ĐỔNG
MÔNG CHỈ QUÁN
Trí
Giả Đại Sư Trước Tác
Hòa
Thượng Thích Đôn Hậu Dịch Và Tóm Tắt
Phật
Lịch 2546 – Chùa Linh Mụ Huế
LỜI
CỦA DỊCH GIẢ
Trong
các bản Chỉ Quán hiện lưu hành, tôi thấy có bốn bản:
1)
Là “Viên Đốn Chỉ Quán”, 10 quyển, do Ngài Quán Đính Chương
An (561-632) đệ tử của Ngài Trí Khải ghi.
2)
Là”Tiệm Thứ Chỉ Quán”, 30 quyển, do Ngài Pháp Thận đệ
tử của Ngài Hoài Tổ (624-697) ghi.
3)
Là “Bất Định Chỉ Quán”, 1 quyển, còn có tên là “Lục Diệu
pháp môn”, khuyết danh.
4)
Là “Đồng Mông Chỉ Quán”, 1 quyển, còn có tên là “Tiểu Chỉ
Quán hay còn gọi là “Pháp yếu tọa thiền tu tập Chỉ Quán
“do
Ngài
Trí Khải viết ra. Trong bốn bản Chỉ Quán nói trên, Đồng
Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ
thống. Nội dung lại chú trọng hoàn toàn đến thực hành,
người đọc dễ dàng lãnh hội các phương pháp tu tập. Bởi
lẽ, Trí Giả Đại Sư viết ra sau khi Ngài đã ngộ được
diệu lý của Pháp Hoa Tam Muội.
Tuy
gọi là Đồng Mông, nhưng văn bản cũng khá dài. Vì thế,
khi dịch tôi thấy cần tóm tắt để tiện cho sự học hỏi.
Nói là tóm tắt, nhưng phần chính văn thì tôi rất tôn trọng,
không dám lược bỏ cao ý của nguyên tác.
Thiền
sư TRÍ KHẢI (538-597) người Kinh Châu, tỉnh Hồ Bắc, Trung
Hoa. Ngài sinh năm Đại Đồng thứ 4 (538) đời nhà Lương (502-588)
6 năm trước khi vua Lý Nam Đế (544-548) của Việt Nam lên ngôi.
Năm
18 tuổi, Ngài xuất gia theo học với Ngài Tuệ Tư (515-577)
tu ở núi Đại Tô, Quảng Châu, tỉnh Hà Nam. được một thời
gian, Ngài lại theo Thầy đến núi Nam Nhạc, tỉnh Hồ nam.
Do vậy nên người đương thời thường tôn xưng Ngài Tuệ
Tư là Nam Nhạc Đại Sư. Ngài tham học pháp Pháp Hoa Tam Muội
và rất chuyên tâm tu tập nên Ngài đã ngộ triệt để diệu
lý Pháp Hoa Tam Muội[1]
Sau
Ngài về trú trì chùa Ngõa Quan ở Kim Lăng, tỉnh Giang Tô.
Ở đây. Ngài luôn thăng tòa thuyết pháp Kinh Pháp Hoa. Ngài
giảng kinh Pháp Hoa hay đến mức siêu tuyệt, các bậc danh
Tăng đương thời đều tỏ lời thán phục. Ngài ở chùa Ngõa
Quan được tám năm rồi về núi Thiên Thai, tỉnh Triết Giang,
lập ra Thiên Thai Tông, cho nên người đương thời thường
tôn xưng Ngài là Thiên Thai Đại Sư. Ở núi Thiên Thai gần
10 năm, Ngài vừa nghiên cứu vừa thuyết pháp Kinh Pháp Hoa.Đến
năm Quý Tî (583) nhận lời mời của vua nhà Trần[2] Ngài lại
trở về Kim Lăng trú trì chùa Quang Trạch. Ở đây suốt tám
năm Ngài vẫn thường xuyên thuyết pháp Kinh Pháp Hoa.
Năm
Khai Hoàng thứ 11 (591) đời vua Văn Đế nhà Tuỳ (581-618) Thái
Tử Tấn Vương Quảng (sau lên ngôi niên hiệu là Dạng Đế)
cung thỉnh Ngài vào cung để truyền Bồ Tát Giới cho Thái
Tử. Trong dịp này, Thái Tử tôn tặng Ngài danh hiệu là Trí
Giả Đại Sư.
Từ
sau đó, Ngài trở về cố hương ở Kinh Châu, kiến tạo chùa
Ngọc Tuyền và thường xuyên thuyết pháp Kinh Pháp Hoa Yếu
Nghĩa, cùng bộ ma Ha Chỉ Quán, (tức Đại bộ Chỉ Quán, 20
quyển của Ngài). Tới niên hiệu Khai Hoàng thứ 17 (597) Ngài
lại trở về núi Thiên Thai, rồi tịch trong năm này. Ngài
thọ 60 tuổi.
Đạo
nghiệp trước tác của Ngài còn lưu lại đến ngày nay gồm
có Tam Đại bộ (60 quyển) và Ngũ Tiểu bộ (9 quyển) cùng
nhiều trước tác lừng danh khác như Bộ Đồng Mông Chỉ Quán
mà tôi đã chọn để dịch và tóm tắt.Và như trước tôi
đã trình bày, Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất
hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành
theo “Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán” này chắc chắn
sẽ đạt được kết quả lớn lao.
Mong
rằng chư vị hành giả cố gắng học hỏi và tinh tiến thực
hành. Vì Đồng Mông Chỉ Quán không chỉ là một trước thuật
đã dẫn dắt nhiều thế hệ vào con đường giải thoát, mà
còn là một tác phẩm đã trải qua hơn 1400 năm mà vẫn còn
giữ nguyên giá trị thực tiễn siêu việt trong kho tàng kinh
điển đồ sộ của Phật giáo.
Thật
đáng lấy làm quý trọng cho tất cả mọi TăngNi, Phật tử
chúng ta.
Phật
lịch 2521
Linh
Mụ, mùa An cư
Năm
Đinh Tî 1977
Hòa
thượng THÍCH ĐÔN HẬU
PHẦN
MỘT
TỰA
Đồng
Mông Chỉ Quán mở đầu bằng câu kệ:
Chư
ác mạc tác,
Chúng
thiện phụng hành.
Tự
tịnh kỳ ý,
Thị
chư Phật Giáo.
Nghĩa
là:
Các
điều ác quyết định chớ làm,
Các
điều thiện kính cẩn vâng làm.
Tự
làm cho ý niệm thanh tịnh,
Đó
là lời dạy của chư Phật.
Toàn
bộ pháp Chỉ Quán cũng như tất cả các phương tiện tu hành
của đạo Phật, tóm lại không ra ngoài câu kệ này. Ác và
thiện chia ra có hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu ác: là những
việc làm, lời nói, hoặc ý nghĩ có tổn hại cho các loài
hữu tình. Hữu lậu thiện: là những điều có lợi ích cho
tất cả các loài hữu tình. Lợi ích và tổn hại này chẳng
những nói về hiện tại mà cón cả về tương lai nữa. Vô
lậu ác: là những điều tổn thương hoặc ngăn cản đường
tu tập giải thóat. Ngược lại, vô lậu thiện: là những
điều thuận lợi và giúp ích cho đường tu tập giải thóat.
Vì ý nghĩa Thiện và Aùc rộng rãi như thế nên phải bỏ
ác làm thiện, bao gồm hết các phương pháp tu tập của thế
gian và xuất thế gian. Lại, ý thức rất tự tại, không theo
nghiệp nên tội cũng nhiều mà công cũng lớn. Ý thức theo
tham, sân, si, phiền não thì gây nhiều ác nghiệp. Ngược lại,
ý thức ý thức theo tín, giải, hành chân chính thì chứng
được quả vị giải thoát.
Yù
nghĩa câu: “Tự làm cho ý niệm thanh tịnh”, cốt chỉ rõ người
tu hành cần làm cho ý thức luôn luôn phát sinh những ý niệm
thanh tịnh để huân tập ở đệ bát thức, phá trừ vô minh,
phiền não. Do đó ý thức càng ngày càng thanh tịnh hơn trước,
đi đến phát khởi trí tuệ, chứng vào pháp tính và thể
nhập tự tánh thanh tịnh tâm, bản lai không có ô nhiễm.
Phương
pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ
quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có
Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như. Chỉ là “tịch”, Quán
là “chiếu”, hai pháp đó hổ tương cho nhau, không bao giờ xa
lìa nhau. Chỉ là nguyên nhân phát sinh thiền định. Quán là
nguyên nhân phát sinh trí tuệ. Hai phép Chỉ và Quán như hai
cánh của một con chim. Nếu thực hành riêng một phép thì
dễ sa vào tà kiến. Trong Kinh có câu: “Hàng Thinh Văn định
nhiều huệ ít nên không thấy Phật tánh, Thập Trụ Bồ Tát
huệ nhiều định ít, nên tuy thấy Phật tánh mà không tỏ
rõ; chỉ có Chư Phật Như Lai định huệ cân bằng mới thấy
được Phật tánh rõ ràng. “Vì thế tất cả những người
tu hành đê?u nên phát tâm thực hành Chỉ Quán.
PHẦN
HAI
ĐẦY ĐỦ
CÁC DUYÊN
Khi
muốn phát tâm thực hành Chỉ Quán, hành giả nên có đủ
năm duyên sau đây:
1).
Giữ
giới thanh tịnh:
Giơí
luật của Phật cốt để ngăn ngừa những điều xấu ác,
nếu không giữ giới mà làm các điều xấu ác thì căn bản
thân tâm đã trái với Phật Pháp, dầu có tu tập cũng không
đem lại kết quả. Nên hành giả côùt phải giữ trọn vẹn
các tịnh giới: sát, đạo, dâm, vọng. Cương quyết không
giết hại, nhất là người, không trộm cắp, không dâm ô
(nếu cư sĩ thì không tà dâm) và không đại vọng ngữ – chưa
ngộ đã nói ngộ- chưa chứng đã nói chứng. Trong lúc chưa
phát tâm tu tập, nếu có hủy phạm điều nào thì cần phải
chí tâm sám hối, thề trước Tam Bảo quyết không tái phạm.
2)
Ăn
mặc vừa đủ:
Chúng
ta hiện ở trong đời mạt pháp, không có khả năng hoàn toàn
theo đúng nghi thức ăn mặc trước kia, nhưng cốt nhất cần
phải biết đủ, an chỉ cần no, mặc chỉ cần ấm, không
tham cầu những miếng ngon vật lạ và cũng không tích trử
của cải quá nhiều, làm cho tâm thêm loạn động. Nói thế
nghĩa là: người tu hành chỉ cần có Ba y đủ dùng là được.
Vấn đề ăn uống thì hoặc nhờ đàn việt đưa cơm đến
cho, hoặc nhờ Tăng chúng cho ăn theo lối tịnh thực trong chùa.
Việc ăn mặc tuy nhỏ, nhưng cũng cần phải bố trí trước
đầy đủ mới có thể an tâm tu tập.
3.
Ở
chỗ vắng lặng:
Thực
hành Chỉ Quán thì nên ở chỗ vắng lặng, không nghe nhiều
tiếng động để tâm khỏi phân tán. Nếu là cư sĩ, hoàn
cảnh không cho phép thì cũng nên ở một phòng riêng, không
có người qua lại.
4.
Nghỉ
các công việc:
Muốn
chuyên tâm tu tập Chỉ Quán, hành giả nên nghỉ hết các công
việc khác, chẳng những nghỉ hết các việc làm ăn, các việc
vãng lai, thù tạc, mà cũng nghỉ cả các việc viết chép,
hội họa.. Cho đến các việc học hỏi, đọc tụng. Nghỉ
tất cả công việc như thế là để cho việc hành đạo được
chuyên cần, tránh khỏi tán loạn.
5.
Gần
gũi thiện tri thức:
Thiện
tri thức có ba hạng:
Những
vị thiện tri thức ngoại hộ, chăm lo cúng dường phục vụ
người tu hành mà không làm cho loạn tâm.
Các
vị thiện tri thức đồng tu, khích lệ nhau tu hành, không quấy
rối nhau.
Các
vị thiện tri thức chỉ dạy, với kinh nghiệm dùng các phương
tiện tu hành, chỉ dạy cho khỏi các điều lầm lạc.
PHẦN
BA
ĐỐI TRỊ
NGŨ DỤC
Ngũ
dục nhiều nơi giải thích là: tài, sắc, danh, thực, thụy.
Nghĩa là ham muốn của cải, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon
và ngủ nghỉ. Trong bản Tiểu Chỉ Quán này được giải thích
là ham muốn năm điều: sắc, thanh, hương, vị và xúc của
thế gian. Những sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon
và những cản giác êm dịu thường phỉnh gạt tất cả phàm
phu, khiến lòng say đắm và đưa đến phạm nhiều tội lỗi,
nên người tu hành quyết không gần gũi các điều đó. Thế
gọi là đối trị ngũ dục. Trong luận Ma-ha-diễn có nói:
“chúng sanh thường bị ngũ dục quấy phá mà vẫn tham cầu
không chán, khi cầu đã được điều này, lại muốn điều
khác, như lửa thêm củi ngày càng bốc cháy.” Người tu hành
nên quán sát ngũ dục không có gì vui, như cho? gặm xương
khô, ngũ dục thêm sự tranh giành như quạ giành thịt thúi,
ngũ dục đốt người như lửa, hại người như rắùn độc,
ngũ dục không thật, như cảnh chiêm bao, ngũ dục không lâu,
như tia sáng đá lửa. Người có trí suy xét thì thấy ngũ
dục là giặc, là thù; những kẻ ngu muội lại tham đắm ngũ
dục đến chết không thôi. Làm tôi tớ cho ngũ dục, về sau
phải chịu khổ não khôn lường. Xét như thế, người thực
hành Chỉ Quán cương quyết đối trị và xa rời ngũ dục.
PHẦN
BỐN
TRỪ BỎ NGŨ
CÁI
Trước
nói ngũ dục là năm điều ham muốn do ngoại trần phát sinh,
nay nói ngũ cái là những ý niệm không tốt che lấp tâm thức,
không thấy được sáng suốt.
Ngũ
cái là: tham dục, sân nhuế, thụy miên, điệu hối và nghi.
1)Tham
dục cái:
Là
sự che lấp do lòng tham muốn.
Phàm
phu chẳng những tham muốn ngoại cảnh hiện tiền mà cả trong
lúc ở một mình, cho đến trong lúc tọa thiền, cũng nhớ
lại những cảnh ưa thích mà sinh lòng ham muốn.
Người
tu hành cần suy xét rằng: sống theo đạo Phật là cốt để
được giải thoát khỏi các sự ràng buộc thế gian, nếu
tâm còn ham muốn những điều ngũ dục trong thế gian thì quyết
không giải thóat được. Các điều ngũ dục, lúc chưa được
mà cầu cũng khổ, khi được rồi thì lo sợ nhiều điều
và đến khi mất thì buồn rầu tức bực, thật không có gì
đáng gọi là vui. Các người tu theo ngoại đạo, còn cố gắng
rời bỏ ngũ dục để được lên cõi trời sơ thiền, huống
nữa người tu đạo giải thoát muốn ra khỏi ba cõi mà lại
không trừ bỏ ngũ dục! Ba cõi như nhà lửa, ở trong nhà lửa
mà còn ham chơi bời thì thật là dại dột. Vì thế, người
tu hành cương quyết trừ bỏ ngũ dục, chỉ vui với thiền
định, với đạo giải thóat, chứ không vui với cái gì khác.
Người tu hành phải biết nếu buông lung lòng tham muốn thì
không rời khỏi Ba cõi được. Nếu ưa đắm sự dâm dục
thì không rời khỏi Dục giới. Nên cương quyết trừ bỏ
Tham dục cái.
2.
Sân
nhuế cái:
Là
sự che lấp do lòng hờn giận.
Kẻ
phàm phu khi có người khác chọc tức mình, hoặc chọc tức
người thân yêu của mình, hoặc khi nghe người khác khen ngợi
kẻ thù của mình thì sanh lòng hờn giận. Hờn giận rồi
sinh oán thù, làm cho tâm bực tức, rối loạn, mất sự sáng
suốt. Đức Phật đã dạy: “Diệt lòng giận thì an vui, diệt
lòng giận thì không lo. Lòng giận là cội gốc của các tội
ác, lòng giận diệt trừ tất cả hạnh lành”. Lòng giận có
những tác hại như thế, nên người tu hành cần tu pháp Từ
Bi, Nhẫn nhục để diệt trừ, làm cho tâm được thanh tịnh.
3.
Thụy
Miên cái:
Là
sự che lấp do tâm sở thụy miên. Khi trong tâm mờ tối thì
gọi là thụy, khi giấc ngủ mê man thì gọi là Miên. Vậy
thụy miên tức là thiếp ngủ. Người thế gian sau khi làm
việc mệt mỏi, cần ngủ nghiû cho lại sức để về sau có
thể tiếp tục làm việc. Người tu hành khi vào thiền định
thì tâm thức được nghỉ ngơi hơn cả lúc thiếp ngủ, nên
không cần phải ngủ nghỉ nhiều quá. Nếu trong lúc tu thiền
định mà cứ muốn thiếp ngủ thì đường tu trễ nải, không
do đâu mà giác ngộ được. Mạng người vô thường, mỗi
ngày càng đi gần đến cái chết, lẽ đâu tham ngủ mà tự
dìm mình mãi trong bể khổ, biết bao giờ ra khỏi, trong lúc
đã may mắn học được đạo giải thoát của chư Phật.
4.
Điệu
hối cái:
Là
sự che lấp do tâm sở điệu cử và tâm sở ố tác.
Điệu
cử là tâm sở kết đồng với khắp bảy thức trước, đó
là một đại tùy phiền não, làm cho móng tâm từ nơi này
sang nơi khác, không ở yên được một chỗ. Thân ưa múa men,
đi chạy, miệng ưa ngâm nga, cải cọ, ý ưa buông lung, nghĩ
việc này sang việc khác. Đó là tác dụng của Điệu cử.
Điệu cử phá người tu hành làm cho không nhiếp niệm được,
do đó không có thiền định và trí tuệ, nên cần phải trừ
bỏ.
Ố
tác là ăn năn những việc xấu ác đã làm. Người tu hành,
nếu trước có phạm tội lỗi thì cần phải sám hối, và
dầu tội nặng, nhưng khi đã thật tâm sám hối thì không
nên lo nghĩ gì nữa để cho tâm được an vui, có khả năng
tu hành theo chánh pháp. Nếu ôm lòng ăn năn mãi thì lại thành
một sự trở ngại cho việc tu tập. Lại có người tu hành
mà thắc mắc Điệu cử mà hóa ra ăn năn rồi không muốn
tu tập nữa. Tâm sở ố tác này cũng là một trở ngại trên
đường tu tập, nên phải diệt trừ.
5.
Nghi
cái:
Là
sự che lấp do lòng nghi ngờ khiến cho tín tâm không vững
chắc đối với Phật Pháp, ngăn trở sự tu tập; không có
kết quả.
Nghi
có ba thứ:
a)nghi
mình: nghi mình căn cơ thấp kém, tội lỗi nặng nề, không
thể thực hànhchỉ Quán được. Muốn trừ lòng nghi đó, cần
nêu rõ tất cả chúng sanh đều có Phật tính và nên xét hiện
nay gặp được Phật Pháp không phải là ngẫu nhiên mà là
do nhân duyên thiện căn đời trước; thiện căn đó khó mà
lường hết được. Vì thế người tu hành không nên tự khinh,
nghi mình không thể tu tập Chỉ Quán được.
b)Nghi
Thầy: Thấy vị Thầy có một vài chỗ thiếu sót mà nghi rằng
vị đó không thể chỉ dạy Phật Pháp được. Lòng nghi nầy
thường thường kèm theo với ngã mạn, rất có hại cho sự
tu tập Chỉ Quán. Phật đã dạy:” Y pháp bất y nhân”. Vị
Thầy dẫu thế nào cũng chỉ lặp lại những lời Phật dạy
mà thôi. Trong những lời Phật dạy, chỗ nào đã hiểu rõ
ràng, nhận là đúng đắn thì đó là pháp thích hợp với
căn cơ của mình, cần phải phát lòng tin chắc chắn, không
nên vì vị Thầy mà nghi hoặc.
c)Nghi
Pháp: Có người nghe được Phật Pháp, tự mình suy xét nhận
là đúng đắn, nhưng lại cứ chấp chặt những ý niệm sai
lầm của thế gian, đã tiến một bước lại lùi một bước,
không phát sinh được lòng chánh tín. Người đó nên biết
tội chướng sâu nặng của mình mà phát tâm sám hối, cố
gắng suy nghĩ học tập về Phật Pháp nhiều hơn nữa để
phát được lòng tin chắc chắn. Chỉ khi nào phát được lòng
tin chắc chắn thì trên con đường tu tập mới mong có kết
quả.
Ngũ
cái là năm sự trở ngại lớn nhất trên con đường thực
hành Chỉ Quán. Mặc dầu trần lao phiền não còn nhiều, nhưng
trừ được ngũ cái thì tâm đã yên vui thanh tịnh và có khả
năng thiết thực để tu tập Chỉ Quán.
PHẦN
NĂM
ĐIỀU HÒA
A.
LÚC
BẮT ĐẦU HỌC TỌA THIỀN, TU HÀNH CHÁNH PHÁP CỦA MƯỜI PHƯƠNG
CHƯ PHẬT:
Trước
hết phải phát Bồ Đề nguyện, nguyện độ tất cả chúng
sanh, nguyện thành vô thượng Phật đạo. Tâm phải vững vàng,
tinh tấn dũng mãnh, không tiếc thân mạng, thề nếu không
thành Phật đạo, quyết không thối chuyển.Sau đó, chính trong
mỗi một niệm thường suy nghĩ thật tướng của các pháp,
biết tất cả các pháp, nào là nội căn, ngoại trần, vọng
thức hoặc các pháp phiền não, các pháp nhân quả đều do
tâm mà có, chứ không phải thật có. Nếu tâm không phân biệt
thì các pháp vốn không có tự tánh, nếu tâm không nhiễm
trước thì thoát khỏi luân hồi sanh tử. Suy nghĩ như thế
thật kỹ càng không còn chỗ nghi hoặc nữa, mới có thể
theo thứ lớp mà tu tập Chỉ Quán.
Muốn
tu tập được kết quả tốt, hành giả cần phải chuẩn bị,
cũng như người thợ làm đồ gốm, muốn có những chén bát
hay ấm bình tốt thì trước hết phải nhồi đất cho nhuyễn,
sau đó mới bắt, nặn được các đồ dùng ấy tốt được.
Và cũng như người gảy đàn, trước hết phải so dây cho
đúng, khi gảy mới có được những âm ba vi diệu. Cũng thế,
hành giả cần phải điều hòa năm việc sau đây mới tránh
được những khó khăn, trở ngại về sau:
1)Điều
hòa ăn uống:
Ăn
uống cốt để nuôi thân cho khỏe mạnh, để có khả năng
tu tập chánh pháp. Nếu ăn quá no thì tức bụng, hơi thở
không đều, huyết mạch không thông, không thể ngồi lâu mà
thực tập được. Nếu ăn quá ít thì thân thể suy nhược,
ý niệm không vững, khó bề tọa thiền. Nếu ăn những thứ
tanh nồng thì tâm trí hôn mê, nếu ăn những vật không thích
hợp thì dễ sanh bệnh hoạn. Vì thế trong lúc tu định cần
phải thận trọng điều hòa sự ăn uống.
2.
Điều hòa sự thiếp ngủ:
Thiếp
ngủ quá nhiều thì hoang phế sự tu hành, nó còn làm cho tâm
trí hôn ám, thiện căn sút kém. Nếu ngủ quá ít thì trở
ngại cho sức khỏe. Cần nên giác ngộ sự vô thường, điều
hòa sự thiếp ngủ để cho ý niệm rõ ràng, tâm thức sáng
suốt, chứng được Tam-muội. Sinh mạng vô thường, mỗi ngày
càng đến gần chỗ chết, không nên vì nhân duyên thiếp ngủ
mà luôn bỏ việc tu hành.
3.
Điều
hòa thân thể:
Điều
hòa thân thể, điều hòa hơi thở, điều hòa tâm niệm cần
phải làm chung một lần. Lẽ ra không nên nói riêng, nhưng
đây nói riêng về điều hòa thân thể chỉ cốt để cho dễ
hiểu mà thôi. Người tu thiền, trong lúc đi, đứng, nằm,
ngồi đều cần phải điều hòa thân thể, cho thân thể được
khoan khoái, thì hơi thở mới được nhẹ nhàng. Cần ngồi
trên giường êm, như giường có mặt bằng dây đan, hoặc
có nệm lót để khỏi bị tê. Nên ngồi bán già, nếu không
kiết già được, nên mặc áo quần rộng rãi, và nới lỏng
thắt lưng, nhưng lại cần đeo dây hoặc cài kim để hạ y
khỏi tụt xuống. Sau đó để bàn tay trái lên trên bàn tay
phải rồi kéo về gần thân, và đặt trên chân cho thật cân
đối. Ngồi xuống như thế rồi uốn mình bảy tám lần, nhưng
vẫn để tay chân nguyên như cũ, cốt làm cho các khớp xương
giãn ra. Nếu trường hợp bị tê bại, thì nên ngồi ghế
nệm mềm, hai chân thỏng xuống, hạ hai đầu gối sát nhau,
và hai tay để trên hai bắp vế, rồi cũng uốn mình bảy tám
lần như thế. Phép ngồi sau này không bằng phép trước, nhưng
đối với những người tê bại thì lại có thể tác dụng
ngồi được lâu hơn. Uốn mình xong thì ngồi thẳng thắn,
xương sống không uốn cong và cũng không thẳng quá, đầu
cổ ngay ngắn, không ngữa, mặt ngó thẳng ra trước.
Thứ
nữa, nên thở ra những trược khí. Nghĩa là thở vào cho sâu,
rồi mở miệng phóng hơi ra, phóng từ từ nhẹ nhàng, không
nên thơ?i ra thành gió. Phóng trược khí như thế ba lần, và
trong lúc ấy tưởng tất cả hơi uế trược trong thân và
chỗ nào không thông suốt đều nhờ phóng trược khí đó
mà được thông suốt. Xong rồi thì ngậm miệng, môi răng
vừa dính với nhau, không bậm chặt, lưỡi thì dính lên vòm
hàm trên, mắt nhắm vừa không thấy ánh sáng mà thôi. Nên
ngồi nghiêm chỉnh như thế, thân, đầu và tứ chi tuyệt đối
không lay động. Đó là phương pháp điều hòa thân thể, cốt
yếu làm cho thân không buông lơi, không co rút. Lại cũng có
thể tập Chỉ Quán trong lúc đi, lúc đứng, lúc nằm. Đi thì
chậm rãi, khoan thai, để hơi thở được nhẹ nhàng. Đứng
thì ngay thẳng, hai tay duỗi xuống, phía sau nên dựa vào tường
hoặc dựa vào một cái gì khác để tránh lay động. Nằm
thì theo phương thức cát tường của chư Phật, cốt yếu
là phải tỉnh táo, không được thiếp ngủ.
4 Điều
hòa hơi thở:
Hơi
thở có bốn tướng: gió, suyển, khí, tức. Khi hơi thở trong
mũi ra vào có tiếng, đó là tướng gió, khi hơi thở tuy không
có tiếng, lúc ra vào còn bực tức không thông, đó là tướng
suyển. Khi hơi thở tuy không có tiếng, không bực tức, nhưng
ra vào không được nhẹ nhàng, đó là tướng khí. Khi hơi
thở không có tiếng, không ngưng kết, không thô phù, ra vào
nhẹ nhàng như không có, giúp cho ý niệm an lành vui vẻ, thì
đó mới làtướng tức.
Hơi
thở còn có tướng gió thì tâm tán loạn, hơi thở còn có
tướng suyển thì tâm ngưng trệ, hơi thở còn có tướng khí
thì tâm mệt nhọc, như thế chưa tu định được. Cần phải
giữ hơi thở luôn luôn có tướng tức thì mới đắc định.
Trong lúc tham thiền, nếu khởi sinh tướng gió, tướng suyển,
tướng khí thì biết là hơi thở chưa điều hòa; do đó không
nên quán tưởng, mà phải chú trọng điều hòa thân thể bằng
ba phương pháp:
a)Hướng
tâm ở dưới rốn.
b)Buông
lơi thân thể một ít.
c)Quán
hơi thở ra vào thông suốt cùng khắp thân thể, không có ngăn
ngại, đến khi hơi thở không rít, không trơn, tức là không
ngưng trệ, không thô phù, thì hơi thở được điều hòa và
tâm dễ vào định.
5.
Điều
hòa tâm niệm:
Điều
hòa tâm niệm có ba giai đoạn:
Trong
lúc nhập định.
Trong
lúc trụ định.
Trong
lúc xuất định.
Trong
lúc nhập định:
Điều
hòa tâm niệm có hai phương pháp:
Điều
phục những loạn tướng, không có buông lung.
Điều
khiển tâm niệm yên lành, không chìm, không nổi, không lơi,
không gấp.
Nếu
trong lúc tọa thiền tâm trí mờ tối không ghi nhớ rõ, đầu
muốn cúi xuống, đó là tướng chìm, lúc bấy giờ nên chuyên
tâm an trụ nơi đỉnh mũi, khiến tâm chú ý trong duyên, không
bị phân tán, thì trị được tướng chìm. Nếu trong lúc tọa
thiền tâm hay lay động, thân cũng không yên, nghĩ đến việc
khác ở ngoại cảnh, đó là tướng nổi, lúc bấy giờ nên
an tâm hướng xuống dưới, để tâm an trụ nơi rốn, chế
phục các loạn niệm, như thế trị được tiếng nổi và
làm cho tâm được bình tĩnh, dễ yên lặng. Nếu trong lúc
tọa thiền tâm niệm tản mác, thân muốn nghiêng ngả, hoặc
trong miệng ra nước bọt, hoặc tâm niệm tối tăm, thì đó
là tướng lơi, lúc bấy giờ cần chỉnh đốn thân thể, quán
tưởng gấp nhặt thêm để tâm an trụ torng duyên, thân thể
bình tĩnh, đó là cách trị tướng lơi. Nếu trong lúc tọa
thiền, đương nhiếp tâm quán tưởng, nhân đó tâm hướng
lên trên quá trong ngực đau nhói, đó là tướng gấp, lúc
bấy giờ nên buông lơi tâm tưởng một ít, tâm nghĩ trở
xuống và hết đau ngực, đó là cách trị tướng gấp.
Tâm
niệm còn có thể có một số tướng khác, nhưng cốt yếu
trong lúc nhập định là phải điều hòa tâm niệm, không chìm
xuống, không nổi lên, không gấp rút, không buông lơi, cho
đến không rít qua, không trơn quá thì tâm niệm sẽ được
điều hòa. Và trong lúc nhập định, phải từ thô phù, đến
tế nhị.
Thân
là thô phù, Tâm là tế nhị, Tức là ở chặng giữa. Phải
điều hòa từ thô phù đến tế nhị, khiến cho tâm được
yên lặng, đó là phương tiện ban đầu trong lúc nhập định.
Trong
lúc trụ định:
Cần
điều hòa ba việc: Thân, Tức và Tâm.
Người
thực hành trong một thời tọa thiền dài đến cả ngày, ngắn
chỉ một giờ, đương lúc nhiếp niệm quán tưởng, cần phải
khéo biết những tướng điều hòa hoặc không điều hòa của
Thân, Tức và Tâm. Nếu trước kia tuy đã điều hòa thân thể
xong, nhưng thân hoặc lơi, hoặc gấp, hoặc xiên, hoặc cong,
hoặc cúi hoặc ngửa, không được đoan chính, thì khi biết
nên sửa lại cho đúng đắn. Trong lúc tọa thiền tuy thân
được điều hòa, nhưng hơi thở lại không điều hòa, như
có tướng gió, tướng suyển, tướng khí. thì nên dùng phương
pháp trước kia để điều hòa hơi thở luôn luôn giữ được
tướng tức, nhẹ nhàng, lâng lâng, như có như không. Trong
lúc tọa thiền thân thể và hơi thở tuy đã được điều
hòa, mà tâm niệm thì lại có những tướng chìm, nổi, lơi,
gấp, khi phát hiện được phải theo những phép ở trên kia
mà điều hòa cho thích hợp.
Nói
tóm lại, trong một thời tọa thiền, Thân, Tức và Tâm luôn
luôn phải được điều hòa, xem xét đúng đắn và điều
hòa thích đáng thì tọa thiền mới được an lành, trừ được
trở ngại và dễ dàng nhập định.
Trong
lúc xuất định:
Cũng
phải điều hòa Thân, Tức và Tâm.
Người
thực hành tọa thiền xorg, muốn xuất định thì trước hết
buông tâm ra, duyên với việc khác, đoạn mở miệng phóng
hơi ra và quán tưởng hơi thở từ trong toàn thân theo ý mình
mà tản đi. Sau đó, lay động thân nhẹ nhàng, rồi động
đến vai, cánh tay, đầu cổ, tiếp đến hai chân, khiến toàn
thân mềm mại. Thứ nữa, lấy tay xoa khắp các lỗ chân lông,
rồi xoa tay cho ấm, háp vào hai mắt, sau đó mở mắt ra.
Người
thực hành đợi lúc thân thể bớt nóng, mới tùy ý ra vào
thiền định. Nếu không làm như vậy, khi ngồi, tâm có thể
được an trụ, đến khi xuất định mà quá gấp rút thì có
thể làm cho nhức đầu, đau xương, đau mình, như mắc bệnh
phong. Do đó sau này tọa thiền không được yên ổn. Vì thế,
cần phải điều hòa thân thể; hơi thở và tâm niệm trong
lúc xuất định, phải xuất dần dần, từ tế nhị đến
thô phù mà không quá gấp rút.
B.
CÁC
PHÁP MÔN PHƯƠNG TIỆN:
Phàm
thực hành Chỉ Quán, cần phải có đầy đủ Năm pháp môn
phương tiện sau đây:
1.
muốn:
Phật
dạy: “Tất cả thiện pháp lấy ý muốn làm cội nguồn”. Người
tu hành phải muốn xa rời tất cả vọng tưởng, điên đảo
thế gian, muốn được tất cả thiền định, trí tuệ, đó
cũng gọi là chí, cũng gọi là nguyện, cũng gọi là ưa, cũng
gọi là thích, người có chí nguyện ưa thích tất cả những
pháp môn tu hành nên gọi là muốn.
2.Tinh
tiến:
Tinh
tiến là siêng năng tu hành, giữ vững cấm giới, trừ bỏ
ngũ cái, đầu hôm và gần sáng chuyên tu không rời, cũng như
người dùi lửa, (người xưa lấy lửa bằng cách dùng hai
vật cọ xát vào nhau, sự ma sát tạo sức nóng cao độ thì
có lửa), chưa nóng thì quyết định không dừng nghĩ.
3.
Niệm:
Niệm
là nghĩ đến thế gian giả dối không đáng kể, nghĩ đến
thiền định rất đáng quý trọng. Nếu được thiền định
thì đầy đủ tất cả, phát sanh vô lậu trí, có thần thông
đạo lực, thành bậc vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, độ
khắp chúng sinh nên rât đáng quý.
4.
Trí
tuệ thiện xảo:
Người
tu hành trí tuê? thiện xảo là so sánh cái vui thế gian với
cái vui thiền định trí tuệ, hai bên được gì, mất gì,
bên nào khinh, bên nào trọng. So sánh như thế, người tu hành
sẽ thấy cái vui thế gian là vui ít khổ nhiều, giả dối,
không thật, dầu có mất đi cũng chẳng mất mát bao nhiêu.
Còn cái vui thiền định trí tuệ là vô lậu, vô vi, vắng
lặng, rộng lớn, xa rời sinh tử, dứt hẳn khổ não. Được
cái vui như thế thì trọng đại biết dường nào, do đó càng
vững tâm tu thiền định.
5.
Nhất
tâm:
Đã
biết niềm vui thế gian có nhiều tác hại, có nhiều khổ
não, đã biết công đức thiền định trí tuệ rất đáng
tôn quý, thì nên nhất tâm quyết định thực hành Chỉ Quán.
Tâm ấy như kim cương, dẫu cho thiên ma ngoại đạo ngăn cản
phá hoại, dẫu cho đường tu chưa đạt được gì cũng quyết
khơngthay đổi. Hành giả cần phải đầy đủ những phương
tiệïn như thế thì tâm mới quyết định, cũng như người
đi đường cần biết đường đi khó hay dễ thế nào thì
mới quyết tâm đi tới.Vì thế, trong Kinh đức Phật có dạy:
“Không có Trí thì không có Thiền, không có Thiền thì không
có Trí”.
PHẦN
SÁU
THỰC HÀNH
CHỈ QUÁN
Thực
hành Chỉ Quán có hai cách:
Trong
lúc tọa thiền
Theo
duyên đối cảnh.
1.
Thực
hành Chỉ Quán trong lúc tọa thiền:
Mặc
dầu trong bốn oai nghi đều có thể thực hành Chỉ Quán được,
nhưng trong lúc tọa thiền là thuận lợi hơn cả. Cho nên ở
đây chỉ nói riêng cách thực hành trong lúc tọa thiền.
Cách
này, tóm tắt có Năm phương pháp:
Phương
pháp thứ Nhất:
Thực
hành Chỉ Quán để đối trị những thô phù loạn động trong
lúc ban?â?u. Ng???i thực hành khi mới tọa thiền, thấy tâm
thô loạn thì cần phải thực hành Chỉ để phá trừ, nếu
phép Chỉ không pha? được thì nên thực hành phép Quán.
Thực
hành phép Chỉ có ba thứ:
a)
Buộc tâm vào một cảnh, như chuyên chú tâm vào đầu đỉnh
mũi hay vào phía trong rốn. để cho tâm không tán loạn, như
trong Kinh dạy: “Buộc tâm không phóng dật như dùng xiềng buộc
khỉ”.
b)
Áp dụng Chỉ để chế phục tâm, nghĩa là khi tâm khởi lên
thì liền chế phục, không cho buông lung tán loạn, như torng
kinh dạy: “Tâm làm chủ năm Căn, vì thế cần phải chế phục
Tâm”. Hai thứ trước đây đều là sự tướng dễ hiểu, không
cần phân tích.
c)Thực
hành phép Thế chân chỉ, nghĩa là theo tâm nghĩ cái gì, đều
biết các pháp do nhân duyên sanh, không có tự tánh, nên tâm
không chấp trước. Tâm không chấp trước thì vọng niệm
dừng nghi?, nên gọi là Chỉ. Hành giả trong lúc mới bắt
đầu tọa thiền thường theo tâm nghĩ đến tất cả các pháp,
niệm nệm không an trụ, tuy dùng phép Thế chân chỉ trên kia
mà vọng niệm không dừng nghi? thì nên trở lại quán tâm:
Tâm quá khứ đã diệt, tâm hiện tại không dừng, tâm vị
lai chưa đến, xét cùng trong ba đời, rõ ràng không nắm được
cái gì là tâm. Không nắm được cái gì là tâm thì tất cả
các pháp đều không tồn tại. Người tu hành tuy quán cái
tâm khơng an trụ, thật không có gì, nhưng lại không phải
từng sát na, từng sát na không nhận biết có niệm khởi lên.
Hành
giả lại quán tâm niệm đó, do trong có sáu căn, ngoài có
sáu trần, đối đãi v??i nhau nên có sáu thức sanh ra. Căn
trần chưa đối đãi thì thức vốn không sanh. Quán sự khởi
sanh như thế, quán sự hoại diệt như thế, thì biết sinh
diệt chỉ là danh từ, chỉ là giả lập. Khi tâm sinh diệt
đã diệt, bản tính tịch diệt hiện tiền rốt ráo không
có gì, thì khế hợp với đạo lý không tịch, và cái tâm
tự dừng nghỉ. Luận Khởi tín nói rằng: “Nếu tâm buông
lung tán loạn thì phải nhiếp thu lại, làm cho an trụ nơi
chánh niệm”. Chánh niệm đó, tức là biết chỉ có tâm, không
có cảnh giới bên ngoài và chính cái tâm đó cũng không tự
tướng, niệm niệm dời đổi, không thể nắm được. Song
người bắt đầu tu học, chưa dễ an trụ liền nơi chính
niệm, nếu đè nén quá phần, bắt tâm an trụ thì dễ phát
điên, do đó phải theo đúng chánh pháp tu tập lâu ngày thì
mới an trụ đựơc, cũng như người học bắn, tập luyện
lâu ngày bắn mới trúng đích.
Thực
hành pháp Quán có hai thứ:
a)Quán
để đối trị, như thực hành bất tịnh quán để đối trị
lòng tham dục, thực hành quán từ tâm để đối trị lòng
sân chành quán giới phân biệt để đối trị ngã chấp, thực
hành quán sổ tức để đối trị tâm tán loạn.
b)Chánh
quán, quán các pháp đều do nhân duyên giả dối sinh ra. Các
pháp duyên sanh như huyễn, không có tự tánh, đó là thật
tướng.
Rõ được nơi cảnh sở quán tất cả đều rỗng không, thì
tâm năng quán không khởi lên, như trong Kinh có bài Kệ:
Các
pháp không bền chắc,
Thường
chỉ ở trong niệm;
Đã
nhận hiểu chính không,
Thì
không còn tưởng niệm.
Phương
pháp thứ nhì:
Thực
hành Chỉ Quán để đối trị bệnh trầm và phù của tâm.
Hành giả trong lúc tọa thiền, tâm lại mờ tối, bế tắc
không tỏ, hoặc muốn thiếp ngủ thì lúc bấy giờ nên áp
dụng pháp quán để soi tỏ. Nếu trong lúc tọa thiền, tâm
lại thô phù lay động không yên, thì nên áp dụng phép Chỉ
để ngăn chận lại. Cốt yếu là hành giả cần phải biết
bệnh và dùng thuốc đối trị cho dúng không nên dùng càng,
trái với bệnh thì có hại.
Phương
pháp thứ ba:
Theo
phương tiện để thực hành Chỉ Quán. Hành giả trong lúc
tọa thiền, tuy đã áp dụng quán đối trị bệnh trầm, nhưng
tâm vẫn không yên lặng, sáng suốt và không có kết quả,
thì nên thử áp dụng phép Chi?, nê?u th??c hành phép Chỉ mà
thân tâm được yên lặng thì biết là cần phép Chỉ để
đối trị bệnh. Nếu trong lúc tọa thiền, tuy đã áp dụng
phép Chỉ đối trị bệnh phù động, nhưng tâm vẫn không
an trụ và không có kết quả, thì nên thử thực hành phép
Quán, nếu dùng phép Quán mà tâm được yên ổn thì biết
là cần phép Quán, do đó phải dùng phép Quán để trị bệnh.
Đó là lược nói tùy theo hoàn cảnh mà áp dụng pháp môn
Chỉ-Quán. Cốt yếu nên xét rõ cần pháp nào mà thân tâm
được yên ổn thì theo đó mà áp dụng.
Phương
pháp thứ tư:
Thực
hành Chỉ Quán để đối trị những tâm niệm vi tế trong
định. Hành giả trước đã dùng Chỉ Quán đối trị, phá
trừ những thô loạn, thô loạn đã dừng nghỉ thì được
nhập định, do định tâm vi tế nên cảm giác thân thể không
tịch, chịu sự khoái lạc. Lúc đó, hoặc tâm quá mãnh lợi,
có thể dùng tâm vi tế chấp những lý thiên lệch tà ngoại,
nếu không biết ngăn đón tâm ấy, trừ diệt hư vọng thì
sinh lòng tham trước, mà đã tham trước thì chấp đó là thật.
Ngược lại, nếu biết là hư giả không thật, thì những
phiền não, ái kiến không sinh, ?o? la? th??c hành phép Chỉ.
Nếu đã áp dụng phép Chỉ nhưng tâm vẫn còn vướng mắc
những ái kiến không thôi, thì nên thực hành phép Quán, quán
cái tâm vi tế trong định, nếu không thấy cái gì là tâm
vi tế trong định thì không chấp trước những kiến chấp
trong định. Không chấp trước những kiến chấp torng định
đó thì ái kiến dứt sạch, đó là thực hành phép Quán.
Phương
pháp tu tập Chỉ Quán trong lúc này cũng như trước kia, chỉ
có khác là tâm vi tế vướng mắc những kiến chấp trong định
mà thôi.
Phương
pháp thứ năm:
Thực
hành Chỉ Quán để cân bằng Định, Tuệ.
Hành
giả trong lúc tọa thiền, hoặc nhân thực hiện phép Chỉ,
hoặc nhân thực hiện phép Quán mà vào thiền định, tuy được
vào thiền định mà không có quán tuệ thì chỉ là si định,
không đoạn trừ kiết sử. Lúc bấy giờ cần áp dụng pháp
quán để cho định tuệ cân bằng thì mới đoạn được kiết
sử, chứng các pháp môn. Hành giả trong lúc tọa thiê?n, nhân
th??c hiện pháp quán mà tâm được khai ngộ trí tuệ rõ ràng;
do đó không thể cắt ly sinh tử. Lúc bấy giờ nên áp dụng
phép Chỉ, do thực hành phép Chỉ thì sẽ được định tâm,
như ngọn đèn trong phòng kín phá trừ được bóng tối, soi
tỏ được các vật. Đó là pháp môn Chỉ Quán làm cho Định
Tuệ cân bằng.
Hành
giả trong lúc toạ thiền, khéo dùng Năm phương pháp Chỉ Quán
trên đây. Lúc áp dụng Chỉ, lúc áp dụng Quán, hợp với
hòan cảnh, nên biết rằng người đó đã khéo tu Phật Pháp,
mà đã khéo tu Phật Pháp thì quyết không bỏ luống một đời.
2.
Theo
duyên đối cảnh mà thực hành chỉ quán:
Theo
duyên là theo cái duyên của sáu việc: đi, đứng, nằm, ngồi,
làm việc và nói năng. Đối cảnh là đối với sáu cảnh
trần: sắc, thinh,hương, vị, xúc và pháp. Trong mười hai việc
đó, hành giả đều có thể theo duyên, đối cảnh mà thực
hành Chỉ Quán.
Theo
duyên gồm có sáu việc:
a)
Đi – trong lúc đi, hành giả nên nghĩ rằng: ta nay vì việc
gì mà muốn đi? Nếu vì bị phiền não sai khiến hoặc vì
những việc bất thiện và vô ký thì không nên đi. Ngược
lại, nếu vì việc thiện, có lợi ích cho người như các
pháp sự thì nên đi. Nếu trong lúc đi, hành giả nhận biết
nhân có đi mà có tất cả các pháp trong lúc đi đều không
thể nắm giữ được, thì vọng niệm dừng nghĩ, đó là hành
pháp Chỉ. Nếu trong lúc đi khởi niệm rằng, do tâm làm tho
thân thể cử động nên có bước tới, gọi đó là đi, nhân
cái đi ấy mà có tất cả các pháp thiện ác, rồi trở lại
quán cái tâm đi, không thấy có tướng mạo gì, quán người
đi, các việc đi và tất cả các pháp rốt ráo đều không
tịch, đó là thực hành pháp Quán.
c)Đứng
– trong lúc đứng, nên khởi niệm rằng: ta nay vì việc gì
màmuốn đứng? Nếu vì bị các phiền não sai khiến, hoặc
vì các việc bất thiện, vô ký thì không nên đứng. Nếu
vì những việc thiện có lợi ích thì nên đứng. Nếu trong
lúc đứng, biết được nhân có đứng mà có tất cả các
pháp thiê?n a?c, ro? biê?t ca?i tâm ???ng, va? tâ?t ca? ca?c pha?p
trong lúc đứng đều không thể nắm giữ được, thì vọng
niệm dừng nghỉ, đó là hành pháp Chỉ. Còn pháp Quán thì
nên khởi niệm rằng: do tâm dừng cái thân lại nên gọi là
đứng, nhân có đứng mà có tất cả các pháp thiện ác, rồi
trở lại quán cái tâm đứng, không thấy tướng mạo, cho
đến người đứng, việc đứng tất cả các pháp đều rốt
ráo không tịch, đó là thực hành pháp Quán.
c)
Nằm – trong lúc nằm, thì nên nghĩ rằng: ta nay vì việc gì
mà muốn nằm? Nếu vì những việc bất thiện như phóng dật..
thì không nên nằm, nếu vì điều hòa thân tứ đại thì nên
nằm như Sư tử vương. Nếu trong lúc nằm, nhận biết nhân
có nằm nên có tất cả các pháp thiện ác và sự thật tất
cả các pháp đều không có tự tánh, không thể nắm giữ
được, thì vọng niệm không sanh khởi, đó là thực hành
pháp Chỉ. Còn pháp Quán thì nên nghĩ rằng, do sự mệt mỏi
nên hóa tối tăm, buông lung sáu tình, do đó mà có tất cả
các pháp thiện ác, rồi trở lại quán cái tâm nằm, không
thấy chướng ngại, cho đến tất cả các pháp thảy đều
rỗng không, vắng lặng, đó là thực hành pháp Quán.
d)
Ngồi – trong lúc ngồi, nên khởi niệm rằng: ta nay vì việc
gì mà muốn ngồi? Nếu vì các phiền não, các việc bất thiện,
vô ký thì không nên ngồi, nếu vì việc thiện có lợi ích
thì nên ngồi. Trong lúc ngồi, nếu nhận biết nhân có ngồi
mà có tất cả các pháp thiện ác, rồi rõ biết cả các pháp
đều giả dối, không thật, thì vọng niệm không sanh, đó
là áp dụng pháp Chỉ. Còn pháp Quán thì nên nghĩ rằng, do
tâm mới có ngồi, mới có tất cả các pháp thiện ác, rồi
trở lại quán cái tâm ngồi, không thấy tướng mạo, cho đến
quán tất cả các pháp đều rốt ráo vắng lặng, đó là thực
hành Quán.
e)
Làm việc – trong lúc làm việc cũng nên nghĩ rằng: ta nay vì
việc gì mà muốn làm việc? Nếu vì những việc bất thiện,
vô lý thì không nên làm, nếu vì những việc thiện, có lợi
ích thì nên làm. Trong lúc làm mà nhận biết được nhân có
làm nên có tất cả các pháp thiện ác, sự thật không nắm
giữ được một pháp nào thì vọng niệm không sanh, đó là
thực hành pháp Chỉ. Còn pháp quán thì nên nghĩ rằng, do tâm
vận động cái thân làm ra các việc, do đó có tất cả các
pháp thiện ác, rồi trở lại quán cái tâm làm việc, không
thấy tướng mạo, cho đến các pháp đều rốt ráo rỗng không,
vắng lặng, đó là thực hành Quán.
g)
Nói – trong lúc nói thì nên nghĩ rằng: ta nay vì việc gì mà
muốn nói? Nếu vì phiền não sai khiến hay để bàn luận những
việc bất thiện, vô ký thì không nên nói. Nếu vì những
việc lành, có lợi ích thì nên nói. Nếu trong lúc nói nhận
biết nhân có nói nên có tất cả các pháp thiện ác, rõ biết
tâm nói và tất cả các pháp thiện ác, phiền não trong lúc
nói, đều là hư huyễn không thể nắm giữ được thì vọng
niệm dừng nghỉ, đó là thực hành pháp Chỉ. Còn phép quán
thì khởi niệm rằng: do tâm cổ động hơi thở, chạm đến
yết hầu, môi, lưỡi, răng, hàm. nên phát ra tiếng nói và
nhân có tiếng nói, nên có tất cả các pháp thiện ác, rồi
trở lại quán cái tâm nói, không thấy tướng mạo, cho đến
người nói và tất cả các pháp trong lúc nói đều rốt ráo,
vắng lặng, ?o? la? th??c hành pháp Quán.
Sáu
phép Chỉ Quán nầy đều theo Duyên mà dùng, mỗi mỗi đều
có năm ý tu tập như khi tọa thiền thực hành Chỉ Quán.
Còn
sáu phép sau đây là đối với Lục trần mà áp dụng Chỉ
Quán, gọi là Đối cảnh.
Đối
cảnh gồm có sáu trần:
a)
Sắc – lúc con mắt thấy sắc, tùy thấy sắc gì xem đó như
bóng trăng dưới nước, không chắc thật. Nếu thấy những
sắc vừa lòng, không sinh tham ái, thấy những sắc trái ý
không khởi tức giận, thấy các sắc bình thường không khởi
vô minh, vọng tưởng thì gọi là Chỉ. Khi nghĩ rằng tất
cả các tướng thấy được đều rỗng không, vắng lặng,
bởi lẽ trong các thức, căn, trần, hư không, ánh sáng kia
không có cái gì có thể thấy và có thể phân biệt, chỉ
do nhân duyên hòa hợp sinh ra nhãn thức cho đến ý thức nên
mới phân biệt các thứ sắc trần, do đó mà có các pháp
thiện ác. Rồi trở lại quán tâm biết sắc, không thấy tướng,
cho đến các pháp đều rỗng không, vắng lặng, thế gọi
là Quán.
b)
Thinh – trong lúc tai nghe tiếng, nếu nghe tiếng gì nhận biết
cũng như tiếng vang, hư giả không thật, nghe tiếng vừa lòng
không khởi lòng tham, nghe tiếng trái ý không sinh lòng giận,
nghe tiếng bình thường không đem tâm phân biệt, thì gọi
là Chỉ. Nếu phát khởi niệm rằng, tất cả các tiếng đều
rỗng không, chẳng có gì, chỉ do căn trần hòa hợp sinh ra
nhĩ thức cho đến ý thức, mới có phân biệt, nhân đó nên
có các pháp thiện ác.. Đoạn trở lại quán cái tâm nghe tiếng,
không thấy tướng mạo, và quán tất cả các pháp rốt ráo
không tịch, thế gọi là Quán.
c).
Hương – trong lúc mũi ngửi mùi, nếu biết gì và nhận thấy
là giả dối không thật, mùi vừa lòng không sanh chấp trước,
mùi trái ý không khởi giận hờn, mùi bình thường không sinh
tâm phân biệt, thì gọi là Chỉ. Nếu phát khởi niệm rằng,
mũi ta ngửi đây là hư giả, không có chân thật, chỉ do căn
trần hòa hợp sinh ra tỉ thức cho đến ý thức, nên giả
dối phân biệt có các mùi, do đó mà có tất cả các pháp
thiện ác, phiền não. Rồi trở lại quán cái tâm ngửi mùi,
không thấy tướng và biết được việc ngửi mùi cũng như
tất cả các pháp rốt ráo không tịch, thế là Quán.
d)Vị
– trong lúc lưỡi nếm vị, nhậnbiết các vị cũng như những
vị trong chiêm bao, nếm vị ngon không tham trước, vị dở
không chê bai, vị bình thường không khởi vọng tưởng phân
biệt, thế gọi là Chỉ. Khi lưỡi nếm vị, phát khởi niệm
rằng: cái vị ta nếm đây, sự thật vốn không có gì, vì
sao vậy? Vì các vị tự nó không có phân biệt, và ý thức
giả dối phân biệt mới thành có vị, nhân đó mà có tất
cả các pháp thiện ác, phiền não, rồi trở lại quán cái
thức phân biệt các vị, không thấy tướng mạo, cho đến
người biết vị và tất cả các pháp đều rốt ráo không
tịch, thế gọi là Quán.
e)
Xúc – trong lúc thân xúc với trần, nhận biết sự cảm xúc
như huyễn, như hóa, không có chân thật, gặp cảm xúc vừa
lòng, không khởi tham trước, cảm xúc trái ý không sanh sân
hận, cảm xúc bình thường không khởi vọng tưởng phân biệt,
thì gọi là Chỉ. Còn nếu khởi niệm rằng: những pháp nhẹ,
nặng, lạnh, nóng, rít, trơn… thì gọi là xúc, ngoài đầu,
mình, tứ chi thì gọi là thân. Xúc vốn hư giả, thân cũng
không thật, chỉ do nhân duyên hòa hợp sinh ra thân thức, rồi
ý thức, nên có nhớ tưởng phân biệt các thứ xúc trần,
gọi là lãnh thọ xúc trần. Rồi trở lại quán cái tâm biết
xúc, không thấy có tướng mạo, cho đến tất cả các pháp
đều rỗng không vắng lặng, thì gọi là Quán.
g)
Pháp – trong lúc ý thức phân biệt pháp trần, thì phép Chỉ
Quán được áp dụng như trong lúc toạ thiền đã nói ở trước,
không có gì khác.
Tóm
lại, tu tập Chỉ Quán đối với sáu trần thì tùy ý mà sử
dụng các phương pháp, mỗi mỗi đều đầy đủ năm ý như
đã nói ở trước kia. Nếu hành giả biết áp dụng Chỉ Quán
trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, thấy, nghe hay biết, thì nên
biết rằng người đó chân thật tu hành đạo lý Đại thừa.
Trong
Kinh Đại phâ?m, Phật bảo ông Tu Bồ Đề rằng: Nếu Bồ
Tát khi đi biết đi, khi ngồi biết ngồi, cho đến khi mặc
áo luôn luôn nhất tâm ra vào thiền định, thì nên biết người
đó tu pháp Đại thừa”. Người biết tu hành như thế, thì
trong tất cả các nơi đều tu hành Đại thừa, thật là tối
thắng, tối thượng trong thế gian, không có gì so sánh được.
PHẦN
BẢY
CÁC THIỆN
CĂN PHÁT SINH
Hành
giả khi thực hành Chỉ Quán như vậy, do quán “tùng giả nhập
không, thì trong lúc tọa thiền, thân tâm sáng suốt thanh tịnh,
lúc đó sẽ có các thứ thiện căn phát sinh, cần nên nhận
biết.
Những
thứ thiện căn phát sinh có hai thứ:
1)Những
thiện căn ở ngoài như: bố thí, trì giới, hiếu thuận, cúng
dường Tam Bảo và học hỏi Phật Pháp… nếu không chân chánh
tu hành theo Phật pháp thì có thể lẫn lộn với Ma cảnh.
2)Những
tướng thiện căn phát sanh tự bên trong, nghĩa những thiện
căn do áp dụng các pháp môn thiền định.
Phân
biệt các tướng nầy chia làm ba phần:
a/
Chỉ rõ các tướng thiện căn phát sinh:
Có
năm thứ khác nhau:
1-
Tướng thiện căn phát sanh trong lúc thực hành điều hòa hơi
thở, hành giả do khéo thực hành Chỉ Quán nên thân tâm điều
hòa, vọng niệm dừng nghỉ, nhân đó tự thấy tâm lân lân
vào định, phát sinh những định dục giới và định vị
đáo địa… định tâm yên ổn, thân tâm rỗng không vắng
lặng, không thấy có tướng mạo. Về sau, hoặc trải qua một
vài lần tọa thiền, cho đến một ngày hai ngày, một tháng
hai tháng, giữ vững định tâm, không lùi không mất, thì ở
trong định bỗng thấy thân tâm phát ra tám thứ cảm xúc,
nghĩa là thấy thân có các tướng: đau, ngứa, lạnh, nóng,
nhẹ nhàng, nặng nề, rít, trơn…Trong lúc tám cảm xúc phát
ra, thân tâm vẫn yên ổn trong định, nhẹ nhàng, vui khoẻ,
khoan khoái, thanh tịnh, không thể lấy gì ví dụ được. Được
như thế thì biết đó là tướng thiện căn thiền định căn
bản đương phát ra trong lúc điều hòa hơi thở. Hành giả
hoặc khi trong định dục giới và định vị đáo ?i?a, bỗng
nhiên nhận rõ hơi thở ra vào dài, ngắn, các lỗ chân lông
khắp thân thể đều rỗng thưa và dùng được tâm nhãn thấy
cả ba mươi sáu vật trong thân, cũng như mở kho thấy các
thứ thóc, đậu.tâm rất vui mừng, vắng lặng yên ổn. Đó
là tướng thiện căn đặc thắng phát sinh trong lúc điều
hòa hơi thở.
2-
Tướng thiện căn phát sinh do phép quán bất tịnh. Người
tu hành, nếu trong lúc ở trong định dục giới và vị đáo
địa, thân tâm rỗng không vắng lặng, bỗng thấy thân người
khác chết, phình lên hư nát, tan ra nước, chảy đi, còn lại
một đống xương trắng, và tâm vừa thương vừa mừng, nhàm
chán những điều ưa thích trước kia, đó là tướng thiện
căn chính tưởng phát ra. Hoặc trong lúc nhâ?p định, bỗng
thấy những vật bất tịnh trong thân, cả mình phình trướng
tan nát, chỉ còn xương trắng từ đầu đến chân. Thấy như
thế rồi, định tâm an lành, giác ngộ vô thường, nhàm chán
ngũ dục, không chấp ngã nhân, đó là tướng thiện căn bội
xã phát ra. Hoặc ở trong định, thấy cả trong thân, ngoài
thân, tất cả loài cầm thú, cho đến áo mặc, đồ ăn, nhà
cửa, núi rừng.. đều bất tịnh, đó là tướng thiện căn
đại bất tịnh phát ra.
3-
Tướng thiện ăn do tự tâm phát sinh, Hành giả nhân thực
hành Chỉ Quán, được các định dục giới, hoặc định vị
đáo địa, bỗng nhiên phát tâm nghĩ thương chúng sanh, hoặc
duyên với việc người thân được vui phát sanh định tâm,
trong tâm vui vẽ, thanh tịnh, không thể lấy gì ví dụ được,
hoặc duyên với việc người trung gian, kẻ thù, cho đến thập
phương chúng sanh thuộc các loài khác, thấy họ được vui
vẻ mà phát định tâm. Đến lúc xuất định, tâm thường
vui vẻ, thấy bất cứ người nào, nhan sắc thường hòa nhã.
Đó là tướng thiện căn do từ tâm phát ra. Về bi, hỉ và
xả cũng có những tướng thiện căn phát sinh như từ tâm
vậy.
4-
Tướng thiện căn do quán nhân duyên phát sanh. Hành giả nhân
lúc thực hành Chỉ Quán, khi được các định dục giới và
định vị đáo địa, bỗng được giác ngộ, xét tìm các
nhân duyên vô minh, hành…trong ba đời không thấy có nhân,
có ngã, phá được các kiến chấp, trí tuệ mở bày, tâm
sinh pháp hỷ, không còn nghĩ những việc thế gian, hoặc xét
trong năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới, không thấy nhân
ngã. Đó là tướng thiện căn do quán nhân duyên phát sanh.
5-
Tướng thiện căn do niệm Phật phát sanh. Hành giả khi đắc
định, trong tâm vắng lặng, bỗng nhớ nghĩ đến công đức
tướng hảo của chư Phật, không thể nghĩ bàn. Cho đến những
tướng thập lực, vô úy, bất cộng, tam muội, giải thoát
thần thông biến hóa, phổ độ chúng sanh, và vô lượng vô
biên công đức của chư Phật đều không thể nghĩ bàn. Phát
khởi ý niệm như thế, thì sanh tâm kính yêu, thân tâm vui
vẻ, thanh tịnh yên ổn, không có các ác tướng. Khi xuất
định rồi, thân thể nhẹ nhàng, công đức tự giác rất
lớn. Đó là thiện căn do niệm Phật phát sanh.
Lại
nữa, hành giả nhân lúc tu Chỉ Quán, thân tâm vắng lặng
trong sạch, hoặc phát ra những tướng vô thường, khổ, không,
vô ngã, những tướng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
giới, niệm xả, niệm thiện, cho đến những tướng không,
vô tướng, vô tác và được các Bồ-?ề đạo phẩm, các
Ba-la-mật, các thần thông biến hóa.. Đó đều là những tướng
thiện căn do các pháp môn phát sanh. Vì thế trong kinh có dạy:
“Kiềm chế tâm lại một nơi thì không việc gì không làm
xong.”
b/
Phân biệt chân, ngụy:
Đoạn
nầy chia làm hai phần:
1-
Nhận rõ những tướng phát sanh do thiền định tà ngụy. Hành
giả khi phát ra những thiền định như trên, hoặc nhân những
pháp phát ra trong thiền định, mà thân tâm lay động, hoặc
thân nặng như có vật đè lên, hoặc thân nhẹ như muốn bay
lên trên không, hoặc thân hình như xoay tròn, hoặc thân mệt
mỏi khó chịu, hoặc nghe lạnh buốt, hoặc nghe nóng bừng,
hoặc thấy những cảnh giới ky? lạ, hoặc tâm mờ tối, hoặc
khởi các ác niệm, hoặc tâm bị tán loạn, nghĩ các việc
phức tạp, hoặc vui mừng nhảy nhót, lo rầu đau thương, hoặc
có những cảm xúc làm cho mình ghê rợn, hoặc vui quá say mê.
Khi phát sanh những tà pháp như thế, thì đó là những tướng
thiền định tà ngụy. Nếu người ưa đắm những tà ngụy
đó thì phần nhiều bỏ mất sơ tâm, hóa ra điên cuồng, lạc
vào các thứ ngoại đạo, có khi các quỷ thần . biết hành
giả chấp trước tà pháp, lại giúp thêm sức, phát huy các
tà định, làm cho hành gia có biện tài, thần thông, lừa gạt
thế gian, làm cho nhiều người tín phục, mà trong tâm thì
vẫn điên đảo, chuyên làm những việc quỷ thần, mê hoặc
người đời. Người tu hành như thế, quyết không gặp được
Phật và phải đọa trong ác đạo quỷ thần. Nếu lại làm
nhiều việc ác thì phải đoạ địa ngục.
Vì
thế ha?nh giả thực hành Chỉ Quán, nếu nhận được ác tướng
thiền định tà ngụy, liền khước từ ngay. Khước từ bằng
cách nào? Nếu biết là giả dối thì dùng chánh tâm không
nhận, không trước, các tướng đó sẽ tiêu diệt, hoặc dùng
chánh quán mà phá trừ, các tướng ấy sẽ diệt vong.
2 –
Nhận rõ các tướng của thiền định chân chánh. Hành giả
nếu trong lúc tọa thiền không có những tướng tà ngụy như
trên, khi mỗi tiếng thiền định phát ra, liền biết nó kết
hợp với định tâm, trong tâm rỗng sáng thanh tịnh, vui đẹp
yên lặng, không có các điều che lấp, thiện căn phát sanh
thì lòng tin kính càng tăng trưởng, trí tuệ rõ ràng, thân
tâm như hòa, rỗng không vắng lặng, thoát ly thế gian, vô
vi, vô dục, xuất định nhập định tự tại, tự do. Đó
là tướng thiền định chân chính phát ra. Ví như thân cận
người ác thì thường bị va chạm chọc tức. Ngược lại,
thân cận người lành thì càng lâu, quan hệ càng tốt đẹp.
Hành giả cần phân biệt tà chánh rõ ràng để khỏi bị lầm
lạc.
c/
Dùng chỉ quán để tăng trưởng các thiện căn:
Nếu
trong lúc toạ thiền, các thiện căn phát ra, thì nên dùng hai
pháp Chỉ Quán tu tập khiến cho tăng trưởng. Lúc nào nên
dùng phép Chỉ, thì dùng phép Chỉ, lúc nào nên dùng phép Quán,
thì dùng phép Quán, tùy nghi mà tu hành như trước đã nói.
PHẦN
TÁM
NHẬN BIẾT
CÁC MA SỰ
Ma
theo tiếng Phạn là Ma-la (Mara), tức là loài hung dữ, cướp
công đức và giết huệ mạng của người tu hành. Ma thường
phá hoại thiện căn của chúng sanh, khiến cho trôi lăn trong
đường sinh tử.
Ma
có bốn thứ là:
Phiền
não ma.
Âm
nhập giới ma,
Tử
ma
Quỷ
thần ma.
Ba
thứ ma trên là thường sự thế gian, theo tự tâm mà sinh tử
nên giữ chánh niệm thì trừ bỏ được. Duy chỉ có loại
quỷ thần ma là đáng chú tâm hơn cả.
Quỷ
thần ma có ba thứ:
1.
Tinh mî – là những thú vật biến hóa ra nhiều hình sắc, hoặc
hóa ra người thiếu nữ, hoặc hóa ra vị tôn túc, cho đến
hóa ra những thân rất đáng kinh sợ. để khuấy phá những
người tu hành. Khi biết được nó là loài tinh mî thú vật,
thì chỉ tên quở trách là tự nó tiêu diệt.
2.
Đôi dịch quỷ – là loài làm nhiều việc quấy rối ngươì
tu hành, hoặc hóa ra nhiều con sâu, con bò cạp đậu trên đầu,
trên mặt, chích đốt liên tiếp, hoặc gõ và cù trong hai nách,
hoặc bỗn nhiên làm những tình trạng các thú vật để khuấy
rối người tu hành. Khi nhận biết được thì nên nhất tâm
nhắm mắt, thầm quở trách nó: “chúng mày là giống tà ma,
thích việc phá giới, nay ta trì giới quyết không sợ mày.”
Rồi tụng các giới bổn, như người tại gia trì tụng tam
quy, ngũ giới . thì quỷ sẽ khúm núm rút lui. Nếu tụng giới
mà quỷ chưa chịu rút lui, thì nên nhất tâm niệm Phật, niệm
danh hiệu đức Quán Thế Âm, hoặc niệm các vị Kim Cương
Tạng Vương Bồ Tát, thì ma cảnh tự tiêu diệt.
3.
Ma não – Giống ma này phần nhiều hóa ra ba thứ cảnh giới
ngũ trần để làm rối loạn người tu hành. Bọn ma này cũng
gọi là Ngũ tiển – nghĩa là năm cái tên bắn vào ngũ tình
vật. Ma hóa ra ba cảnh giới đó là:
a)Ma
hoá ra những việc trái ý, những ngũ trần đáng sợ như cọp,
sư tử, la sát, khiến cho người tu hành phải khiếp sợ
b)Ma
hóa ra những việc vừa lòng, những ngũ trần đáng ưa, khiến
cho tâm sinh ái trước, như hóa ra cha mẹ anh em, hình tượng
chư Phật, hoặc những người con trai, con gái xinh đẹp.
c)Ma
hóa ra những cảnh bình thường, cốt để làm cho tâm loạn
động, mất hết thiền định.
Ngoài
ra, ma có thể hóa ra tiếng hay, tiếng dở, mùi thơm, mùi thối,
vị ngon, vị dở, những cảm xúc khó chịu.. Để làm cho hành
giả rối loạn, để phá hoại Phật Pháp bình đẳng, khiến
lòng sinh ra ham muốn, lo sầu, giận ghét, thiếp ngủ.
Hành
giả muốn trừ bỏ những ma sự đó, thì phải thực hành
Chỉ Quán. Thực hành Chỉ Quán thì nhận biết tất cả ma
cảnh đều là hư huyễn. Không lo, không sợ, không trước,
không xả khi tâm phân biệt dừng nghỉ, thì các ma cảnh tự
tiêu diệt. Nếu thực hành pháp Chỉ mà chưa diệt được
thì dùng phép Quán, quán các thứ ma cảnh đều do phân biệt
hiển hiện, trở lại quán cái tâm phân biệt, không thấy
tướng mạo thì còn ai bị khuấy phá nữa. Nếu các ma cảnh
không chịu tiêu trừ thì nên giữ vững chánh niệm, không
sinh sợ hãi, không tiếc thân mạng, biết tánh chân như của
ma cảnh cũng tức là tánh chân như của Phật giới, một Như
chứ không có hai Như. Biết được như thế thì không sinh
lòng thủ, xả, Phật Pháp tự nhiên hiện bày, ma cảnh tự
nhiên tiêu diệt.
Lại
thấy ma cảnh không diệt, cũng không cần lo sợ, nếu thấy
ma cảnh diệt trừ cũng không có gì vui mừng. Vì sao vậy?
Vì chưa hề thấy người tọa thiền bị những giống cọp
do ma hóa ra ăn thịt, cũng chưa từng thấy những người con
trai, con gái, do ma hóa ra lại có thể thành chồng thành vợ.
Đó chỉ là những cảnh huyễn hóa, chỉ vì hành giả không
rõ nên mới sinh lòng lo sợ, tham trước mà thôi. Sinh tham trước,
kinh sợ thì tâm loạn động, đến nôĩ mất cả thiền định,
trở nên điên dại. Đó là người tu hành không có trí, tự
gây tai họa cho mình, chứ không phải do ma gây ra tai họa.
Hành
giả giữ vững chánh niệm, không tiếc thân mạng, thường
niệm Tam Bảo, thường tụng các Kinh Đại thừa thì ma cảnh
quyết định sẽ tiêu diệt.
Ma
cảnh rất nhiều, không thể nói hết được. Nó có thể khiến
hành giả tâm thần điên loạn, hoặc mừng, hoặc lo, nhân
đó mà sinh bệnh đến chết. Hoặc cho có những tà định,
tà trí, tà thần thông, thuyết pháp dạy người, làm họ tín
phục, nhưng về sau thì phá hoại chánh pháp, phá hoại các
thiện sự xuất thế gian. Vì thế hành giả nên thân cận
thiện trí thức để kịp thời nhận biết các ma sự. Nếu
người tu hành diệt trừ vọng tưởng, không nhận các cảnh
giới hư huyễn là thật, nếu quán được thật tướng của
các pháp, khéo thực hành Chỉ Quán thì không có ma sự nào
khuấy phá được. Thích Luận có nói: “Ngoài thật tướng
các pháp tất cả đều là ma sự”, hoặc như trong câu kệ:
“Nếu
nhớ tưởng phân biệt,
Thì
sa vào lưới ma;
Không
động, không phân biệt,
Thì
đó là Pháp ấn”.
Với
Pháp ấn vô phân biệt, không còn có ma sự nào cả.
PHẦN
CHÍN
TRỊ BỆNH
Hành
giả an tâm tu tập Chỉ Quán, có khi sinh ra bệnh hoạn, hoặc
vì trước đã có bệnh, do tinh tấn tu hành mà kích thích bệnh
cũ phát sinh, hoặc vì không khéo điều hòa thân, tâm và tức,
có chỗ sai trái. Sự thật thì nê?u khéo dụng tâm trong lúc
tọa thiền, tất cả các bệnh đều trừ khỏi cả.
Nhưng,
nếu dụng tâm không đúng, các bệnh có thể nhân tọa thiền
mà phát sinh.Vì thế, hành giả nên biết rõ gốc bệnh, và
biết cách trị bệnh trong lúc tọa thiền, nếu để bệnh
phát nặng, chẳng những trở ngại cho việc hành đạo, mà
còn có thể nguy hại cho tính mạng nữa.
Phương
pháp trị bệnh gồm có hai phần:
A)
Nêu rõ các tướng phát sinh bệnh:
Nguyên
nhân phát sinh bệnh tuy nhiều, nhưng không ngoài hai thứ:
1)
Những bệnh do tứ đại thêm hay bớt:
Địa
đại tăng thì thân thể hóa thủng, hóa kết và nặng nề,
khô khan; Thủy đại tăng thì kéo đờn, trướng bụng, ăn
uống không tiêu, đau, đi lî… Hỏa đại tăng thì lạnh nhiều
hoặc nóng dữ, mọi phần đau nhức, hơi thở và đại tiểu
tiện không thông.Phong đại tăng thì thân thể khó chịu, run
rẩy, đau nhức, hơi thở gấp rút, no hơi, ọe mửa.. Phàm
tứ đại không điều hòa thì nhiều bệnh phát sinh, càng nhiều
đại không điều hòa thì càng nhiều bệnh. Vậy, nên quán
sát bệnh tướng trong lúc tọa thiền để nhâ?n biết xác
thực.
2.Những
bệnh do ngũ tạng:
Như
đau tim thì thân thể nóng lạnh, đau đầu và miệng khô….
vì tim có quan hệ đến miệng. Phế đau thì thân thể đầy,
tứ chi nhức mỏi và mũi nghetï thở vì phế có quan hệ đến
mũi. Gan đau thì lo rầu không vui, đau thương, nóng giận, đầu
nhức mắt lòa.. vì gan có quan hệ đến mắt. Tỳ đau thì
thân thể nhiều phong, khắp mình lở ngứa, đau nhức, ăn uống
không ngon… vì tỳ có quan hệ đến lưỡi. Thân đau thì yết
hâ?u bế tắt, bụng sình tai điếc..vì thân có quan hệ đến
tai.
Những
bệnh do ngũ tạng sinh ra, có nhiều tướng, trong lúc tọa thiền,
nếu quan sát kỷ thì có thể biết rõ.Các bệnh do tứ đại
và ngũ tạng sinh ra, không thể nói hết, cốt yếu hành giả
cần biết nguyên nhân phát bệnh:
Có
hai nguyên nhân phát bệnh:
a/
Nguyên nhân ở ngoài như hàn, nhiệt, phong thấp, ăn uống không
tiêu.
b/
Nguyên nhân ở trong như do tứ đại, ngũ tạng không điều
hòa mà sinh bệnh, hoặc do ma cảnh mà sinh bệnh, hoặc do nghiệp
báo mà sinh bệnh.
Lắm
khi do trong lúc thực hành Chỉ Quán, dụng tâm sai lệch, hoặc
khi các định phát ra, nhận định không đúng, thành những
nguyên nhân bên trong, kết hợp với những nguyên nhân bên
ngoài, mà phát bệnh hoạn. Lúc mới phát, biết trị ngay thì
dễ khỏi, nếu để lâu ngày, thân thể yếu đuối, bệnh
xâm nhập sâu thì khó trị.
B)
Nêu rõ phương pháp trị bệnh:
Phương
pháp trị bệnh có nhiều, cốt yếu không ra ngoài hai phép
Chỉ Quán.
Áp
dụng phương pháp Chỉ để trị bệnh thì các vị Thiền sư,
có vị nói: Chỉ cần an tâm, dừng lại nơi chỗ đau thì trị
được bệnh. Có vị nói, an tâm dưới rốn một tấc, gọi
là đan điền, nếu giữ tâm ở đoạn đan điền không xao
động thì trị được các bệnh. Có vị nói, trong các lúc
đi, đứng, nằm, ngồi, thường dùng tâm ở dưới chân thì
có thể trị bệnh. Có vị nói, chỉ cần biết các pháp rỗng
không, vốn không có gì, không nhận tướng bệnh, an trụ nơi
vắng lặng thì trị được các bệnh.
Kinh
Tịnh Danh có dạy: “Gốc bệnh là do phan duyên, dứt được
tâm phan duyên thì không còn có bệnh phải trị”.Áp dụng phương
pháp Quán để trị bệnh, thì các vị Thiền sư, có vị nói:
“Chỉ cần quán tâm tưởng, dùng sáu thứ hơi thở để trị
bệnh. Sáu thứ hơi thở là: xuy, hô, hy, ha, hư, hê. Có vị
nói nếu khéo dùng quán tưởng, dùng mười hai cách thở, có
thể trị các bệnh, thượng tức trị trầm trọng, hạ tức
trị hư huyễn, mãn tức trị khô gầy, tiêu tức đầy thũng,
tăng trưởng tức trị suy yếu, diệt hoại tức trị tăng
thịnh, xung tức trị bế tắc không thông, trì tức trị lay
động run rẩy, hòa tức trị tứ đại bất hòa, bố tức
trị tứ đại suy kém. Khéo dùng mười hai quán hơi thở nầy
thì có thể trị khắp các thứ bệnh. Có vị nói, khéo dùng
quán giả tưởng có thể trị các bệnh, như quán hòa khí
trong thân lên mạnh thì có thể trị được bệnh lạnh. Có
vị nói, chỉ dùng Chỉ Quán xem xét, chia chẻ trong thân tứ
đại, không thấy cái gì là bệnh, thì các bệnh đều tự
khởi.
Về
cách dùng Chỉ Quán để trị bệnh, các vị dạy nhiều phương
pháp, hành giả tùy tiện mà dùng, pháp nào thấy có công hiệu
thì tiếp tục dùng cho đến khi khỏi hẳn.
Đối
với những người mơi bắt đầu thực tập Chỉ Quán thì
chưa đủ định lực để điều trị, vậy nên uống thuốc
thích hợp để chữa bệnh. Nếu bệnh do tứ đại, ngũ tạng
không điều hòa mà sinh ra. Nếu bệnh, do ma sự thì dùng những
phương pháp đã nói trên kia để trừ khử. Nếu bệnh do nghiệp
báo thì nên làm việc phúc thiện, sám hối tội lỗi để
tiêu diệt.Lại trong lúc tọa thiền để trị bệnh, cần đủ
mười pháp sau mới có được lợi ích:
1.-Tin-
tin phương pháp này có thể trị được bệnh.
2.-
Dụng – theo bệnh mà dụng tâm cho thích hợp.
3.-
Siêng – chuyên cần áp dụng phương pháp trị bệnh cho đến
khi khỏi hẳn.
4.-
An trụ – nghĩa là tế tâm, niệm niệm nương theo chánh pháp,
không duyên với cảnh gì khác.
5.-
Phân biệt – phân biệt nguyên nhân của bệnh, phải biết bệnh
do đâu khởi ra.
6.-
Phương tiện.- vận dụng tâm cho thích hợp với phương pháp
mới dễ thành tựu.
7.-
Lâu ngày – khi mới thực tập mà chưa thấy kết quả thì vẫn
thực hành mãi không thôi, đừng kể ngày tháng.
8.-
Biết thủ xả – điều gì có ích thì siêng tu, điều gì tổn
hại thì rời bỏ, xét thấy bệnh tình mà vững tâm điều
trị.
9.-
Giữ gìn – khéo biết những nguyên nhân gây ra bệnh hoa?n ,
để giữ gìn sức khoẻ.
10.-
Ngăn ngừa chướng ngại – nghĩa là được lợi ích không khoe
với ai, bệnh chưa giảm không sanh nghi bán.
Đủ
được mười pháp như vậy thì trị bệnh chắc chắn có hiệu
quả.
PHẦN
MƯỜI
CHỨNG QUẢ
Hành
giả khi thực tập Chỉ Quán như vậy, thì có thể rõ biết
tất cả các pháp đều do tâm sinh, nhân duyên hư giả không
thật, nên bản tánh là rỗng không. Biết được tánh rỗng
không của các pháp thì không thấy có tướng sanh tự các
pháp. Như thế là được thế-chân-chỉ. Lúc bấy giờ, trên,
không thấy quả vị Phật có thể cầu, dưới không thấy
chúng sanh có thể độ. Đó gọi là: tùng-giả-nhập-không-quán,
cũng gọi nhị-đế-quán, cũng gọi là tuệ nhãn, cũng gọi
là nhất-thiết-trí. Nếu mãi trú ở nơi quán này thì sa vào
hàng Thanh văn, Duyên giác, tâm không ưa muốn giáo hóa chúng
sanh, chưa làm cho cõi Phật thanh tịnh. Vì thế, những người
chỉ thấy tất cả các pháp đê?u rỗng không, vắng lặng,
đều vô sanh, vô diệt, vô vi, thì rốt cuộc không phát được
Bồ-?ề tâm. Đó là vì định nhiều tuệ ít, nên không thấy
Phật tánh.Những vị Bồ Tát, vì tất cả chúng sanh mà thành
tựu tất cả Phật Pháp, thì không nên chấp trước vô vi,
an trụ trong tịch diệt mà cần tu pháp Tùng-Không-Nhập-Giả_Quán.
Thực hành quán này là quán tưởng rằng tuy tâm tánh là rỗng
không, nhưng trong lúc duyên khởi đối đải cũng sanh ra tất
cả các pháp, nó như huyễn như hóa và cũng có những điều
thấy, nghe hay biết sai khác không đồng. Hành giả khi thực
hành phép quán này thì có thể trú trong không tịch, tu đủ
các hạnh, phân biệt được căn cơ chúng sanh mà thuyết pháp
vô lượng. Đến khi thành tựu được vô ngại biê?n tài,
có khả năng làm lợi ích cho Lục đạo chúng sanh thì được
phương tiện tùy duyên chỉ. Tùng Giả Nhập Không Quán cũng
gọi là Bình đẳng Quán, cũng gọi là
Pháp
nhãn, cũng gọi là Đạo chủng trí. Bồ Tát trú trong quán
này, sức tu tuệ thêm nhiều, nhưng tuy thấy Phật tánh mà
chưa được rõ ràng, vì hai pháp Tùng-Giả-Nhập-Không Quán
và Tùng-Không-Nhập-Giả Quán còn là pháp quán phương tiện,
chứ chưa phải là chánh quán vậy. Gọi là phép quán phương
tiện, vì do hai phép quán này có thể vào Trung đạo đệ nhất
nghĩa quán.
Nếu
Bồ Tát muốn đầy đủ tất cả Phật Pháp trong một niệm
thì cần áp dụng pháp Tức nhị biện phân biệt chỉ, thực
hành Trung đạo chánh quán. Tu phép chánh quán này thì có thể
biết tâm tánh không phải chân, không phải giả, làm cho cái
tâm duyên chân giả dừng nghỉ, thế cũng gọi là Chánh đế
quán. Tâm tánh không phải không, không phải giả, mà không
phá hoại các pháp không, giả. Nhận rõ như thế thì thông
suốt được trung đạo, soi khắp được chân đế và tục
đế nơi tự tâm, thấy được hai đế trung đạo nơi tất
cả các pháp, lại cũng không chấp trước hai đế trung đạo,
vì không có tánh gì là tánh quyết định vậy. Đó gọi là
Trung đạo chánh quán.
Trung
Luận có câu kệ:
Các
pháp nhân duyên sanh,
Tôi
bảo là rỗng không
Cũng
gọi là giả danh
Cũng
là nghĩa trung đạo.”
Đi
sâu vào ý nghĩa câu kệ đó, thì chẳng những nhận rõ đầy
đủ các tướng của trung đạo chánh quán mà cũng rõ thêm
ý thú của hai phép phương tiện quán. Nên biết Trung đạo
chánh quán tức là Phật nhãn, là Nhất thiết chủng trí. Nếu
an trụ nơi quán này, thì Định và Tuệ cân bằng, thấy rõ
được Phật tánh, an trụ nơi Đại thừa, đường tu bằng
phẳng, đi mau như gió, tự nhiên lần về bể Chánh đạo của
Như Lai, làm việc Như Lai, tự trang nghiêm bằng sự trang nghiêm
của Như Lai, được lục căn thanh tịnh, vào cảnh giới của
Phật. Đối với tất cả các pháp không còn nhiễm trước,
tất cả các pháp chư Phật, đều được hiện tiền, an trụ
nơi Định Thủ Lăng Nghiêm, thành tựu vô lượng Tam-muội,
vào khắp cõi Phật mười phương, giáo hóa chúng sanh góp phần
làm cho cõi Phật đều trang nghiêm thanh tịnh, cúng dường
Thập phương chư Phật, thọ trì tất cả Phật Pháp, đầy
đủ tất cả các hạnh, các Ba-la-mật, chứng địa vị Đại
Bồ-?ề ngang hàng với các đức Văn Thù, Phổ Hiền, và trong
thân, pháp tánh thường trụ, được chư Phật khen ngợi, thọ
ký, đi đến thị hiện tám tướng thành Phật.
Về
những tướng chứng quả trong Kim Cang tâm không thể nghĩ bàn
được, nhưng xét theo giáo lý vẫn không rời hai phép Chỉ
– Quán.Điều cốt yếu nhất là hành giả cần phát thệ nguyện
trừ cho được Ba chướng và Năm cái, vì nếu không trừ được
thì dầu siêng năng tu hành đến đâu cũng không ích gì.
[1]
Pháp Hoa Tam Muội là pháp Đại định trong kinh Pháp Hoa. Đức
Phật Ngài thuyết rất nhiều phápTam Muội trong kinh Pháp Hoa.
Người nào tu hành những phương pháp ấy mà đắc thần thông,
được thấy Phật hoặc các vị Bồ Tát tức là ngộ được
pháp Pháp Hoa Tam Muội.
[2]
Nhà Trần ở vào thời đại Nam Bắc Triều (420-588) của Trung
Hoa, tức là các nước Tống-Tề-Lương và Trần của Nam Triều.
Discussion about this post