BÁ TRƯỢNG NGỮ LỤC
Hoài Hải Thiền Sư
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Từ Ân Thiền Đường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
SỬ
Tác
giả húy Hoài Hải, họ Vương, người Trướng Lạc, Phước
Châu. Thuở bé theo mẹ vào chùa lễ Phật, chỉ tượng Phật
hỏi mẹ : “Đây là ai”. Mẹ nói : “Là Phật”. Sư nói : “Hình
dạng Phật với người chẳng khác, tôi sau nầy cũng sẽ làm
Phật”.
Sư
xuất gia từ thở thiếu thời, tam học đều thông, ham thích
thiền đốn ngộ, nghe thiền sư Mã Tổ Đạo Nhật khai hóa
ở Nam Khang (nay là núi Mã Tổ ở Giang Tây), Sư bèn hết lòng
y chỉ. Sau khi nối pháp Mã Tổ, Sư được đàn tín thỉnh
trụ trì Đại Trí Thọ Thánh thiền tự ở núi Đại Hùng
thuộc Hồng Châu, núi cao chót vót, nước suối Ngô Nguyên
bay xuống ngàn thước, nên có tên là núi Bá Trượng. Sư trụ
trì chưa đầy một tháng, người bốn phương đến tham học
vân tập hơn một nghìn, trong đó Qui Sơn và Hoàng Bá làm thượng
thủ. Từ đó pháp môn càng ngày càng hưng thạnh, tông phong
lừng lẫy, Sư bèn quyết ý lập ra thiền viện đầu tiên.
Trước kia các tự viện thiền tông đều nhờ vào chùa của
luật tông, từ nay mới được lập riêng. Sư là người khởi
sáng cho thiền tự được độc lập, soạn định chế độ
tòng lâm, gọi là Bá Trượng thanh quy, nên cũng được tôn
xưng là Tổ Trung Hưng của thiền tông.
Sư
là người siêng năng làm việc, mỗi khi có việc nhà chùa
đều tự mình làm trước cả đại chung; người chủ sự
lén dấu dụng cụ canh tác của Sư, mời Sư nghỉ ngơi, Sư
nói : “Đức ta không đủ, đâu dám trút sự lao động của
mình cho người khác!”. Kiếm dụng cụ không được thì ngày
đó không ăn, cho nên mới có câu : “Nhất nhật bất tác, nhất
nhật bất thực” (Một ngày không làm, một ngày không ăn).
Vì thế mới biết được gia phong của Sư chân thật như thế
nào, thật đáng làm mô phạm cho muôn đời.
Ngày
17 tháng giêng năm Nguyên Hòa thứ 9 đời nhà Đường (CN 8l4)
Sư thị tịch, thọ 9l tuổi, đệ tử được phó pháp là Qui
Sơn Linh Hựu thiền sư, Hoàng Bá Hy Vận thiền sư, v.v… tất
cả có 28 người, hết thảy đều là môn đồ xuất sắc,
kỳ lân, phụng hoàng trong Phật pháp. Ngoài tác phẩm này ra
còn có Bá Trượng Thanh Qui 2 quyển. Năm Trường Khánh thứ
nhất đời Đường Mục Tông, được sắc ban là Đại Trí
Thiền Sư, tháp hiệu là Đại Bảo Thắng Luân.
*
*
*
Sư
làm thị giả cho Mã Tổ, mỗi khi thí chủ cúng dường trai
phạn Mã Tổ, Sư vừa mở nắp đậy đồ ăn thì Mã Tổ liền
lấy một miếng bánh thị chúng rằng : “Là cái gì?”. Mỗi
mỗi như thế trải qua ba năm.
*
*
*
Một
hôm sư theo hầu Mã Tổ, có một bầy vịt trời bay qua, Tổ
nói :
“Là
gì vậy?” – Sư nói : “Vịt trời”. Tổ nói : “Đi đâu rồi?”
– Sư nói : “Bay qua rồi”. Tổ bèn quay lại nhéo mũi Sư một
cái, Sư đau la thất thanh. Tổ nói : “Sao nói bay qua rồi!”.
Sư
ngay đó tỉnh ngộ, rồi liền trở về phòng thị giả khóc
to thảm thiết. Bạn đồng tham hỏi rằng : “Ông nhớ cha mẹ
à?” – Sư nói :
“Không”.
Lại hỏi : “Bị người ta mắng chửi à? – Sư nói : “Không”.
Lại hỏi : “Thế tại sao khóc?” – Sư nói : “Tôi bị Đại sư
nhéo mũi đau thấu xương”. Người đồng tham nói : “Có nhân
duyên gì không khế hợp chăng?” – Sư nói : “Ông cứ đi hỏi
Hòa thượng xem”. Người đồng tham bèn đến hỏi Mã Tổ rằng
: “Thị giả Hoài Hải có nhân duyên gì không khế hợp mà
khóc ở trong liêu phòng, xin Hòa Thượng nói cho con biết”.
Tổ nói : “Ông ta ngộ rồi, người cứ hỏi thẳng ông ta”.
Người đồng tham trở lại liêu phòng nói với Sư : “Hòa Thượng
nói ông ngộ rồi và bảo tôi hỏi thẳng ông”. Sư bèn cưới
ha hả.
Người
đồng tham nói : “Vừa mới khóc tại sao bây giờ lại cười?”
– Sư nói : “Vừa mới khóc bây giờ cười”. Người đồng tham
ngơ ngác.
Hôm
sau, khi Mã Tổ thăng tòa, chúng vừa vân tập thì Sư bước
ra cuốn chiếu lại. Tổ bèn xuống tòa. sư liền theo đến
phương trượng. Tổ nói : “Hồi nãy ta chưa từng nói năng
gì tại sao ông cuốn chiếu lại vậy?” – Sư nói : “Hôm qua
bị Hòa Thượng nhéo mũi đau”. – Tổ nói : “Hôm qua ông để
tâm vào đâu?” – Sư nói : “Lỗ mũi con hôm nay lại chẳng đau
nữa”. Tổ nói : “Ông thấu rõ việc hôm qua rồi” – Sư làm
lễ mà lui ra.
*
*
*
Sư
ngộ rồi tái tham; lúc đang hầu bên cạnh Mã Tổ, Tổ chăm
chú nhìn cái phất trần ở góc thiền sáng (chỗ Tổ ngồi)
– Sư nói :
“Tức
dụng nầy, lìa dụng nầy”.
Tổ
nói : “Về sau ông làm sao mở miệng dạy bảo người?”.
Sư
lấy cái phất trần đưa lên.
Tổ
nói :
“Tức
dụng nầy, lìa dụng nầy”. – Sư treo phất trần về chỗ cũ.
Tổ bèn oai hùng hét mạnh lên một tiếng làm sư bị điếc
tai luôn ba ngày.
*
*
*
Một
hôm, Hoàng Bá vào phòng Sư thưa rằng :
“Con
muốn đi lễ bái Mã Tổ”
Sư
nói :”Mã Tổ đã tịch rồi”.
Bá
nói :
“Chưa
rõ Mã Tổ có để lại lời nào chăng?”
Sư
bèn kể lại nhân duyên tái tham với Mã Tổ mà nói rằng :
“Phật
pháp không phải là việc nhỏ đâu, lão tăng lúc ấy vì cái
hét của Mã Tổ mà bị điếc tai luôn ba ngày”.
Bá
nghe kể đến đây bất giác lè lưỡi.
Sư
nói :
“Ông
về sau có nối pháp Mã Tổ không?”
Bá
nói :
“Không,
hôm nay nhờ Hòa Thượng kể lại mới được thấy đại cơ
đại dụng của Mã Tổ, nhưng không biết mặt Mã Tổ, mà
nếu nối pháp của Mã Tổ thì sau nầy sẽ làm mất con cháu
ta”.
Sư
nói :
Đúng
thế, đúng thế,. Cái thấy bằng với thầy thì kém phân nửa
đức của thầy. Cái thấy hơn thầy thì mới đủ tư cách
truyền thụ. Ông thực có cái thấy siêu việt hơn thầy.
Bá
liền lễ bái.
*
*
*
Về
sau Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn :
“Cái
nhân duyên đưa phất trần lên của Bá Trượng tái tham Mã
Tổ, ý chỉ của hai vị tôn túc nầy như thế nào?”.
Ngưỡng
Sơn nói :
“Đó
là hiển bày đại cơ đại dụng”.
Qui
Sơn nói :
“Dưới
Mã Tổ có 84 người đắc pháp là đại thiện tri thức xuất
sắc mấy người đắc đại cơ mấy người đắc đại dụng?”.
Ngưỡng
Sơn nói :
“Bá
Trượng đắc đại cơ, Hoàng Bá đắc đại dụng, còn lại
đều là thầy giảng đạo”.
Qui
Sơn nói :
“Đúng
thế, đúng thế.
*
*
*
Mã
Tổ sai người đem thư và ba hũ tương cho Sư, Sư bảo đem
xếp trước pháp đường rồi thăng tòa. Chúng vừa vân tập
thì Sư lấy gậy chỉ vào ba hũ tương rằng :
“Nói
được thì không đập bể, nói không được thì đập bể”.
Chúng
lặng thinh.
Sư
bèn đập bể rồi trở về phương trượng.
*
*
*
Một
hôm Mã Tổ hỏi Sư :
“Từ
đâu đến?”
Sư
nói
“Từ
sau núi đến”.
Tổ
nói :
“Có
gặp một người nào không?”
Sư
nói :
“Nếu
gặp thì kể với Hòa Thượng”.
Tổ
nói :
“Được
tin tức nầy ở chỗ vào vậy?”
Sư
nói :
“Tội
lỗi của con”.
Tổ
nói :
“Ấy
là tội lỗi của Lão tăng”.
*
*
*
Có
một tăng vừa khóc vừa đi vào pháp đường.
Sư
nói :
“Làm
sao vậy?”.
Tăng
ấy nói :
“Cha
mẹ đều mất, xin thầy chọn ngày cho”.
Sư
nói :
“Ngày
mai đến đây chôn cùng một lượt”.
*
*
*
Một
hôm Qui Sơn, Ngũ Phong, Vân Nham đang đứng hầu, Sư hỏi Qui
Sơn
:
“Nếu
bỏ cả cổ, họng, môi, mép thì nói như thế nào?”
Qui
Sơn nói :
“Xin
Hòa Thượng nói cho”
Sư
nói :
“Ta
không từ chối nói với ông, chỉ e về sau làm mất con cháu
của ông”.
Lại
hỏi Ngũ Phong. Ngũ Phong nói :
“Hòa
Thượng cũng cần bỏ cả đi”.
Sư
nói :
“Nơi
vắng vẻ sẽ dõi mắt nhìn ông”
Lại
hỏi Vân Nham. Vân Nham nói :
“Hòa
Thượng có hay chưa?”.
Sư
nói :
“Làm
mất con cháu ta”.
*
*
*
Mỗi
ngày Sư thăng tòa thường có một cụ già theo chúng nghe pháp.
Một
hôm chúng tan rồi mà cụ không đi. Sư mới hỏi :
“Người
đứng đó là ai vậy?”.
Cụ
già đáp :
“Tôi
chẳng phải thân người. Vào đời Phật Ca Diếp trong quá
khứ tôi đã từng ở núi nầy. Có người tham học hỏi tôi
: “Người đại tu hành có còn lọt vào nhân quả không?”. Tôi
đáp : “Bất lạc nhân quả” (chẳng lọt vào nhân quả), nên
bị đọa làm thân chồn năm trăm kiếp. Nay xin Hòa Thượng
cho tôi một chuyển ngữ để tôi được giải thoát thân chồn.
Sư
nói :
“Người
hỏi đi?”.
Cụ
già bèn hỏi :
“Người
đại tu hành có còn lọt vào nhân quả không?”.
Sư
nói :
“Bất
muội nhân quả” (nhân quả rõ ràng).
Cụ
già ngay đó đại ngộ, đảnh lễ rằng :
“Tôi
đã thoát thân chồn, nay xác ở sau núi, xin Sư y theo lệ tăng
mất mà thiêu cho”.
Sư
bảo Duy Na đánh chuông báo cho đại chúng biết thọ trai xong
xin mời tất cả đi đưa đám tăng chết.
Đại
chúng không rõ ra sao. Sư dẫn chúng đến hang đá phía sau núi
lấy gậy khều ra một con chồn chết rồi y theo thường lệ
mà hỏa táng. Như một ông tăng viên tịch.
Đến
tối, Sư kể lại nhân duyên trên, Hoàng Bá bèn hỏi :
“Người
xưa chỉ đáp sai một câu chuyển ngữ mà bị đọa thân chồn
500 kiếp, nay chuyển ngữ nào cũng không đáp sai thì như thế
nào ?”.
Sư
nói :
“Lại
gần đây ta nói cho nghe”.
Hoàng
Bá đến gần bạt tai Sư một cái.
*
*
*
Tăng
hỏi :
“Thế
nào là việc kỳ đặc?”
Sư
đáp :
“Độc
tọa ở Đại Hùng Sơn”.
Vị
tăng lễ bái.
Sư
bèn đánh.
*
*
*
Nhân
lúc phổ thỉnh tăng chúng đi cuốc đất, có một vị tăng
nghe tiếng trống liền vác cuốc lên vai rồi cười lớn đi
về.
Sư
nói :
“Hay
quá! Đây là cửa của Quan Âm nhập lý” khi về chùa Sư gọi
vị tăng ấy đến hỏi :
“Hồi
nãy ông thấy đạo lý gì mà làm vậy?”.
Tăng
ấy đáp :
“Hồi
nãy tôi cảm thấy đói bụng, nên nghe tiếng trống liền trở
về ăn cơm”.
Sư
liền cười.
*
*
*
Một
tăng kể chuyện rằng :
“Tăng
hỏi Thiền Sư Tây Đường : – “Có hỏi, có đáp, tạm gạt
qua một bên, lúc không hỏi không đáp thì như thế nào?”.
Tây Đường nói : “Sợ xình thúi sao?”
Sư
nghe kể xong bèn nói :
“Lây
nay ta cứ nghi lão ông tăng ấy nói”.
“Xin
Hòa Thượng nói cho”.
Sư
nói :
“Nhất
hợp tướng là bất khả đắc”.
*
*
*
Sư
dạy chúng rằng :
“Có
một người lâu ngày không ăn cơm chẳng nói đói, có một
người suốt ngày ăn cơm chẳng nói no”. Tăng chúng không có
ai trả lời.
Công
án này giống như Ngài Lâm Tế nói :
“Có
một người suốt kiếp ở giữa đường mà chẳng lìa nhà,
có một người lìa nhà mà chẳng ở giữa đường. Vậy ai
là người đáng được trời người cúng dường?”. Thiền
sư Đại Huệ nhắc lại lời của Lâm Tế rồi nói :
“Tặc
thân dĩ lộ” (Thân trộm cắp đã hiện ra).
*
*
*
Vân
Nham hỏi Sư rằng :
“Hòa
Thượng mỗi ngày bận rộn vì ai?”.
Sư
nói :
“Có
một người muốn”.
Vân
Nham nói :
“Tại
sao không bảo y tự làm?”.
Sư
nói :
“Y
không có việc nhà”.
*
*
*
Sư
sai tăng đến chỗ Thiền sư Chương Kính và dặn :
“Hễ
thấy Ngài thăng tòa thuyết pháp thì ông trải tọa cụ ra,
lễ bái xong đứng dậy cầm một chiếc dép lấy tay áo phủi
bụi bám rồi lật úp dép xuống”.
Tăng
ấy đi đến chỗ Thiền sư Chương Kính và làm đúng theo lời
chỉ dạy của Sư.
Chương
Kính nói :
“Tội
lỗi của Lão tăng”.
*
*
*
Tăng
hỏi Sư :
“Ôm
phác (ngọc quí ở trong đá) đi tìm thầy, xin thầy khám xét”.
Sư
nói :
“Hôm
qua trên núi Nam Sơn có con hổ cắn con cọp”.
Tăng
nói :
“Lời
chú giải chân thật rất đúng, tại sao chẳng rủ lòng phương
tiện?”
Sư
nói :
“Thằng
ăn trộm chuông rung (loại chuông hễ rung là phát tiếng) mà
tự bịt tai”.
Tăng
nói :
“Gỗ
Cẩm Lai chẳng gặp thợ giỏi cũng đồng như củi rừng”.
Sư
bèn đánh.
Tăng
kêu :
“Trời
ơi! Trời ơi!”
Sư
nói :
“Sao
dài dòng quá vậy”.
Tăng
nói :
“Hiếm
gặp tri kỷ”.
Rồi
quay đầu bỏ đi.
Sư
nói :
“Bá
Trượng hôm nay thua hết phân nửa”. Đến chiều, thị giả
hỏi :
“Hòa
Thượng bị tăng này chê bỏ rồi thì thôi sao?”
Sư
bèn đánh.
Thị
giả la :
“Trời
ơi! Trời ơi!”
Sư
nói :
“Hiếm
gặp tri kỷ”.
Thị
giả đảnh lễ.
Sư
nói :
“Tất
cả một lượt nhận lãnh xong”.
*
*
*
Triệu
Châu đến tham vấn Sư, Sư hỏi :
Mới
lìa nơi nào đến đây?
Đáp
:
Nam
Tuyền.
Sư
nói :
Nam
Tuyền gần đây có lời dạy chi?
Đáp
:
Người
chưa chứng đắc cần phải nín lặng.
Sư
nói :
Một
câu nín lặng tạm gạt một bên, một câu mịt mù thì nói
như thế nào?
Triệu
Châu bước đến ba bước. Sư liền hét. Triệu Châu làm thế
lùi lại. Sư nói :
Nín
lặng tốt lắm chứ!
Triệu
Châu bèn đi ra.
*
*
*
Một
lần sư thuyết pháp xong, đại chúng đi ra thì sư gọi lại,
đại chúng quay đầu lại, Sư liền hỏi : “Là cái gì?”. Người
đời xưng tụng câu đó là “Bá Trượng hạ đường cú”. (Câu
thoại xuống tòa).
*
*
*
Sư
thăng tòa nói :
“Linh
quang độc chiếu (sáng tỏ), thoát hẳn căn trần, thể lộ
chân thường, chẳng kẹt văn tự, tâm tính vô nhiễm, vốn
tự viên thành, hễ lìa vọng duyên tức như chư Phật”.
*
*
*
Tăng
hỏi :
Thế
nào là pháp yếu của đại thừa đốn ngộ?
Sư
nói :
Các
người trước ngưng các duyên, thôi nghĩ muôn việc, thiện
và bất thiện thế gian và xuất thế gian, tất cả các pháp
chớ ghi nhớ, chớ duyên niệm buông bỏ thân tâm khiến cho
tự tại, tâm như gỗ đá chẳng còn phân biệt, tâm vô sở
hành. Tâm địa nếu không thì huệ nhựt tự hiển, như đám
mây tan thì mặt trời hiện ra. Hễ ngưng nghỉ tất cả phan
duyên những hình thức tham sân, ái thủ, cầu tịnh đều sạch
đối với ngũ dục, bát phong chẳng bị lay động, chẳng bị
kiến văn giác tri trói buộc, chẳng bị các cảnh xấu đẹp
mê hoặc, tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, ấy
là người giải thoát. Đối với tất cả cảnh giới, tâm
chẳng tịnh chẳng loạn, chẳng nhiếp chẳng tán, thấu qua
tất cả thanh sắc, chẳng có trệ ngại gọi là đạo nhân.
Thiện
ác thị phi đều chẳng tác ý, cũng chẳng mến một pháp,
cũng chẳng bỏ một pháp, gọi là người đại thừa. Chẳng
bị tất cả thiện ác, không hữu, cấu tịnh, hữu vi vô vi,
thế gian xuất thế gian, phước đức trí huệ ràng buộc,
gọi là Phật huệ. Thị phi tốt xấu, đúng lý sai lý, các
tri kiến tình thức đều sạch hết, chẳng có trói buộc,
chẳng có giải thoát, nơi nơi tự tại, gọi là bồ tát mới
phát tâm liền lên địa vị Phật.
Hỏi
:
Đối
với tất cả cảnh giới làm sao được “tâm như gỗ đá đi”?
Sư
nói :
Tất
cả các pháp vốn chẳng tự nói không, chẳng tự nói sắc,
cũng chẳng tự nói thị phi, cấu tịnh, cũng không có tâm
trói buộc người, chỉ vì người tự hư vọng, tính toán,
chấp trước, bày đặt đủ thứ lý lẽ, sanh khởi đủ thứ
tri kiến, móng lên đủ thứ yêu ghét. Hễ rõ các pháp vốn
chẳng tự sanh, đều do một niệm vọng tưởng của mình điên
đảo chấp tướng mà có, nếu biết tâm với cảnh vốn chẳng
đến với nhau thì ngay đó giải thoát, mỗi mỗi các pháp
ngay đó tịch diệt, ngay đó là đạo tràng.
Lại,
cái bản tánh sẵn có ấy vốn chẳng tên gọi, bổn lai chẳng
phải phàm, chẳng phải thánh, chẳng phải cấu tịnh, chẳng
phải không hữu, chẳng phải thiện ác…, hễ có tâm phân
biệt thì với các “nhiễm pháp” tương ưng, gọi là hàng nhị
thừa và trời, người; nếu không phân biệt cấu tịnh, chẳng
trụ trói buộc, chẳng trụ giải thoát, không có tất cả
tâm lượng hữu vi vô vi, thì ở nơi sanh tử, tâm được tự
tại.
Tự
tánh bất nhị vốn chẳng hòa hợp với các vọng như hư huyễn
trần lao, ngũ uẩn, thập bát giới, sanh tử…, vốn độc
lập không có chỗ dựa, tất cả chẳng dính mắc, đi ở vô
ngại, vãng lai sanh tử giống như cửa mở.
Người
học đạo nếu gặp mỗi mỗi khổ vui, các việc vừa ý hay
chẳng vừa ý, tâm vô sở trụ, chẳng nghĩ danh vọng, lợi
dưỡng, ăn mặc, chẳng ham công đức lợi ích, chẳng bị
các pháp thế gian trệ ngại, không yêu không ghét, khổ vui
bằng nhau, áo vá che thân, cơm hẩm qua ngày, ngơ ngơ như ngu
như điếc, đối với tự tánh mới có ít phần tương ưng.
Nếu nơi ở tâm rộng học tri giải cầu phước cầu trí,
đều là sanh tử, đếu là vô ích. Lại bị ngoại cảnh tri
giải lôi kéo, trôi nổi đi vào trong biển sanh tử. Phật là
người vô cầu, cầu tức là trái. Lý là lý vô cầu, cầu
tức là mất. Nếu chấp trước vô cầu, lại đồng nơi có
cầu, nếu chấp trước vô vi, lại đồng nơi hữu vi. Nên
kinh nói : “Chẳng chấp pháp, chẳng chấp phi pháp, chẳng chấp
phi phi pháp”. Cũng nói :”Như Lai sở đắc pháp, pháp này vô
thực vô hư”. Hễ được nhất tâm bất sanh, giống như gỗ
đá, chẳng bị ngũ dục, bát phong cuốn trôi, thì cái nhân
sanh tử được dứt, được đi ở tự do, chẳng bị tất
cả nhân quả hữu vi trói buộc. Sau khi ngộ rồi thì dùng
cái nhân vô trói buộc đó để làm lợi ích chúng sanh, dùng
cái tâm vô chấp trước đó để ứng cơ tiếp vật, dùng
cái trí huệ vô ngại đó để mở trói cho tất cả, cũng
gọi là tùy bệnh cho thuốc.
*
*
*
Hỏi
:
Như
nay thọ giới, thân miệng thanh tịnh, đã đủ các thiện có
được giải thoát không?
Sư
đáp :
Được
chút phần giải thoát mà chưa được tâm giải thoát, cũng
chưa được tất cả chỗ đều giải thoát.
*
*
*
Hỏi
:
Thế
nào là tâm giải thoát và tất cả chỗ đều giải thoát?
Sư
đáp :
Chẳng
cầu Phật, chẳng cầu pháp, chẳng cầu tăng, cho đến chẳng
cầu phước trí, tri giải, tình chấp như sạch đều dứt
hết, cũng chẳng chấp không cầu là phải, cũng chẳng trụ
nơi chỗ dứt hết, cũng chẳng mến thiên đường, cũng chẳng
sợ địa ngục, trói buộc và giải thoát đều vô ngại, tức
là thân tâm và tất cả chỗ đều được giải thoát.
Ông
chớ cho rằng có được chút phần giới thân miệng ý thanh
tịnh là xong, đâu biết rằng pháp môn giới định huệ dù
như số cát sông Hằng mà đối với vô lậu giải thoát đều
chưa dính dáng một mảy lông.
Hãy
nỗ lực tiến lên! Hãy dũng mãnh tham cứu! Đừng đợi đến
khi tai điếc, mắt mờ, mặt nhăn, đầu bạc, già khổ đến
thân, buồn thương vương vấn, lệ rơi dầm dề, trong lòng
sợ hãi không cò gì để nương tựa và không biết phải đi
về đâu. Đến lúc ấy, muốn tay chân không run rẩy cũng không
được. Dẫu cho có phước trí, tiếng tăm, lợi dưỡng cũng
không cứu được, vì tâm huệ chưa mở, chỉ nghĩ đến các
cảnh, chẳng biết phản chiếu, chẳng thấy Phật đạo. Khi
lâm chung, tất cả nghiệp duyên thiện ác một đời đều
hiện trước mắt, ngũ uẩn, lục đạo, hoặc vui mừng hoặc
khủng bố, thảy đều hiện tiền. Tất cả ác cảnh đều
tùy theo sự tham ái của tự tâm mà biến thành cảnh thù thắng
như nhà cửa đẹp đẽ, xe cộ chói lọi hiển hách, chỗ nào
tham ái nặng thì nghiệp thức dẫn dắt theo đó thọ sanh,
thai trâu bụng ngựa tùy nghiệp đầu thai, không có phần tự
do.
*
*
*
Hỏi
:
Thế
nào là được phần tự do?
Sư
đáp :
Như
nay được thì được, hoặc đối với ngũ dục, bát phong,
tâm không lấy bỏ, bỏn xẻn, ganh tị, tham ái, tình chấp
ngã sở đều sạch, nhơ sạch đều quên, cũng như mặt trời
trên hư không, chẳng duyên mà chiếu, tâm tâm như gỗ đá,
niệm niệm (tham thiền) như cứu lửa cháy đầu, cũng như
voi lớn qua sông cứ băng ngang giòng nước không chút nghi ngờ.
Người nầy thiên đường địa ngục không câu thúc được.
Người
xem kinh giáo, đọc ngữ ngôn đều nên uyển chuyển qui về
tự kỷ. Nên biết tất cả ngôn giáo của Phật chỉ để
hiển bày cái giác chiếu soi của tự tánh. Tâm mình hễ không
bị tất cả các cảnh hữu vô xoay chuyển tức là đạo sư
của chính mình. Chiếu phá được tất cả các cảnh hữu
vô, ấy là Kim Cang Huệ, tức là có phần độc lập tự do.
Nếu mà không được như thế, dẫu cho tụng thuộc hết 12
bộ kinh chỉ thành kẻ tăng thượng mạn, ấy là báng Phật,
chẳng phải người tu hành. Hễ lìa được tất cả thanh sắc,
cũng chẳng trụ nơi lìa, cũng không có tri giải chấp chẳng
trụ, ấy là chân tu hành. Đọc kinh xem giáo, theo tiêu chuẩn
thế gian là việc tốt, nếu theo người thấu lý mà xem, đó
là người ngu dại. Người thập địa nếu thoát chẳng được,
còn phải trôi vào sông sanh tử. Kinh giáo của tam thừa đều
là trị các bệnh tham sân, như hiện nay nếu niệm niệm có
các bệnh tham sân nên cần phải trị trước, chẳng cần tìm
cầu tri giải, nghĩa cú trong kinh. Cầu tri giải thuộc về
tham, tham tri giải trong kinh lại biến thành bệnh. Như nay chỉ
cần lìa tất cả các pháp hữu vô, cũng lìa nơi lìa, thấu
qua ngoài “ba câu”, tự nhiên với Phật chẳng khác. Tự đã
là Phật còn lo gì Phật chẳng biết thuyết pháp, chỉ e chẳng
phải Phật mà bị các pháp hữu vô trói buộc chẳng được
tự do. Người chưa ngộ lý, phước trí có trước, bị xe
phước trí chở đi như hèn sai sang, chẳng bằng ngộ lý trước
rồi sau mới có phước trí. Nếu muốn phước trí tức khắc
có liền, nắm đất thành vàng, nắm vàng thành đất, biến
nước biển thành tô lạc, phá núi Tu Di thành vi trần, bốn
biển lớn nhiếp vào một lỗ chân lông, nơi một nghĩa làm
vô lượng nghĩa, nơi vô lượng nghĩa làm một nghĩa. Xin đại
chúng trân trọng!
*
*
*
Sư
khai thị rằng :
Ngôn
ngữ cần phải phân biệt trắng đen, cần phải biết là lời
nói chung hay lời nói riêng, lời nói liễu nghĩa hay bất liễu
nghĩa.
Kinh
giáo liễu nghĩa phân biệt về thanh (trong) còn kinh giáo bất
liễu nghĩa phân biệt về trược (đục). Nói cấu bên pháp
uế là phân biệt về phàm, nói cấu bên pháp tịnh là phân
biệt về thánh. Nay thuyết từ chín bộ giáo điển tiến lên,
chúng sanh không có mắt, cần phải nhờ người gọt giũa.
Nếu nói với người tục tai điếc, cần phải dạy họ xuất
gia trì giới, tu thiền học huệ, nếu là người tục siêu
xuất thì không nên dạy họ như thế, như trường hợp các
ngài Duy Ma Cật, Phó Đại Sĩ….Đối với bậc Sa Môn đã
thọ giới cụ túc, sức giới định huệ đã có mà nói như
thế thì gọi là phi thời ngữ (chẳng ứng cơ), cũng gọi
là ỷ ngữ (nói thêu dệt). Nếu là bậc Sa Môn phải nói cấu
bên pháp tịnh, phải nói lìa các pháp có không, lìa tất cả
tu chứng, cũng lìa cả cái lìa nữa. Nếu trong hàng Sa Môn
mà tẩy trừ tập nhiễm tham sân không được cũng gọi là
kẻ tục tai điếc, phải dạy họ tu thiền học huệ. Nếu
hàng tăng sĩ Nhị thừa đã dứt được bệnh tham sân mà còn
trụ nơi vô tham, cho đó là đúng, là thuộc về vô sắc giới,
là ngăn trở ánh sáng Phật là làm thân Phật chảy máu, cũng
phải dạy họ tu thiền học huệ.
Cần
phải biện biệt rõ ràng lời nói thanh, trược. Pháp trược
là các danh từ tham, sân, ái, thủ….Pháp thanh là các danh
từ Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát….Nay cái giác chiếu soi
chỉ cần đối với hai giòng thanh trược, các pháp thánh phàm,
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, các pháp thế gian và xuất
thế gian… đều chẳng nên có mảy may ái thủ. Đã chẳng
ái thủ mà y trụ vào chẳng ái thủ cho đó là phải, ấy
là Sơ thiện, là trụ nơi điều phục tâm, là hàng Thanh Văn,
là người đã đến bờ rồi mà còn lưu luyến chiếc bè không
chịu bỏ là đạo Nhị thừa, là quả Thiền na. Đã chẳng
ái thủ cũng chẳng y trụ nơi chẳng ái thủ, là Trung thiện,
là bán – tự – giáo, vẫn còn là vô sắc giới, khỏi sa vào
đạo Nhị thừa, khỏi lạc vào lối Ma dân, vẫn còn là bệnh
Thiền na, còn bị trói buộc vào Bồ tát thừa. Đã không y
trụ nơi chẳng ái thủ và cũng không khởi cái tri giải về
không y trụ, ấy là Hậu thiện, là mãn – tự – giáo, khỏi
rơi vào vô sắc giới, tránh khỏi bệnh Thiền na, khỏi sa
vào Bồ tát thừa, khỏi bị đọa vào địa vị Ma vương,
nhưng vì bị trí chướng, địa chướng, hành chướng nên
thấy Phật tánh của mình như ban đêm thấy hình sắc.
Về
tập khí vi tế, Phật nói : “Muốn đến địa vị Phật phải
đoạn dứt hai thứ ngu : Một là vi tế sở tri ngu, hai là cực
vi tế sở tri ngu”. Cho nên kinh nói : “Có bậc đại trí đập
vỡ hạt bụi lấy ra quyển kinh”. Nếu thấu suốt nghĩa ba
câu thì chẳng bị kẹt nơi ba đoạn Sơ, Trung, Hậu thiện.
Giáo môn thí dụ con hươu nhảy ba lần ra khỏi lưới, gọi
là làm Phật ngoại triền, không có vật gì ràng buộc được
người này. Đây thuộc về Phật sau đức Nhiên Đăng, là
tối thượng thừa, là thượng thượng trí, là đứng trên
Phật đạo; người này là Phật, có Phật tánh, là đạo sư,
là điều khiển được vô sở ngại phong, là vô ngại huệ,
về sau được tư do sai khiến nhân quả phước trí, là làm
xe chuyên chở nhân quả, ở nơi sanh không bị sanh nhốt, ở
nơi tử không bị tử ngại, ở nơi ngũ ấm như cửa đã mở,
không bị ngũ ấm ngăn trở, đi ở tự do, ra vào không khó.
Nếu được như thế, không luận thứ bậc hơn kém, dù là
thân con kiến, chỉ cần được như thế thì đều là cõi
nước thanh tịnh vi diệu không thể nghĩ bàn. Những lời kể
trên còn là lời nói mở trói, họ (tự tánh) vốn không thương
tích thì đừng làm cho bị thương. Những cái thương tích
Phật, thương tích Bồ tát đều là thương tích (có nghĩa
là chấp Phật là thương tích Phật, chấp Bồ tát là thương
tích Bồ tát). Phàm nói các pháp “có, không” đều là thương
tích vì “có, không” bao gồm tất cả pháp.
Hàng
Thập địa là chúng ở trong dòng nước đục, tự cho là dòng
nước thanh, dựng tướng thanh để nói lỗi của tướng trược.
Trước kia 10 vị đại đệ tử như Xá Lợi Phất, Phú Lâu
Na, chánh tín như A Nan, tà tín như Thiện Tinh… mỗi người
có một cốt cách riêng, mỗi người có một phép tắc riêng,
đều bị Đạo sư (Phật) nói toạc ra là chẳng đúng. Tứ
thiền, bát định, A La Hán… trụ trong định tám muôn kiếp,
họ là người tu hành theo kiến chấp vì bị rượu tịnh pháp
làm say, nên hàng Thanh Văn nghe Phật pháp không phát được
đạo tâm vô thượng, do đó bị gọi là người đoạn thiện
căn không có Phật tánh. Kinh giáo nói : “Chỗ gọi là hầm
sâu giải thoát đáng sợ, nếu có một niệm tâm lui sụt thì
rơi vào địa ngục mau như tên bắn”. Cũng chẳng được nhất
định nói lui sụt, cũng chẳng được nhất định nói không
lui sụt, như các Ngài Văn Thù, Quan Âm, Thế Chí,… đến thị
hiện đồng loại với Tu Đà Hoàn để dẫn dụ, chẳng được
nói họ lui sụt, mặc dù lúc bấy giờ họ chỉ được gọi
là người Tu Đà Hoàn thôi.
Nay
cái giác chiều soi chỉ cần chẳng bị các pháp “có, không”
dính mắc, thấu suốt nghĩa ba câu và tất cả cảnh giới
nghịch thuận thì dầu có nghe trăm nghìn muôn ức đức Phật
xuất hiện ở thế gian cũng như không nghe, cũng không y trụ
vào chỗ không nghe, cũng không khởi tri giải về sự không
y trụ, nói họ là người lui sụt chẳng được, vì số lượng
không hạn chế họ được, ấy là Phật thường trụ thế
gian mà chẳng nhiễm thế pháp.
Nói
Phật chuyển pháp luân mà lui sụt là phỉ báng Phật pháp
tăng. Nói Phật chẳng chuyển pháp luân mà chẳng lui sụt cũng
là phỉ báng Phật pháp tăng. Như ngài Tăng Triệu nói : “Đạo
Bồ đề không thể suy lường, cao vô thượng, rộng vô cùng,
sâu thăm thẳm”. Rơi vào lời nói là bệnh, nói giác chiếu
soi cũng còn là không đúng, chỉ là từ trược biện thanh
(do cái đục mà biện biệt cái trong) mà thôi. Nếu cho nói
cái giác chiếu soi này là đúng tức là ngoài cái giác chiếu
soi còn có cái giác khác không đúng tức là Ma thuyết. Nếu
chấp lấy cái giác chiếu soi này thì cũng đồng Ma thuyết,
cũng gọi là tự nhiên ngoại đạo. Nói cái giác chiếu soi
là Phật của chính mình, đó là lời nói thước tấc, là
lời tính toán, giống như con chồn (dã can) kêu, vẫn thuộc
về cửa keo sơn (dính mắc). Từ trước đến nay chẳng nhận
cái tự tri, tự giác là Phật của chính mình mà lại hướng
ra ngoài tìm Phật, nhờ thiện tri thức nói ra cái tự tri tự
giác để làm thuốc trị cái bệnh hướng ngoại tìm cầu,
bệnh hướng ngoại tìm cầu đã lành thì thuốc cũng phải
bỏ. Nếu chấp lấy cái tự tri tự giác thì đó là bệnh
Thiền na, là định tánh Thanh Văn, như nước đóng băng, toàn
băng là nước nhưng khó mong cứu được nạn khát, cũng nói
: “Bệnh chắc chắn chết, lương y bó tay”.
Vô
thỉ chẳng phải là Phật, chớ cho là Phật thật. Phật là
thuốc của chúng sanh, không có bệnh chẳng cần uống thuốc,
thì thuốc và bệnh đều hết. Phật tánh dụ như cam thảo,
chúng sanh tu hành chánh pháp dụ như nước trong, lấy cam thảo
hòa với nước trong, cũng như mật hòa với nước, rất là
ngon ngọt, nếu chỉ cho là nước trong thì không đúng, vì
chẳng phải không có Phật tánh, Phật tánh vốn là sẵn có,
nên cũng nói : “Lý này mọi người đều vốn sẵn có”.
Chư
Phật, Bồ tát được mệnh danh là người chỉ cho biết hạt
châu. Từ xưa đến nay nó chẳng phải là vật, chẳng cần
biết nó, hiểu nó, không cần cho nó là phải hay chẳng phải,
chỉ cần cắt đứt câu hai đầu, cắt đứt câu có, câu chẳng
có, cắt đứt câu không, câu chẳng không, dấu vết hai đầu
chẳng hiện. Hai đầu kéo ông chẳng được, số lượng chi
phối ông chẳng được, chẳng phải thiếu thốn, chẳng phải
đầy đủ, chẳng phải phàm, chẳng phải thánh, chẳng phải
sáng, chẳng phải tối, chẳng phải hữu tri, chẳng phải vô
tri, chẳng phải ràng buộc, chẳng phải giải thoát, chẳng
phải tất cả danh tướng. Tại sao không phải là lời nói
thật? Nếu cho rằng đục đẽo hư-không làm được tướng
mạo Phật, hoặc cho rằng hư-không là do xanh, vàng, đỏ, trắng
làm thành, đều chẳng phải là lời nói thật vì pháp chẳng
thể so sánh, chẳng thể ví dụ, nên nói : “Pháp thân vô vi
bất đọa chư số”, cũng nói : “Thánh thể vô danh chẳng thể
nói được”. Lý thất của không-môn khó ghé, thí dụ như
con thái mạc trùng (tên một loại côn trùng đặc biệt rất
nhỏ) có thể đậu ở khắp mọi nơi, nhưng không thể đậu
được trên ngọn lửa, tâm của chúng sanh cũng thế, có thể
duyên ở mọi nơi, nhưng không thể duyên trên Bát Nhã.
Thiện
tri thức ham dạy người học tìm cầu tri giải, đó là thiện
tri thức ma, vì chấp tri giải; nếu phát tứ hoằng thệ nguyện,
“nguyện độ hết tất cả chúng sanh rồi sau ta mới thành
Phật”, đó là Bồ tát phát trí ma, vì thệ nguyện không buông
bỏ; nếu ham gieo trồng thiện căn như trì trai giữ giới,
tu thiền học huệ cho đến ngồi đạo tràng thị hiện thành
Đẳng Chánh Giác độ chúng sanh nhiều như số cát sông Hằng
thảy đều chứng quả Bích Chi Phật, đó là thiện căn ma,
vì khởi tâm tham đắm; nếu đối với các pháp đều không
tham nhiễm, diệu lý độc tồn, trụ trong thiền định thâm
sâu không còn tiến lên nữa, đó là tam muội ma, vì đam mê
cái vui thiền định; nếu chấp Niết bàn chí thượng, ly dục
tịch tịnh, là nghiệp ma vì có sự tạo tác. Nếu trí huệ
thoát những lưới ma kể trên chưa triệt để thì dẫu cho
hiểu được trăm ngàn kinh Phật thảy đều là cặn bã địa
ngục, ví như muốn tìm “Phật tương tự” thì không có chỗ
đúng.
Như
nay nghe nói chẳng chấp trước vào tất cả pháp thiện, ác,
có, không,… liền cho đó là rơi vào không, mà chẳng biết
rằng bỏ gốc theo ngọn mới chính là rơi vào không. Thế
nào là bỏ gốc theo ngọn ? Cầu Phật, cầu Bồ đề và tất
cả pháp có, không,… là bỏ gốc theo ngọn. Hiện tại chỉ
cần ăn đạm bạc tạm sống, mặc áo vá đỡ lạnh, khát
thì bụm lấy nước uống, ngoài ra đối với tất cả pháp
có, không, đều không có mảy may nghĩ tưởng, người nầy
dần dần sẽ có chút phần nhẹ nhàng sáng suốt.
Thiện
tri thức chẳmg chấp có, chẳng chấp không, thoát được mười
câu ma ngữ (l) thì nói ra không trói buộc người, có nói lời
nào ra cũng chẳng tự xưng là Thầy nói, cũng như tiếng dội
trong hang, tiếng nói trùm khắp thiên hạ cũng không có khẩu
quá (lỗi khẩu nghiệp), đủ sức làm y chỉ cho người. Nếu
nói ta biết thuyết, biết giải, nói ta là Hòa thượng, ngươi
là đệ tử, lỗi đó đồng như ma thuyết. Vô cớ nói rằng
:”Mắt thấy đạo còn, là Phật hay chẳng là Phật, là Bồ
đề hay chẳng là Bồ đề, là Niết bàn hay chẳng là Niết
bàn, là giải thoát hay chẳng là giải thoát,… hoặc vô cớ
nói ra một tri, một giải, hoặc giơ một cánh tay, dựng một
ngón tay bảo là thiền, là đạo, những lời nói cử chỉ
này trói buộc người không biết đến khi nào mới thôi, ấy
là chồng thêm dây trói buộc tỳ kheo. Dẫu cho không nói cũng
có lỗi. Thà làm thầy cho tâm, chẳng cho tâm làm thầy.
Giáo
bất liễu nghĩa mới có Thiên Nhân Sư, có Đạo Sư. Trong giáo
liễu nghĩa thì chẳng có Thiên Nhân Sư, chẳng cho pháp làm
thầy. Nếu chưa thể y được sự chiếu soi nhiệm mầu của
tự tánh, tạm y được giáo liễu nghĩa còn có phần thân
cận, nếu là giáo bất liễu nghĩa thì chỉ thích hợp để
nói trước bọn người tục tai điếc. Nay chỉ cần chẳng
y trụ tất cả pháp có, không, cũng không trụ nơi chẳng y
trụ, cũng không khởi cái tri giải về chẳng y trụ, đây
gọi là đại thiện tri thức, cũng nói : “Chỉ có một mình
Phật là người đại thiện tri thức, không có người thứ
hai, ngoài ra đều gọi là ngoại đạo, cũng gọi là ma thuyết”.
Nay chỉ cần phá câu nói hai đầu (tương đối), chớ tham
nhiễm việc mở trói và tất cả cảnh pháp có, không, ngoài
ra không có ngữ cú nào khác để dạy người. Nếu nói có
ngữ cú khác để dạy người, có pháp khác để cho người,
đó gọi là ngoại đạo, cũng gọi là ma thuyết.
Cần
phải biết lời giáo liễu nghĩa, lời giáo bất liễu nghĩa,
cần phải biết lời tùy tục, lời nghịch tục, cần phải
biết lời nói sống, lời nói chết, cần phải biết lời
thuốc, lời bệnh, cần phải biết lời ví dụ thuận, lời
ví dụ nghịch, cần phải biết lời nói chung, lời nói riêng.
Nói do tu hành được thành Phật, có tu có chứng, là tâm là
Phật, tức tâm tức Phật,…,dù là do Phật thuyết nhưng đều
thuộc về lời giáo bất liễu nghĩa, là lời tùy tục, là
lời nói chung, là lời nhẹ như mang một lon một lít, là lời
nói về bên pháp uế, là lời ví dụ thuận, là lời nói chết,
là lời nói trước kẻ phàm phu. Chẳng cho do tu hành mà được
thành Phật, không tu không chứng, phi tâm phi Phật,… cũng
là lời do Phật thuyết, nhưng đều thuộc về lời giáo liễu
nghĩa, là lời nghịch tục, là lời nói riêng, là lời nặng
như mang trăm tạ, là lời nói ngoài giáo tam thừa, là lời
ví dụ nghịch, là lời nói về bên pháp tịnh, là lời nói
sống, là lời nói trước người có quả vị.
Từ
Tu Đà Hoàn trở lên cho đến bậc Thập địa, hễ có lời
nói đều thuộc về pháp trần cấu, hễ có lời nói đều
thuộc về bên phiền não, hễ có lời nói đều thuộc về
giáo bất liễu nghĩa. Giáo liễu nghĩa là trì, giáo bất liễu
nghĩa là phạm, Phật địa không có trì phạm nên giáo liễu
nghĩa và giáo bất liễu nghĩa đều chẳng cho.
Do
mạ biết đất tốt xấu, do trược (đục) biết thanh (trong).
Như nay cái giác chiếu soi nếu theo bên thanh mà xét thì có
giác chiếu soi cũng chẳng phải thanh, không có giác chiếu
soi cũng chẳng phải thanh, thanh cũng chẳng phải, không thanh
cũng chẳng phải, thánh cũng chẳng phải, không thánh cũng
chẳng phải, tại vì thấy nước đục (trược) mới nói lỗi
của nước đục, nước nếu trong (thanh) thì đâu có gì để
nói nữa, nói ra là làm đục nước rồi.
Nếu
có cái hỏi của không hỏi thì cũng có cái nói của không
nói, bởi Phật chẳng vì Phật mà nói pháp. Pháp giới bình
đẳng chân như, không có Phật nào mà không độ chúng sanh,
Phật chẳng trụ Phật gọi là chân phước điền.
Cần
phải phân biệt lời chủ khách, nếu tham nhiễm tất cả cảnh
pháp có, không, sẽ bị tất cả cảnh pháp có, không làm mê
hoặc thì tự tâm là ma vương, chiếu dụng thuộc ma dân. Như
nay cái giác chiếu soi chỉ cần chẳng y trụ vào tất cả
các pháp có không, các pháp thế gian và xuất thế gian, cũng
không trụ nơi chẳng y trụ, cũng không có tri giải về “không
trụ nơi chẳng y trụ”.
Tự
tâm là Phật, Phật là bất nhị, nếu chiếu dụng (khách quan)
thuộc Bồ tát. Tâm tâm là chúa tể thì chiếu dụng (chủ
quan) thuộc khách trần. Như nước nổi sóng thì chẳng thể
chiếu soi vạn tượng, nếu nước trong lặng tịch chiếu,
không lập năng sở, tự nhiên thấu suốt cổ kim, như nói
: “Thần vô chiếu công, chí công thường tồn” (2), bậc người
như thế được làm đạo sư ở khắp mọi nơi.
Tánh
thức của chúng sanh là tánh keo sơn, luôn luôn dính mắc các
pháp có không, vì chưa từng bước lên thềm bậc Phật nên
thình lình cho uống thuốc huyền chỉ chẳng được, bỗng
nghe lời nói xuất cách họ tin chẳng nổi, cho nên đức Phật
ngồi dưới cội Bồ đề bốn mươi chín ngày lặng lẽ tư
duy, vì Phật tánh không có hình tướng số lượng, chẳng
thể thí dụ, thực là khó nói. Nếu nói chúng sanh có Phật
tánh cũng là phỉ báng Phật pháp tăng, nói chúng sanh không
Phật tánh cũng là phỉ báng Phật pháp tăng. Nếu nói có Phật
tánh là chấp trước báng. Nếu nói không Phật tánh là hư
vọng báng. Như nói về tứ cú kệ : Nói Phật tánh có là
tăng ích báng (nói thêm), nói Phật tánh không là tổn giảm
báng (nói bớt), nói Phật tánh cũng có cũng không là tương
vi báng (trái ngược nhau), nói Phật tánh chẳng có chẳng không
là hý luận báng (nói bông đùa). Ban sơ nếu không nói thì
chúng sanh không có hy vọng giải thoát, còn ban sơ nếu muốn
nói lại sợ chúng sanh đuổi theo lời nói sanh ra kiến giải,
lợi ít mà hại nhiều. Nên Phật nói : “Ta thà chẳng thuyết
pháp, hãy mau nhập Niết bàn”. Nhưng sau đó tìm về chư Phật
quá khứ, thấy các Ngài đều nói pháp tam thừa nên Phật
mới giả lập kệ pháp, giả lập danh tự, vốn chẳng phải
Phật, nói với họ là Phật, vốn chẳng phải Bồ đề, Niết
bàn, giải thoát, nói với họ là Bồ đề, Niết bàn, giải
thoát,…. Biết họ gánh trăm tạ chẳng nổi tạm cho họ gánh
một lon một lít, biết họ khó tin giáo liễu nghĩa tạm nói
với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành lưu hành
còn hơn là pháp ác. Vì thiện quả mãn rồi thì ác quả đến,
được Phật thì có chúng sanh đến, được Niết bàn thì
có sanh tử đến, được sáng thì có tối đến, tất cả
chỉ là nhân quả hữu lậu đối đãi nhau, nếu muốn vượt
qua sự đối đãi chỉ cần cắt đứt câu hai đầu (tương
đối) thì chẳng bị số lượng hạn chế.
Phật
tánh bất nhị, không Phật, không chúng sanh, không thân, không
sơ, không cao, không thấp, không bình, không đẳng, không đi,
không đến, chỉ cần chẳng chấp trước văn tự, cắt đứt
hai đầu thì sự tương đối trói buộc chẳng được, khỏi
bị khổ vui lôi kéo, khỏi bị sáng tối khống chế. Nói về
lý thì chân thật cũng chẳng chân thật hư vọng cũng chẳng
hư vọng, vì không phải là vật có số lượng nên dụ như
không, chẳng thể tu sửa. Nếu tâm có một chút tri giải liền
bị số lượng dính mắc cũng như keo sơn, năm chỗ (ngũ uẩn)
đều bị dính mắc thì bị ma vương nắm bắt được, chẳng
được tự do về nhà.
Luận
về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung
thiện và hậu thiện. Sơ là bảo họ phát thiện tâm, trung
là phá thiện tâm, hậu mới gọi là thiện tốt. “Bồ tát
tức phi Bồ tát thị danh Bồ tát”, “Pháp, phi pháp, phi phi pháp”,
cũng như tất cả ba câu trong kinh Kim Cang nghĩa đều như thế.
Nếu chỉ nói nghĩa một câu hoặc hai câu làm cho chúng sanh
vào địa ngục là tội của pháp sư, nếu đồng thời nói
cả nghĩa ba câu mà họ hiểu lầm tự vào địa ngục thì
việc ấy không liên can gì đến pháp sư. Như nay nói cái giác
chiếu soi là Phật của mình, là sơ thiện không chấp lấy
cái giác chiếu soi này, câu là trung thiện, cũng không có cái
tri giải về sự không chấp lấy, là hậu thiện. Những lời
trên còn thuộc về Phật sau Đức Nhiên Đăng, chỉ là không
phàm cũng không thánh, chớ sai lầm nói Phật chẳng phải phàm
chẳng phải thánh. Sơ Tổ Trung Hoa nói : “Vô năng, vô thánh
là Phật thánh”. Nếu nói có thần thông biến hóa là Phật
thánh thì chín phẩm tinh linh rồng, súc sanh… cho đến các
cõi trời trở lên cũng có thần thông cũng có thần thông
biến hóa, cũng biết được việc xưa nay trăm kiếp, nhưng
đâu được gọi là Phật! Như A Tu La Vương thân gấp đôi
núi Tu Di vô cùng to lớn, lúc cùng với trời Đế Thích giao
chiến, tự biết sức không bằng bèn dắt trăm muôn binh sĩ
chui vào cọng sen ẩn núp, thần thông biện tài cũng không
biết nhưng chẳng phải là Phật.
Giáo
ngữ có cấp bậc ẩn hiển, cao thấp, lên xuống bất đồng.
Lúc chưa ngộ, chưa giải thoát, gọi là tham sân, ngộ rồi
gọi là Phật huệ, nên nói : “Không khác người thuở trước,
mà chỉ khác cái hành vi thuở trước”.
GHI
CHÚ :
(l)
Mười câu ma ngữ : là trược tâm, tham tâm, ái tâm, nhiễm
tâm, sân tâm, chấp tâm, trụ tâm, y tâm, thủ tâm, luyến tâm.
(2)
“Thần vô chiếu công, chí công thường tồn” : Thần dụ cho
tự tánh, tự tánh bất nhị không có năng chiếu sở chiếu
nên nói “thần vô chiếu công”, nhưng không phải là không có
chiếu soi. Vì thể dụng của tự tánh cùng khắp không gian
thời gian nên nói “chí công thường tồn”.
Hỏi
:
Chặt
cây, cuốc cỏ, khai mương, đào đất, có tướng tội báo
không?
Sư
đáp :
Không
thể nhất định nói là có tội hay không tội. Việc có tội
hay không tội là do nơi người đó. Nếu tham nhiễm tất cả
pháp có không, có tâm lấy bỏ, không thấu suốt nghĩa ba câu,
thì nói người này nhất định có tội. Nếu thấu suốt nghĩa
ba câu, tâm như hư không, cũng chẳng có cái nghĩ tưởng hư
không, thì người này nhất định là không tội. Lại nữa,
nếu tội đã tạo rồi mà nói là không thấy có tội thật
là vô lý. Nếu không tạo tội mà nói là có tội thì cũng
là vô lý. Như trong luật nói : “Người hôn mê giết người
và trong chiêm bao giết người còn không bị tội giết”, huống
là sự truyền thừa của Thiền tông, chẳng trụ một pháp
nào, tâm như hư không, cũng không có tướng hư không, thì
tội đặt để ở chỗ nào?
* *
Xưa
nếu có nay thì nay cũng có xưa, nghĩa là ngày xưa có Phật
thì ngày nay cũng có Phật. Hiện tại nếu được một niệm
chẳng bị tất cả pháp có không quản nhiếp, thì thẳng đến
tận vị lai cũng được như vậy. Xưa cũng như nay, Phật chỉ
là người, người chỉ là Phật, cũng là chánh định, chẳng
cần đem định nhập định, chẳng cần đem thiền tưởng
thiền, chẳng cần đem Phật tìm Phật, như nói : “Pháp chẳng
cầu pháp, pháp chẳng đắc pháp, pháp chẳng hành pháp, pháp
chẳng thấy pháp, thì tự nhiên đắc pháp, chẳng nhờ đắc
để đắc thêm”. Cho nên Bồ tát cần phải chánh niệm như
vầy : Đối với pháp rỗng không độc tồn, cũng không biết
cái pháp độc tồn, thì chí tánh tự như như, chẳng phải
do nhân làm ra, cũng gọi là thể kết, cũng gọi là thể tập,
chẳng phải là trí biết, chẳng phải là thức biết, bạch
chỗ suy lường, tột cái thể ngưng tịch, sự suy nghĩ dứt
hẳn như nước biển cạn sạch, sóng không còn sanh khởi nữa.
Cũng
nói : Như nước biển lớn không có gió mà lượn sóng lăn
tăn, bỗng biết lượn sóng lăn tăn ấy là cái biết thô trong
tế, quên cái biết nơi biết vẫn còn là cái tế trong tế.
Nói cảnh giới Phật là từ cái biết đầu tiên này sanh ra
tất cả tam muội, cũng gọi là đảnh tam muội, cũng gọi
là vua tam muội, cũng gọi là nhĩ-diệm-trí (trí sở tri), dùng
những tam muội này tưới trên đảnh đầu của các vị pháp
vương tử, khiến cho ở nơi tất cả cõi nước (sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp) đều thành Đẳng Chánh Giác, khi ấy
trong ngoài thông đạt chẳng gì ngăn cách một sắc một trần,
một Phật một sắc, tất cả Phật tất cả sắc, tất cả
trần tất cả Phật, do đến tất cả sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp, mỗi mỗi cùng khắp tất cả cõi nước cũng đều
như thế. Đây là thô trong tế, là cảnh giới thiện, trong
cảnh giới này kiến văn giác tri là tất cả thượng lưu,
xuất sanh nhập tử độ tất cả “có, không” cũng là thượng
lưu, Niết bàn cũng là thượng lưu, Vô Thượng Đạo, Vô Đẳng
Đẳng Chú cũng là thượng lưu…. Phàm sở thuyết của thượng
lưu là cái thuyết đệ nhất, ở trong các thuyết rất là
thâm sâu, không người nào có thể đến được. Nói chư Phật
hộ niệm nghĩa là khéo nói cái dụng thâm sâu quảng đại
của tất cả nước trong và đục nên mới được chư Phật
hộ niệm.
Kinh
nói : “Đi đứng nằm ngồi nếu được như thế, lúc ấy Ta
liền hiện thân thanh tịnh quang minh”. Lại nói : “Như ngươi
thân bằng, ngữ bằng, Ta cũng bằng như thế, cho đến một
Phật sát (l) thanh, một Phật sát hương, một Phật sát vi,
một Phật sát xúc, một Phật sát sự, thảy đều như thế.
Từ đây lên đến thế giới Liên Hoa Tạng cao rộng thảy
đều như vậy”.
Nếu
giữ lấy cái biết đầu tiên làm tri giải, gọi là đảnh
kết (phiền não cao tột), cũng gọi là đọa đảnh kết, là
căn bản của tất cả trần lai. Vô cớ tự sanh tri kiến gọi
là không dây mà tự trói. Tại sao vậy? Vì có sở tri nên
bị cái sở tri ấy ràng buộc trong tam giới. Lại nữa cái
biết đầu tiên nầy có thể làm tan tất cả cửa phiền não
trói buộc, Nhị thừa gọi là nhĩ-diệm-thức (thức sở tri),
cũng gọi là vi tế phiền não, hàng Nhị thừa biết được
lập tức dứt trừ. Đã dứt trừ xong, gọi là đem thần tánh
trở về cái hang không, cũng gọi là bị rượu tam muội làm
say, cũng gọi là bị ma giải thoát trói buộc. Thế giới thành
hoại, định lực Nhị thừa có thể duy trì, nhưng vẫn bị
lọt vào quốc độ khác mà chẳng hay biết, nên gọi là chỗ
hầm sâu giải thoát đáng sợ hãi. Còn hàng Bồ tát thì xa
lìa hết thảy.
GHI
CHÚ :
(l)
Một Phật sát : Một tam thiên đại thiên thế giới.
*
*
Sư
nói :
Phát
nguyện cầu vô thượng Niết Bàn còn là tà nguyện. Nơi thân
ngũ ấm của mình bị người mổ xẻ, không cảm thấy phiền
não, cũng không một niệm sanh tâm nhân ngã, nếu y trụ cái
không một niệm đó cho là phải, gọi là pháp trần cấu.
Người thập địa thoát chẳng được còn trôi vào sông sanh
tử, huống là những kẻ đuổi theo danh lợi, cống cao ngã
mạn, nói “ta được tất cả vô ngại”, ấy chỉ là tự dối
thôi.
*
*
*
Sư
nói :
Tổ
Đạt Ma nói : “Tâm cho là có chỗ đúng ắt phải có chỗ sai”.
Nếu
quý một vật thì bị một vật mê hoặc, nếu tin thì bị
tin mê hoặc, nếu không tin lại thành phỉ báng. Vậy chớ
nên quý chớ nên không quý, chớ nên tin chớ nên không tin.
*
*
*
Hỏi
:
Thế
nào là “hữu tình không Phật tánh” và “vô tình có Phật tánh”?
Sư
đáp :
Từ
người đến Phật là tình chấp thánh, từ người đến địa
ngục là tình chấp phàm. Như nay đối với hai cảnh phàm thánh
có tâm ái nhiễm thì gọi là “hữu tình không Phật tánh”.
Còn như đối với hai cảnh phàm thánh và tất cả pháp có
không đều không có tâm lấy bỏ, cũng không có cả cái tri
giải về không lấy bỏ thì gọi là “vô tình có Phật tánh”.
Do vì không bị tình chấp ràng buộc nên gọi là vô tình,
chứ không phải đồng với các loại vô tình như gỗ, đá,
hư không, hoa vàng, trúc biếc, mà cho là có Phật tánh. Nếu
nói vô tình có Phật tánh, tại sao trong kinh không thấy thọ
ký cho chúng thành Phật? Chỉ như hiện nay cái giác chiếu
soi không bị loài hữu tình ảnh hưởng mà biến đổi, nên
dụ như trúc biếc; tịch mà thường chiếu, sẵn sàng ứng
cơ, chẳng phải không biết thời tiết, thời tiết đến thì
hoa nở, nên dụ như hoa vàng.
Lại
nói : “Nếu bước lên nấc thang Phật là vô tình có Phật
tánh, còn chưa bước lên nấc thang Phật là hữu tình không
Phật tánh”. Lúc chưa ngộ gọi là mẹ, ngộ rồi gọi là con,
cũng không có tri giải về ngộ và chưa ngộ gọi là mẹ con
đều mất.
*
*
*
Sư
nói :
Tất
cả ngôn giáo chỉ là trị bệnh. Vì bệnh chẳng đồng nên
thuốc cũng chẳng đồng, do đó có lúc nói có Phật, có lúc
nói không Phật, mục đích chính là trị bệnh. Bệnh nếu
được lành, mỗi lời đều là lời thật, nếu trị bệnh
không lành, mỗi lời đều là hư vọng. Cho lời thật là lời
hư vọng là vì sanh khởi kiến chấp, cho lời hư vọng là
lời thật là vì muốn đoạn dứt tưởng điên đảo của
chúng sanh. Kỳ thật bệnh vốn là hư vọng thì phải dùng
thuốc hư vọng để đối trị mà thôi.
*
*
*
Sư
nói :
Nơi
thánh địa học tập nhân phàm, là Phật vào trong chúng sanh
để dẫn dắt dạy bảo đồng loại. Cũng như vào đạo ngạ
quỷ cùng họ chịu khổ, mới có dịp thuyết Bát Nhã Ba La
Mật cho họ khiến họ phát tâm, nếu cứ ở thánh địa mãi
thì làm sao có dịp đến thuyết pháp cho họ. Phật vào các
loài chúng sanh làm ghe thuyền cho họ, cùng họ chịu khổ,
lao nhọc biết bao! Phật vào chỗ khổ cũng đồng như chúng
sanh chịu khổ, Phật chỉ là đi ở tự do chẳng đồng với
chúng sanh thôi. Phật chẳng phải hư không, chịu khổ đâu
thể không khổ, nếu nói không khổ là không đúng.
Bình
thường chớ nên nói Phật có thần thông tự tại hay không
tự tại. Người biết hổ thẹn thì không dám nói Phật là
hữu vi hay là vô vi, không dám nói Phật là tự do hay không
tự do. Ngoài sự tán thán phương thuốc hay, không được hiển
lộ sự tương đối. Kinh nói : “Nếu người đem Phật, Bồ
đề đặt bên chỗ đúng thì người ấy bị tội lớn”. Cũng
nói : “Nếu ở trước người không biết Phật pháp mà nói
với họ như thế thì không lỗi”. Thí dụ sữa bò vô lậu
hay trị bệnh hữu lậu, bò ấy không ở trên cao nguyên, không
ở dưới ẩm thấp, thì sữa bò này nên làm thuốc. Cao nguyên
dụ cho Phật, ẩm thấp dụ cho chúng sanh. Cũng như nói : “Thật
trí của Pháp Thân Như Lai biện tài vô ngại, đi ở tự tại,
bất sanh bất diệt, gọi là sáng, còn sanh lão bệnh tử, đau
khổ mọi thứ, gọi là tối, như ăn canh nấm trúng độc mà
chết ấy là tối. Nếu tiêu diệt dấu tích, sáng tối đều
lìa vô thủ vô y thì chẳng sáng chẳng tối”.
Nói
Phật sanh nơi cung vua, lấy vợ Da Du Đà La, cho đến trải
qua tám giai đoạn thành Phật, ấy là sự vọng tưởng chấp
thật của hàng Thanh Văn và ngoại đạo. Tự tánh bất nhị,
chẳng một chẳng hai, người mắt sáng cần phải đủ hai
con mắt để chiếu soi, chiếu phá diệt hai đầu (tương đối).
Nếu chỉ có một con mắt thiên hướng một bên thì phải
bỏ mất bên kia. Người xưa nói : “Dù Công Đức Thiên, Hắc
Ám Nữ đi theo, người chủ có trí thì cả hai đều chẳng
nhận”. Người học đạo nên tâm như hư không, sở học mới
được thành tựu.
Lục
Tổ nói : “Thiện ác đều chớ suy nghĩ”.
Mã
Tổ nói : “Như người mê chẳng phân biệt phương được hướng”.
Tăng
Triệu nói : “Bế tắc trí huệ thông minh, độc giác mênh mông”.
Văn
Thù nói :
Vì
tâm đồng hư không
Kính
lễ vô sở quán
Kinh
điển rất thâm sâu
Chẳng
nghe chẳng thọ trì.
Chỉ
như nay đối với các pháp có không chẳng thấy chẳng nghe,
lục căn đóng bít, nếu học được như thế, trì kinh như
thế, mới có phần tu hành. Lời này đắng miệng nghịch tai,
nếu người nào thực hành được thì đến kiếp thứ nhì
hoặc kiếp thứ ba ắt được ở chỗ không có Phật mà tọa
đạo tràng, thị hiện thành Đẳng Chánh Giác, biến ác thành
thiện, biến thiện thành ác, dùng pháp ác giáo hóa thập địa
Bồ tát, dùng pháp thiện giáo hóa địa ngục ngạ quỷ, gặp
chỗ sáng thì khéo mở trói cho sáng, gặp chỗ tối thì khéo
mở trói cho tối. Cũng nói : “Từ sắc giới trở lên, bố
thí là bệnh, bỏn xẻn là thuốc, từ sắc giới trở xuống,
bỏn xẻn là bệnh, bố thí là thuốc”. Cũng nói : “Từ người
đến Phật là đắc, từ người đến địa ngục là thất,
thị phi cũng vậy”. Tam Tổ nói : “Đắc thất thị phi, nhất
thời buông bỏ”. Nắm vàng thành đất, nắm đất thành vàng,
tự do biến hóa, tất cả đều làm được. Ngoài hằng sa
thế giới có kẻ cầu cứu, Phật liền hiện ra ba mươi hai
tướng tốt trước mặt người ấy, dùng tiếng nói của họ
thuyết pháp cho họ, tùy cơ cảm ứng, tùy loại biến hóa,
mà hiện hình khác nhau, lìa ngã và ngã sở. Làm những được
việc này vẫn chỉ là tiểu dụng, cũng còn nằm trong cửa
Phật sự. Nếu là đại dụng : đại thân ẩn nơi vô hình,
đại âm dấu nơi hy thanh (âm thanh ngoài tần số nghe), như
lữa ở trong gỗ cây, như tiếng ở trong chuông trống, khi
chưa đủ nhân duyên chẳng thể nói đó là có hay không. Đối
với quả báo cõi trời, bỏ nó như nhổ nước miếng, đối
với lục độ vạn hạnh của Bồ tát như nhờ tử thi làm
bè qua sông, cũng như chui lỗ cầu tiêu để ra khỏi tù. Phật
đắp ba mươi hai tướng tốt gọi là đắp cái y cáu bẩn.
*
*
*
Sư
nói :
Chẳng
thiện trói, chẳng ác trói, chẳng Phật trói, chẳng chúng
sanh trói, cho đến chẳng tất cả số lượng trói. Nên nói
: “Phật là người ở ngoài trói buộc”.
Những
người tham đắm tri giải nghĩa cú như mẹ thương con, chỉ
biết cho con ăn nhiều tô lạc, tiêu hay không tiêu đều không
màng đến. Lời này dụ cho :
Hàng
thập địa thọ sự cúng dường của trời người là tôn
quý phiền não.
Thiền
định sanh vào sắc giới, vô sắc giới, là phước lạc phiền
não.
Được
thần thông tự tại bay đi ẩn hiện khắp tịnh độ mười
phương chư Phật, là nghe pháp phiền não.
Học
từ bi hỷ xả là nhân duyên phiền não.
Học
lý không, bình đẳng, là trung đạo phiền não
Học
tam minh lục thông là tứ vô ngại phiền não.
Học
tâm đại thừa là phát tứ hoằng thệ nguyện phiền não.
Sơ
địa, nhị địa, tam địa, tứ địa là minh giải phiền não.
Ngũ
địa, lục địa, thất địa là chư tri kiến phiền não.
Bát
địa, cửu địa, thập địa là song chiếu nhị đế (chân
đế và tục đế) phiền não.
Cho
đến học Phật quả là bá vạn A tăng kỳ chư hạnh phiền
não.
Lược
giải :
Các
thứ phiền não kể trên có thể khiến người đọc nghi ngờ
nên chúng tôi luợc giải :
Bản
năng của tự tánh vốn đầy đủ, cùng khắp không gian và
thời gian, nếu được phát hiện (kiến tánh) thì tùy duyên
cảm ứng chẳng thiếu sót. Nay còn học thêm làm thêm cũng
như trên đầu mọc thêm đầu, chỉ tự thêm lao nhọc, cho
nên nói là phiền não.
Lược
giải hết.
Chỉ
biết tham đắm nghĩa cú tri giải chẳng biết đó là trói
buộc phiền não, nên nói : “Giòng sông kiến chấp hay cuốn
trôi hương tượng (loài voi lớn ở Hi Mã Lạp Sơn, dụ cho
hàng Bồ tát)”.
*
*
*
Sư
nói :
Nếu
chấp vốn thanh tịnh, vốn giải thoát, tự là Phật, tự là
thiền đạo, có kiến giải này, tức thuộc về phái ngoại
đạo tự nhiên.
Nếu
chấp nhân duyên tu thành, chứng đắc, tức thuộc về phái
ngoại đạo nhân duyên. Chấp có tức thuộc về phái ngoại
đạo thường kiến.
Chấp
không tức thuộc về phái ngoại đạo đoạn kiến.
Chấp
cũng có cũng không tức thuộc về phái ngoại đạo biên kiến.
Chấp
chẳng có chẳng không tức thuộc về phái ngoại đạo không
kiến, cũng gọi là ngoại đạo ngu si.
Hiện
nay chớ cho là kiến (thấy) Phật, kiến Niết bàn, kiến tất
cả pháp có không…, cũng không phải là vô kiến, mới được
gọi là chánh kiến. Không có tất cả văn (nghe), cũng không
phải là vô văn, mới được gọi là chánh văn.
Văn
Thù là Tổ Sư của bảy Phật, cũng là Bồ tát bậc nhất
trong cõi Ta Bà, vô cớ nổi lên cái tưởng kiến Phật, cái
tưởng văn pháp, nên bị sức oai thần của Phật đày đi
núi Nhị Thiết Vi. Ngài chẳng phải là không hiểu, chỉ vì
đặc biệt muốn làm mô phạm cho người hậu học, kiến người
đời sau chớ nên móng khởi những kiến văn như thế. Hễ
không chấp tất cả các pháp hữu vô, hữu kiến vô kiến…
mỗi mỗi thấu suốt ngoài ba câu, ấy gọi là Như Ý Bảo,
cũng gọi là Bửu Liên Hoa hứng chân. Nếu sanh khởi Phật
kiến pháp kiến và tất cả các kiến hữu vô, gọi là con
mắt bị nhặm vì có năng kiến sở kiến, nên gọi là kiến
ràng buộc, cũng gọi là kiến che khuất, cũng gọi là kiến
nghiệp. Như nay niệm niệm đối với tất cả kiến văn giác
tri và tất cả trần cấu được tẩy sạch hết thì một
trần một sát trọn là một Phật. Hễ khởi một niệm “trọn
là một Phật”, niệm niệm tương tục trong tam thế ngũ ấm
không có số lượng, ấy gọi là Phật đầy khắp hư không,
cũng gọi là phân thân Phật (Sư từng nói : “Hễ có cử tâm
động niệm đều gọi là phá giới”. Tại sao niệm này lại
được gọi phân thân Phật? Vì thiên ma Ba Tuần muốn tìm
chỗ một niệm khởi của Bồ tát để khuấy phá, nhưng chỗ
khởi niệm nầy có thể tìm được chăng? Nếu chẳng thể
tìm thì tại sao Văn Thù kiến Phật, văn pháp bị đày đi
núi Nhị Thiết Vi).
*
*
*
Sư
nói :
Không
có ma phàm phu đến là đại thần chú, không có ma Nhị thừa
đến là đại minh chú, không có ma Bồ tát đến là vô thượng
chú, không có ma Phật đến là vô đẳng đẳng chú.
Một
biến chúng sanh là siểm-khúc tu-la (l), hai biến Nhị thừa
là siểm-khúc tu-la, ba biến Bồ tát là siểm-khúc tu-la. Đó
là tam biến tịnh độ (2). Tất cả pháp có không, phàm thánh,…
dụ như quặng vàng, tự mình đúng lý dụ như vàng. Vàng với
quặng tách rời nhau thì vàng thật lộ ra. Nếu có người
muốn tiền thì liền biến vàng thành tiền cho người ấy
dùng. Cũng như bột mì thật, nếu có người đến xin bánh
liền làm thành bánh cho người đó. Cũng như viên quan hầu
cận có trí, khéo hiểu được ý nhà vua, vua lúc muốn đi,
kêu “Tiên đà bà”, liền đem ngựa đến; lúc vua muốn ăn,
kêu “Tiên đà bà”, liền đem búa đến. Những việc trên dụ
cho người học huyền chỉ, khéo được thông đạt thì ứng
cơ chẳng sai lầm, nên cũng gọi là lục tuyệt sư tử (tự
tánh). Ngài Chí Công nói : “Tùy người tạo tác, trăm sự biến
hóa”. Hàng Bồ tát Thập địa chẳng đói chẳng no, vào nước
không chìm, vào lửa không cháy, nhưng nếu muốn cháy cũng
chẳng thể cháy, vì các vị ấy còn bị số lượng hạn chế.
Phật thì chẳng phải như thế, vào lửa chẳng cháy, còn như
muốn cháy liền cháy, vào nước chẳng chìm, muốn chìm liền
chìm. Ngài xử dụng tứ đại được tự do, tất cả sắc
là sắc Phật, tất cả thanh là thanh Phật, cặn bã nhơ uế
của tâm siểm khúc sạch hết, thấu suốt nghĩa ba câu mới
được nói lời nầy : Bồ tát thanh tịnh, đệ tử sáng suốt,
có nói ra điều gì cũng chẳng chấp có không, tất cả chiếu
dụng chẳng lạc vào thanh hay trược.
Người
có bệnh mà không uống thuốc là người ngu. Người không
bệnh mà uống thuốc là hàng Thanh Văn. Người chấp quyết
định vào một pháp gọi là định tánh Thanh Văn. Người luôn
luôn đa văn gọi là tăng thượng mạn Thanh Văn. Người ham
biết các pháp ngoài tâm gọi là hữu học Thanh Văn. Người
trầm không trệ tịch và tự biết mình gọi là vô học Thanh
Văn.
Tham
sân si là độc, mười hai phần giáo là thuốc, độc chưa
tiêu hết, thuốc không được bỏ, không bệnh mà uống thuốc,
thuốc trở thành bệnh. Bệnh hết mà thuốc không bỏ nên
mới nói : “Bất sanh bất diệt là nghĩa vô thường”. Kinh Niết
Bàn nói : “Tu sĩ có ba điều ác dục : Một là muốn được
tứ chúng vây quanh, hai là muốn mọi người làm môn đồ mình,
ba là muốn mọi người biết ta là thánh nhân (có trí huệ
cao)”. Kinh Ca Diếp nói : “Có bốn điều ác dục :
Một
là muốn cầu thấy Phật vị lai, hai là muốn cầu làm Chuyển
Luân Vương, ba là muốn cầu vào dòng Sát Đế Lợi, bốn là
muốn được vào hàng Bà la môn nhẫn đến chán sanh tử cầu
Niết Bàn”. Những điều ác dục như vậy trước hết phải
dứt trừ. Hiện tại hễ có dấy niệm đắm nhiễm đều gọi
là ác dục, đều thuộc về sáu cõi trời dục giới, bị
ma Ba Tuần cai quản.
GHI
CHÚ :
(l)
Siểm-khúc tu-la :
A-tu-la
có ba nghĩa :
l.-
Vô đoan : xấu xí (đoan = đoan trang).
2.-
Vô tửu : quả báo không có rượu.
3.-
Phi thiên : giống thiên (trời) mà hạnh không bằng thiên. Giống
thiên, tánh hay sân, mạn, nghi, tâm chấp trước rất mạnh,
dầu được giáo hóa tâm cũng không động (tự không biết
quấy), dầu nghe lời hay cũng không được chứng ngộ, lại
rất đố kị Phật thuyết pháp. Phật nói tứ niệm xứ thì
nó nói ngũ niệm xứ, Phật nói ba mươi bảy phẩm trợ đạo
thì nó nói ba mươi tám phẩm, đó là bị cái tâm co khúc che
lấp.
Như
vậy siểm-khúc tu-la là xấu xí (mặt) cong queo (tâm).
(2)
Tam biến tịnh độ :
Phẩm
Bảo – tháp trong kinh Pháp Hoa, có việc như vầy :
“Mười
phương phân thân Phật của Đức Thích Ca Mâu Ni, mỗi mỗi
thân phân Phật này đều dắt theo một Bồ tát đi cúng dường
tháp Đa Bảo, khi đến núi Linh Khứu, Phật Thích Ca dùng thần
lực biến uế độ thành tịnh độ :
Ban
đầu biến một thế giới ta bà thành tịnh độ.
Kế
đó biến hai triệu ức cõi nước thành tịnh độ.
Sau
biến hai triệu ức na do tha cõi nước thành tịnh độ.
Theo
đó gọi là tam biến tịnh độ.
*
*
*
Sư
nói :
Tin
thật có tất cả pháp gọi là lòng tin chẳng đủ, cũng gọi
là tin chẳng viên tròn, cũng gọi là tin thiên lệch một bên,
nên gọi là Nhất Xiển Đề. Như nay muốn được thẳng đến
giác ngộ cần phải nhân pháp đều quên, nhân pháp đều tuyệt,
nhân pháp đều không, thấu suốt nghĩa ba câu, gọi là người
chẳng đọa chư số, ấy mới được gọi là kẻ tin pháp.
*
*
*
Sư
nói :
Phật
là người ở ngoài ràng buộc, chẳng có mảy may ái thủ,
cũng chẳng có không ái thủ, cũng không có tri giải vế ái
thủ hay không ái thủ, gọi là đầy đủ lục độ vạn hạnh.
Nếu cần đồ trang nghiêm thì mỗi mỗi đều sẵn có, nếu
không cần thì cũng không mất. Luôn luôn tự do điều khiển
nhân quả phước trí.
*
*
*
Hỏi
:
Chư
Tổ từ xưa đều có mật ngữ trao truyền cho nhau là như thế
nào?
Sư
đáp :
Không
có mật ngữ. Như Lai không có tạng bí mật. Vì cái giác chiếu
soi này, lời nói rõ ràng mà tìm hình tướng chẳng thể được,
nên nói là mật ngữ. Từ Tu Đà Hoàn trở lên cho đến Thập
địa hễ có ngữ cú đều thuộc về pháp trần cấu, hễ
có ngữ cú đều thuộc về bên phiền não, hễ có ngữ cú
đều thuộc về giáo bất liễu nghĩa, hễ có ngữ cú đều
chẳng cho. Giáo liễu nghĩa vẫn là sai lại còn đòi mật ngữ
gì nữa!
*
*
*
Sư
nói :
Kẻ
chân cúng dường chẳng trụ tam nghiệp : tiền tế (quá khứ)
không phiền não để đoạn, trung tế (hiện tại) không tự
tánh để giữ, hậu tế (vị lai) không Phật để thành, đó
là tam tế đoạn, là ba nghiệp thanh tịnh, là tam luân thể
không, là tam đàn (l) không.
Tại
sao nói tỳ kheo hầu hạ nơi Phật? Nghĩa là người lục căn
vô lậu, cũng gọi là “trang nghiêm KHÔNG, vô chư lậu”, “Rừng
cây trang nghiêm KHÔNG, vô chư nhiễm”, “Hoa quả trang nghiêm
KHÔNG, vô Phật nhãn”.
GHI
CHÚ : (l) Tam đàn : Người bố thí, người nhận bố thí và
tài vật bố thí.
*
*
*
Hỏi
:
Lời
nói như cái mô đất để chịu tên bắn. Lời nói sanh ra không
thể nào chẳng bị hại như cái mô đất kia (mô đất dụ
như thân, chịu tên bắn dụ như bệnh, thân đã sanh rồi thì
tất nhiên sẽ có bệnh). Tai hại đã đồng đúng sai làm sao
biện biệt?
Sư
đáp :
Như
hai người bắn tên nhau, hai đầu mũi tên đụng nhau giữa
đường, nếu như sai chệch một chút ắt có kẻ bị thương.
Trong hang tìm tiếng, nhiều kiếp cũng không có hình, tiếng
ở bên miệng. Đúng sai là ở nơi người đến hỏi. Nếu
cái hỏi sai thì cái đáp theo đúng lời hỏi cũng phải sai,
vậy cả hai phải bị trúng tên.
*
*
*
Hỏi
:
“Đại
Thông Trí Thắng Phật (Bích Chi Phật), mười kiếp ngồi đạo
tràng, Phật pháp chẳng hiện tiền, chẳng thể thành Phật
đạo” là thế nào?
Sư
đáp :
Kiếp
nghĩa là mắc kẹt, cũng có nghĩa là trụ. Trụ nơi một điều
thiện, mắc kẹt nơi thập thiện. Ấn Độ nói Phật, Trung
Hoa dịch là Giác, cái giác chiếu soi của chính mình nếu bị
kẹt nơi thiện gọi là người thiện căn không Phật tánh,
nên nói Phật pháp chẳng hiện tiền, chẳng thể thành Phật
đạo.
Gặp
ác trụ nơi ác, gọi là cái giác của chúng sanh, gặp thiện
trụ nơi thiện, gọi là cái giác của thừa Thanh Văn. Chẳng
trụ hai bên thiện ác mà cho sự chẳng trụ là đúng, gọi
là giác của thừa Duyên Giác. Đã chẳng y trụ hai bên thiện
ác và cũng chẳng khởi tri giải về chẳng y trụ, đó là
cái giác của thừa Bồ tát. Đã chẳng khởi tri giải về
chẳng y trụ cũng không có cái biết về khởi hay chẳng khởi
mới được gọi là đại giác của Phật.
Như
nói Phật chẳng trụ nơi Phật, gọi là chân phước điền,
nếu ở trong nghìn muôn người mà có được một người như
thế thì gọi là của báu vô giá. Người ấy ở khắp mọi
nơi làm đạo sư. Chỗ không có Phật nói là Phật, chỗ không
có pháp nói là pháp, chỗ không có tăng nói là tăng, đấy
gọi là chuyển đại pháp luân.
Discussion about this post