Lý nhất tâm là 41 vị pháp thân Đại sĩ. Nói cách khác,
Lý nhất tâm có 41 đẳng cấp trình độ cạn sâu không đồng nhau, đồng thời chứng được
Lý Nhất Tâm Bất Loạn. Bồ Tát Sơ trụ, Bồ Tát sơ tín vị, Bồ Tát thất tín vị, đồng
thời chứng Sự Nhất tâm bất loạn cũng không như nhau. Do đây có thể biết, công
phu thành khối của mỗi người chúng ta cũng sẽ cạn sâu không đồng nhau. Cho nên
trong cõi phàm thánh đồng cư có ba bậc chín phẩm, nếu bạn không làm đến được
trình độ như vậy thì bạn không thể vãng sanh, đó là việc chúng ta không thể
không biết.
(Còn tiếp …)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp
sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên
dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Discussion about this post