VÀO ĐỀ:
Tất
cả chúng sanh lớn như loài người, nhỏ như các loài động
vật đều có bổn phận để sanh tồn, như con người có bổn
phận của con người, con kiến có bổn phận của con kiến,
con ong có bổn phận của con ong, con chim, con sâu đều có bổn
phận của con chim của con sâu..v..v…. Nguyễn Công Trứ thường
ca ngợi về bổn phận của các loài động vật như : “Ta xem loài vật nhỏ, trong lòng ta tưởng mộ, ong kiến biết
hợp đoàn, chim sâu còn luyến tổ, có nước không biết yêu,
không bằng chim cùng sâu, có đoàn không biết hợp, ong kiến
hơn ta nhiều..v..v…..” Các động vật thuộc loài hạ đẳng
còn biết bổn phận đoàn kết và biết luyến tổ để sống
còn để tồn tại thì huống hồ là loài người, nguyên vì
các nhà hiền triết cho rằng loài người có trí khôn hơn
loài vật. Cho nên vấn đề Bổn Phận là nguyên động lực
lẽ sống của tất cả chúng sanh để hiện hữu và tồn tại
trong cộng đồng duyên sanh của từng chủng loại.
II.-
VẤN ĐỀ BỔN PHẬN :
A.
Bổn
Phận : Là những điều kiện mà nhiệm vụ của con
người cần phải làm, như bổn phận làm cha, bổn phận làm
mẹ, bổn phận làm con, bổn phận làm thầy, bổn phận làm
trò..v..v….
Trong
cộng đồng duyên sanh của xã hội loài người, mỗi người
đều có bổn phận như nhau để thăng tiến cuộc đời và
bổn phẩn đó của loài người tuỳ theo danh nghĩa tùy theo
chức năng của họ mà định mức giá trị. Vị tổng thống
thì có bổn phận của vị tổng thống, vị tỉnh trưởng
thì có bổn phận của vị tỉnh trưởng, người công nhân
thì có bổn phận của người công nhân..v..v…., Phật Tử
xuất gia thì có bổn phận của Phật Tử xuất gia và Phật
Tử tại gia thì có bổn phận của Phật Tử tại gia.
B.
Phật
tử : (Tiếng Phạn Budha-putra) là người tin thuận
theo giáo pháp của Phật và thừa kế gia nghiệp của Phật,
tức là người muốn thành Phật và có bổn phận làm cho hạt
giống Bồ Đề của Phật được truyền thừa mãi trong nhân
gian không cho mất. Theo Kinh Bồ Tát An Lạc Bản Nghiệp, quyển
thượng giải thích: “Tất cả chúng sanh thuận theo Phật,
nhớ nghĩ đến Phật, cũng có thể thành Phật nên gọi là
Phật Tử.” Theo Kinh Pháp Hoa, Phẩm Phương Tiện và Kinh Phạm
Võng, quyển hạ cho rằng: “Phật Tử là những tín đồ Phật
Giáo thọ giới Bồ Tát Đại Thừa”.
C.-
Phật tử Tại gia : (Tiếng Phạn Grha-pati, tiếng Pali là
Gaha-pati), là thánh chúng tại gia của Phật Giáo. Giáo đoàn
của Phật Giáo thời kỳ đức Phật còn tại thế ở Ấn
Độ gồm có bốn chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu
Bà Di. Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni là hai chúng xuất gia làm biểu tượng
trang nghiêm cho giáo đoàn Phật Giáo và Ưu Bà Tắc, Ưu Bà
Di là hai chúng tại gia nhập thế hổ trợ cho giáo đoàn hiện
hữu và tồn tại trong thế gian. Phật tử tại gia đã là
đệ tử của đức Phật, muốn trở thành những đứa con
xứng đáng thì phải làm tròn bổn phận như sau:
1.-
Phải đi theo con đường của Phật đã đi. Đức Phật là
bậc đã hoàn toàn giác ngộ, đầy đủ năng lực phi phàm,
trí tuệ siêu việt, đức hạnh viên mãn. Với ý nguyện cứu
độ chúng sanh, ngài đã làm những việc mà chúng sanh không
thể làm, ngài đã bỏ ngai vàng làm kẻ ăn xin, năm năm tầm
sư học đạo, sáu năm tu khổ hạnh, bốn mươi chín ngày nhập
định nơi cội cây Bồ Đề và nhờ những công hạnh này
ngài trở thành bậc đại giác thế tôn. Từ đó suốt năm
nươi năm ngài tuyên dương chánh pháp để cứu độ chúng
sanh và vạch cho chúng sanh con đường giác ngộ và giải thoát.
Chúng ta hãy nên đi theo con đường mà ngài đã vạch sẵn,
đừng chạy theo những con đường nào mới lạ không qua sự
kinh nghiệm của ngài để khỏi bị lầm đường lạc lối
trước muôn nẻo ảo tưởng giả tạo được trang trí đầy
hoa thơm cỏ lạ.
2.-
Chúng ta phải làm theo những việc của Phật đã làm, phải
làm theo những lời chỉ dạy của Phật, phải chứng thành
đạo quả như Phật đã chứng. Để báo đáp công ơn sâu
dầy và cao cả của đức Thế Tôn ra tay tế độ chúng sanh
trong đó có chúng ta, Phật tử xuất gia cũng như Phật tử
tại gia phải làm tròn những bổn phận nêu trên mà đức
Phật đã trao truyền. Đối với những bổn phận nói trên,
riêng Phật tử tại gia cần phải thể hiện những điều
kiện cần thiết như dưới đây :
III.-
BỔN PHẬN HỘ TRÌ PHẬT PHÁP :
Phật
tử xuất gia phải có bổn phận hoằng truyền Phật Pháp thì
Phật tử tại gia phải có bổn phận hộ trì Phật Pháp để
cho tàng cây Bồ Đề của Phật che mát khắp thế gian, để
cho hương thơm Bồ Đề của ngài lan tràn khắp thế giới
và để cho tất cả chúng sanh nhờ ân đức của ngài gội
nhuần mưa pháp tăng trưởng căn lành. Trong giáo đoàn truyền
giáo của đức Phật thiết lập, hai chúng xuất gia và tại
gia mặc dù nếp sống khác nhau, hành sử khác nhau, nhưng quan
hệ chặt chẽ lẫn nhau và hổ trợ cho nhau trên con đường
tu tập cũng như hoằng truyền chánh pháp.
Như
Kinh Như Thị Ngữ 107 đã nói lên sự quan hệ giữa chúng xuất
gia và chúng tại gia như sau : “Chúng xuất gia nhờ chúng tại
gia giúp đỡ những đồ dùng như: quần áo, thức ăn, chỗ
ở..v..v…. ; chúng tại gia nương chúng xuất gia mà tiếp
nhận giáo pháp và phạm hạnh. Cả hai bên nương nhau tu hành
theo chánh pháp.”
Trước
khi ý niệm bổn phận của mình, chúng ta nên ôn lại những
gương sáng ngời của các bậc tiền nhân đã đóng góp công
trình hộ trì Phật Pháp vô cùng lớn lao mà lịch sử Phật
Giáo ghi son đậm nét.
A.-
NOI GƯƠNG CÁC BẬC TIỀN NHÂN :
Theo
Lịch Sử Phật Giáo, những gương sáng của các bậc tiền
nhân thuộc Phật tử tại gia đã đóng góp hết mình
cho công cuộc truyền bá chánh Pháp đến được khắp
chốn cùng nơi trên thế giới. Những điểm son đó được
ghi lại danh tánh như sau:
1.-
Tại Ấn Độ : Sau khi đức Phật Thích Ca Thành đạo
nơi cội Bồ Đề, những Phật tử tại gia thuộc Ưu Bà Tắc
và Ưu Bà Di hộ trì Phật Pháp giúp cho đức Phật truyền
bá chánh pháp cứu độ chúng sanh. Phật tử Ưu Bà Tắc đầu
tiên hộ trì Phật Pháp chính là vua Tần Bà Sa La, nước Ma
Kiệt Đà, vua đã thành lập Tịnh Xá Trúc Lâm giúp cho đức
Phật làm trung tâm truyền đạo cứu đời. Từ trung tâm này
nhờ sự tận lực hổ trợ của Vua Tần Bà Sa La, đức Phật
Thích Ca phát huy tư tưởng của mình đã chứng ngộ soi sáng
và giải thoát mọi khổ đau cho chúng sanh.
Kế
đến Phật tử Tu Đạt, biệt hiệu Cấp Cô Độc cũng thuộc
Ưu Bà Tắc phát nguyện hộ trì Phật Pháp xây dựng một trung
tâm thứ hai tên là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên để hổ trợ
đức Phật mở rộng chánh pháp tại nước Kiều Tát La (Kosala).
Điều đặc biệt trong nước này, có tín nữ thuộc Ưu Bà
Di tên là Mạt Lợi Phu Nhân ( Mallikà), biệt hiệu là Thắng
Man Phu Nhân, vợ của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi), bà phát nguyện
tứ sự cúng dường cho đức Phật và chư Tăng thời bấy
giờ. Hơn nữa một tín nữ khác không thua kém Mạt Lợi Phu
Nhân tên là Visàkhà thuộc nước Ương Già Tộc ( Anga ) con
nhà triệu phú Dhananjaya, bà phát bồ đề tâm trợ duyên cho
đức Phật và Tăng Đoàn trong sự nghiệp hoằng dương chánh
pháp cứu độ chúng sanh. Từ đó tư tưởng giác ngộ của
đức Phật Thích Ca trong 50 mươi năm truyền bá nhờ các Phật
tử tại gia nồng cốt tận tâm hổ trợ cho nên được soi
sáng khắp cả vùng Trung Ấn. Điều đó được thấy trong
các kinh, như Kinh Duy Ma Cật, Kinh Thắng Man, Kinh Hoa Nghiêm..v..v….
giới thiệu rất nhiều Phật tử nam nữ cư sĩ tại gia Bồ
Tát hộ trì chánh pháp quang đại khắp nơi trên thế giới.
Cách
300 năm Phật Thích Ca nhập diệt trở về sau cũng có rất
nhiều hàng Bồ Tát tại gia đứng ra truyền bá đạo giác
ngộ của đức Thế Tôn. Điển hình như vua A Dục đứng ra
tổ chức đại hội kiết tập kinh điển Phật Giáo lần thứ
ba và thành lập tám phái đoàn truyền giáo các quốc gia trong
và ngoài nước. Theo Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ của Hoà
Thượng Thích Thanh Kiểm, trang 92- 93, những quốc gia mà tám
phái đoàn đến truyền giáo gồm có: Hy Lạp, Ai Cập,
Syria, Aparàntaka, Kamboja, Pulinda, Bhoja, Pitinika, Andhra, Cola, Pàndya,
Tambapanni (Tích Lan). Sau khoảng 600 năm Phật nhập diệt, tức
là khoảng thế kỷ thứ I Tây Lịch, vua Ca Nị Sắc Ca ( Kaniska)
thuộc nước Tukhàra (Nhục Chi) sau khi thong nhất Ấn Độ tiếp
tực sự nghiệp của A Dục Vương đứng ra tổ chức đại
hội kiết tập kinh điển Phật Giáo lần thứ tư và hổ trợ
các nhà truyền giáo mở rộng qua các nước như: Parthia ( An
Tức thuộc Ba Tư), Kashgar (Sớ Lặc), Yarkand ( Xa Sa), Khotan (Vu
Điền)..v..v…. gây ảnh hưởng đến Trung Quốc.
2.-
Tại Trung Quốc : Những Phật tử tại gia trọng yếu
trong sự hộ trì Phật Pháp qua các lãnh vực như : phiên
dịch kinh luận, ấn hành kinh sách, tổ chức hội đoàn học
Phật..v..v…. gồm có các vị: An Huyền, Chi Khiêm, Nhiếp Thừa
Viễn, Tâm Thái, Bành Thiệu Thăng, Dương Văn Hội..v..v….
đã từng phát huy chân lý Phật Giáo sáng rực cả vòm trời
Trung Quốc.
3.-
Tại Nhật Bản : vị Phật tử tại gia đầu tiên hộ trì
Phật Pháp là Thái tử Thánh Đức cùng hoàng thất, quý tộc
nổ lực đưa Phật Giáo phát triển mọi mặt như: kiến trúc,
mỹ thuật, văn học..v..v…. và truyền mãi đến ngài nay.
4.-
Tại Việt Nam : những Phật tử tại gia có công không nhỏ
hộ trì Phật Pháp trong sự nghiệp truyền thừa Phật Giáo
Việt Nam gồm có :
a.-
Theo Đạo Phật Và Dòng Sử Việt trang 20-21 của Hoà Thượng
Thích Đức Nhuận, vào khoảng năm 435 Trước Tây Lịch kỷ
nguyên, Phật tử đầu tiên mang Phật Giáo từ Ấn Độ vào
Việt Nam gieo giống Bồ Đề nơi mảnh đất quê hương làm
chất liệu sống và ý nghĩa sự sống cho con Lạc cháu Hồng
chính là Phò Mã Chữ Đồng Tử và Công Chúa Tiên Dung Mỵ
Nương cháu của Hùng Vương đời thứ ba. Kế đến vào khoảng
thế kỷ thứ IX TL, Đinh Tiên Hoàng Đế là vị vua hộ trì
Phật Pháp đắc lực yểm trợ Thiền sư Ngô Chân Lưu hết
mình phát huy chánh pháp bằng cách tổ chức hệ thống Tăng
Cang và thừa nhận đạo Phật là quốc giáo của toàn dân.
Kế đến triều đại đời Lý (1010- 1225) , suốt 215 năm, các
vua chúa, cũng như các quần thần thi đua xây dựng chùa tháp,
tổ chức đạo tràng khắp nơi giúp cho các tu sĩ xuất gia
giảng kinh thuyết pháp, hoằng hoá chúng sanh. Có thể nói,
trong 215 năm của triều đại nhà Lý, Phật Giáo Việt Nam lại
càng được phát triển lớn mạnh vào đời sống xã hội,
mở mang khắp cả quốc gia và tô bồi nền văn hoá Việt Tộc
sáng ngời đến tuyệt đỉnh vinh quang. Từ đó về sau, có
rất nhiều Phật tử tại gia lỗi lạc tiếp nối gương tốt
của tiền nhân hộ trì Phật Pháp hổ trợ tu sĩ đem mạch
sống pháp nhũ vào đời biến thành nền đạo của tổ tiên
ông bà.
b.-
Đến năm 1930 trong giai đoạn phục hưng Phật Giáo Việt Nam,
các Phật tử tại gia lỗi lạc xuất hiện như: Thiều Chửu,
Nguyễn Hữu Kha ở Bắc Việt, Tâm Minh Lê Đình Thám, Chơn
An Lê Văn Định ở Trung Việt, Bác sĩ Nguyễn Văn Khoẻ, Chánh
Trí Mai Thọ Truyền, Bác sĩ Lê Văn Cầm..v..v… ở Nam Việt.
Những vị này đã đóng góp rất lớn công đức trong sự
nghiệp làm sống dậy và sáng ngời tinh thần Phật Giáo dân
tộc.
B.-
BỔN PHẬN ĐỐI VỚI TỰ THÂN :
Phật
tử tại gia muốn hộ trì Phật pháp trước hết tự thân
phải hộ trì tự giác, nghĩa là phải hộ trì những pháp
để tiêu diệt Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Những pháp để tiêu
diệt Kiến Hoặc và Tư Hoặc của Tự giác gồm có:
1.-
Đối với tự thân :
a.-
Phải hộ trì pháp Tam Quy, nghĩa là phải hành ba pháp quy y
cho thuần
thục.
Phải ý thức mình và chư Phật đồng một Phật Tánh sáng
suốt, đồng một pháp tánh từ bi bình đẳng, đồng một
thể tánh thanh tịnh hoà hợp.
b.-
Phải hộ trì Ngũ Giới cho thuần thục, để thể hiện được
giới đức vuông tròn chỉ đạo cho cuộc sống làm người
đầy đủ ý nghĩa nhân cách. Nguyên vì Ngũ Giới là pháp hành
nhằm đào luyện nhân cách và phẩm hạnh của con người trên
phương diện tự giác với mục đích hoá giải những mầm
mống bất thiện đã nằm sẵn trong tâm thức của mỗi con
người.
c.-
Phải hộ trì Thập Thiện cho thuần thục để giới thân huệ
mạng viên thành và tạo nên đạo lực sung mãn đủ sức hoá
giải tất cả phiền não của Kiến Hoặc và Tư Hoặc trong
tâm thức của mình. Thập Thiện cũng là pháp hành ngoài sự
hoá giải những mầm mống bất thiện trong tâm thức con người
và còn bồi dưỡng giới thân huệ mạng đã lãnh thọ cho
được nẩy nở trưởng thành.
d.-
Phải chuyên cần hộ trì Bát Quan Trai Giới được tinh nghiêm
để thiết lập con đường giác ngộ và giải thoát nối liền
cõi Niết Bàn tịch tịnh của chư Phật an trụ nhằm mục
đích giúp cho tâm linh của mình quan hệ đến với chư Phật
trên cuộc hành trình chứng đắc.
Đây
là những pháp căn bản của Phật tử tại gia cần phải tu
tập để làm hành trang cho sự tự giác và chỉ đạo chúng
sanh trong nhiệm vụ giác tha.
2.-
Đối với vợ chồng :
Về
mặt hình thức, gia đình là một đơn vị của xã hội và
nhiều gia đình hợp lại thành xã hội. Cho nên xã hội có
được sự an lạc hay không chính là do tất cả gia đình tạo
nên và muốn cải thiện xã hội trước hết, chúng ta phải
nhắm vào đơn vị gia đình để tu chỉnh. Còn gia đình là
một xã hội nhỏ bao gồm chồng vợ con cái sống chung và
quan hệ với nhau. Gia đình có được hạnh phúc hay không chính
là do chồng vợ con cái có được hoà hợp thật sự hay không.
Gia đình không được hạnh phúc chính là do cá nhân của mỗi
người trong gia đình tạo nên. Muốn gia đình được hạnh
phúc chân thật, trước hết mỗi người trong gia đình đó
phải có tinh thần tự giác và chính họ phải ý thức bổn
phận trong sự sống chung.
Về
mặt tâm linh, gia đình là đơn vị biểu tượng đạo đức
của dòng họ của tông môn. Dòng họ tông môn có được hiển
vinh hay không chính là do gia đình đó có đạo đức hay không.
Để tô bồi nền đạo đức làm người, vợ chồng trong gia
đình phải có những bổn phận như sau :
a.-
Phải kính trọng lẫn nhau,
b.-
Phải áp dụng Pháp Lục Hoà trong việc sống chung,
c.-
Phải hoà hợp trong việc xây dựng gia nghiệp,
d.-
Phải kính trọng cha mẹ hai bên, không có cha mẹ hai bên thì
không có
vợ
chồng để mình thương yêu.
e.-
Phải nhớ công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, không
có cha mẹ thì không có mình và cha mẹ không hy sinh cá nhân
thì mình không thể trưởng thành và đứng vững trong xã hội.
g.-
Về tinh thần phải thấy mình quan hệ bảy đời với cha mẹ
và dòng họ, nguyên vì cha mẹ bảy đời chỉ quá vãng về
thân thể vật chất mà không phải quá vãng về tâm linh và
còn quan hệ gần xa với con cháu về lãnh vực tâm linh này.
h.-
Phai tế tự chu toàn khi cha mẹ qua đời để đền ơn một
phần nào công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ như núi Thái
Sơn, như nước trong nguồn.
C.-
Bổn phận đối với Phật sự :
Nhằm
diệt trừ Trần Sa Hoặc của chúng sanh và Vô Minh Hoặc của
ba cõi về phương diện giác tha, hàng Phật tử tại gia phải
có bổn phận cắt đứt mọi sự ràng buộc phiền não qua
sự quan hệ với cộng đồng nhân loại và thoát ly mọi sự
mê hoặc của vô minh qua nguyên lý trùng trùng duyên khởi trong
ba cõi với phương thức (mượn chúng sanh để diệt chúng
sanh tâm). Để cắt đứt mọi sự quan hệ của phiền não
và thoát ly mọi sự mê hoặc của vô minh, hàng Phật tử tại
gia phải thực hiện những điều kiện sau đây làm hành trang
trên đường tu tập:
1.-
Phải hộ trì An Cư, nghĩa là chúng xuất gia có tổ chức đạo
tràng an cư bất cứ ở đâu, chúng Phật Tử tại gia phải
có bổn phận đến đó góp phần công đức đóng góp vào
pháp an cư cho được hoàn mãn. Nên biết rằng, đạo tràng
An Cư càng được duy trì thì mạng mạch của Như Lai càng
được trường tồn trong thế gian.
2.-
Phải hộ trì cơ sở Tổ Chức: Những cơ sở tổ chức , như
Chùa Chiền, Niệm Phật Đường..v..v…. là những trung tâm
do các bậc Tăng Già xuất gia đứng ra thành lập với mục
đích phát huy chánh pháp phục vụ chúng sanh để báo đền
ân đức của Phật. Chúng Phật tử tại gia phải hết lòng
hộ trì bằng cách đến những nơi đó góp phần công đức
chia xẻ Phật sự cùng với các bậc tôn túc Tăng Già.
3.-
Phải vận động quần chúng ý thức trách nhiệm của mình
là con của Phật và hướng dẫn họ tham gia vào các tổ chức
Phật giáo để cùng nhau đắp xây ngôi nhà chánh pháp của
Như Lai càng thêm huy hoàng, đồng thời khuyến khích họ hưởng
ứng vào các đoàn thể Phật học chuyên nghiệp để phát
huy đạo pháp theo sở trường ngành nghề, nhờ sở trường
ngành nghề sự tu học của họ mới được tiến triển và
đạo nghiệp của họ mới được viên thành.
4.-
Phải hộ giáo, nghĩa là chỗ nào có thiết lập đạo tràng
thuyết pháp do các bậc cao Tăng thạc đức đảm trách, phải
vận động quần chúng cùng nhau đến đó nghe pháp để trí
tuệ được khai thông trên lãnh vực văn huệ; tuy nhiên chúng
ta mặc dù đã thông bác giáo lý, nhưng cũng phải tham gia đến
nghe giảng pháp và sự nghe giảng pháp của chúng ta với nhiệm
vụ là hộ trì Phật Pháp để khuyến khích những người
mới bước chân vào đạo tăng thêm tín tâm. Những điều
kiện nói trên cũng là phương pháp độ tha của hạnh Bồ
Tát.
D.-
Bổn phận đối với Phật sự hải ngoại :
Sau
biến cố năm 1975, Phật tử Việt Nam vượt biên ra nước
ngoài đi tìm tự do và đã được định cư khắp nơi trên
thế giới. Nhưng các quốc gia mà Phật tử Việt Nam định
cư không cùng một loại văn hoá và đạo đức với dân tộc
Việt Nam cũng như với Phật Giáo Việt Nam. Cho nên dân tộc
Việt Nam nẩy nở và phát triển trên những mảnh đất mới
khác văn hoá khác đạo đức thì nhất định sẽ bị biến
thái cũng giống như những loài hoa nhiệt đới được gieo
trồng trên những mảnh đất hàn đới, dù có chăm sóc kỹ
lưỡng đi nữa cũng khó khăn trong việc trưởng thành. Ý thức
được những thực trạng nói trên, các bậc tôn túc Tăng
Già tâm huyết kêu gọi các Phật tử tại gia khắp nơi vì
tiền đồ đạo pháp và dân tộc ở xứ người, hợp tác
nhau lại góp phần xây dựng nền móng văn hoá và đạo đức
làm người để con cháu nương tựa trưởng thành trong sự
hạnh phúc an vui chân thật. Mỗi chủng tộc đều có một
tôn giáo để hổ trợ tinh thần cho chủng tộc đó, như chủng
tộc Do Thái thì có tôn giáo của Do Thái, chủng tộc Mormon
thì có tôn giáo của Mormon, chủng tộc Tây Tạng thì có tôn
giáo của Tây Tạng..v..v….., chủng tộc Việt Nam thì cũng
phải có tôn giáo của Việt Nam mà trong đây Phật Giáo chính
là một trong những tôn giáo của chủng tộc Việt Nam. Điều đáng chú ý, người Tây Tạng cũng tỵ nạn như chúng
ta, nhưng họ biết đưa chủng tộc và tôn giáo của họ hiển
vinh tuyệt đỉnh mà các quốc gia trên thế giới đều quan
tâm đến họ. Còn chúng ta vì thiếu sự kết hợp nhất trí
cho nên không tạo được thế đứng như người Tây Tạng.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại
Hoa Kỳ Văn Phòng II Viện Hoá Đạo mong mõi các Phật tử tại
gia khắp nơi trên thế giới ý thức trách nhiệm của mình
cố gắng hợp tác cùng với Giáo Hội góp phần xây dựng
đạo pháp và dân tộc để chuyên chở giống nòi trưởng
thành và tồn tại muôn đời trên những mảnh đất tự do
quê hương mới lập. Sự họp tác này của quý Phật tử tại
gia hải ngoại chính là nghĩa cữ vô cùng trọng đại trên
con đường phụng sự đạo pháp và dân tộc nơi xứ người.
IV.-
KẾT LUẬN :
Những
bổn phận vừa trình bày ở trước không phải của hàng Phật
tử xuất gia hành sử mà những bổn phận đây chỉ dành riêng
cho hàng Phật tử tại gia hộ trì. Những pháp hành về bổn
phận đây không những lợi ích trên phương diện tự giác
giác tha, tự độ độ tha mà còn đánh giá được tinh thần
vị tha cứu đời của người con Phật. Muốn mình xứng đáng
là đệ tử chân chánh của Phật, muốn gia đình của mình
được hạnh phúc thực sự, muốn cho đạo hạnh của mình
được vuông tròn, hàng Phật tử tại gia phải trải qua sự
hành sử thuần thục những bổn phận căn bản nói trên. Nhất
là tất cả cộng đồng Việt Nam hải ngoại hiện đang sống
trong những nơi xứ sở hoàn toàn khác văn hoá, khác đạo
đức, thì nhất định cần phải xây dựng đạo đức dân
tộc làm nền tảng tâm linh cho giống nòi nương tựa. Tục
ngữ có câu (Hoa thơm nhờ nhụy, người có giá trị nhờ đạo
đức). Con người được may mắn là nhờ có đạo đức và
đạo đức nếu như ra đi thì con người bị tai hoạ, đạo
đức không có hình tướng cho nên không thể nắm bắt, nó
đến với con người lúc nào không biết và ra đi lúc nào
con người cũng không hay, nhưng có một điều là đạo đức
được phát sanh từ nơi những bổn phận căn bản của con
người. Hàng Phật tử tại gia, nhất là những Phật
tử hải ngoại đã chọn đức Phật làm cha lành, đã chọn
giáo lý của đức Phật làm lẽ sống cho nên phải có bổn
phận phát huy chánh pháp phụng sự quần sanh trước hết là
báo đáp công ơn sâu dầy của đức Phật và sau là tạo dựng
đạo đức cho con cháu nương nhờ. Để hoàn thành nghĩa vụ
cao cả của con Phật ở xứ người, toàn thể Phật tử tại
gia hải ngoại phải nhất trí dấn thân, phải hết mình đoàn
kết trong lãnh vực hộ trì Phật Pháp và nếu được như
thế chí nguyện mới viên thành. [Một cây làm chẳng nên non,
ba cây dụm lại nên hòn núi cao], cầu mong toàn thể Phật
tử tại gia gần xa hãy quan tâm đến những điều tâm sự
này với ý niệm thiết tha đạo pháp.
Ngày
17.4.2003
THÍCH
THẮNG HOAN
Discussion about this post