- A. TỔNG QUAN:
Đạo Phật xuất hiện ở đời
giáo hoá chúng sinh, cảm hoá nhân loại tức ác hành thiện, phát Bồ đề tâm, hành
Bồ tát hạnh, hướng về nẻo giác. Một trong những đạo lý không thể thiếu ấy, đạo
Phật dạy về lẽ hiếu nghĩa: tri ân & báo ân. Chừng mực nào đó, trọng tâm của
Hiếu đạo là hướng về đấng song thân sinh thành dưỡng dục. Nhưng ở nghĩa rộng
hơn, trong thế giới duyên sinh tương tác này, mọi chúng sinh đang hiện hữu, đều
tồn tại trong mối hỗ tương duyên khởi trùng trùng. Nói cho dễ hiểu, ta đang ở
trong vòng tay nâng đỡ và cưu mang của gia đình và xã hội. Do đó, đức Phật dạy
ta phải biết tri ân (p:kataññū): hiếu thảo với cha mẹ, hiếu kính với người
trên, hiếu hòa với kẻ dưới, hiếu thuận với mọi người, và hiếu sinh với mọi
loài. Trong đó pháp lễ kính sáu phương[1] đã phản ảnh trọn vẹn tinh
thần ấy. Nhìn chung, tinh thần hiếu đạo là đặc cách giáo dục nhân bản trong
Phật giáo.
- B. NỘI DỤNG:
- i. Định nghĩa:
Vu-lan nói cho đủ là
Vu-lan-bồn hay Ô-lam-bà-na, là tiếng Trung Hoa dịch âm từ chữ Phạn Ullambana,
dịch nghĩa là “giải đảo huyền” hay “giải đảo huyền, cứu thống
khổ”[2].
Nghĩa là cởi bỏ mọi trói buộc, giải phóng khỏi mọi tai ách, khổ luỵ cho các tội
nhân và ngạ quỷ[3],
các chúng sinh bị hành hình treo ngược, chịu mọi thống khổ cực độ dưới chốn u
đồ và các nẻo ác.
- ii. Xuất xứ:
Tinh thần hiếu đạo của
Phật giáo được phát xuất từ gương hiếu hạnh cứu mẫu thân của tôn giả
Mục-kiền-liên được chép lại trong Kinh Vu-lan-bồn. Kinh dạy rõ về: ân nghĩa
song thân, phương pháp báo hiếu, và nhân quả tất yếu của hiếu đạo.
Từ đó, tinh thần hiếu
đạo này đã đi vào lòng của mọi người con Phật và có tác dụng ảnh hưởng mạnh mẽ
trong lòng xã hội. Vu lan là dịp chung cho mọi người nghĩ về và báo đáp ân
nghĩa sinh thành; mở rộng hơn nữa là hướng lòng về và chia xẻ nỗi khổ đau chung
của muôn loài chúng sinh.
luân muôn loài.”
iii. Lời Phật dạy về hiếu đạo qua nhiều kinh điển:
Không phải ngẫu nhiên mà
người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu
đạo, đặt nặng đến hiếu hạnh và lợi ích của hiếu hạnh, làm thế nào để báo đáp
hiếu hạnh có hiệu quả cao và công đức lớn. Các kinh điển Phật giáo dạy về hiếu
hạnh có thể liệt kê sơ bộ sau đây:
* Kinh Ma-ha-ma-da (Mahāmaya-sūtra, Đ.12, No.383, tr.1005), phút cuối
trước khi nhập Niết-bàn, vì muốn lợi lạc cho thân mẫu, đức Phật đã thuyết pháp.
* Luật tạng, Ngũ phần luật, Đ.22, tr.140c, đức Phật dạy cho các Tỳ
kheo về công ơn như trời bể của cha mẹ, và cho phép các Tỳ kheo được phụng dưỡng
cha mẹ già cả neo đơn, nếu ai không cúng dường phụng dưỡng cha mẹ thì phạm trọng
tội.
* Kinh Vu-lan-bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên cứu
thoát mẹ ra khỏi cảnh giới u minh, nhờ vào đạo đức tập thể của các bậc cao tăng
và A-la-hán.
* Kinh Báo Ân Cha Mẹ dạy rõ về công lao sinh thành, nuôi dưỡng khó
khăn của cha mẹ, và theo đó dạy cách báo đáp công ơn cao cả ấy.
* Kinh Thai Cốt và Kinh Huyết Bồn cũng có nội dung tương tự như hai
kinh trên nhưng đặc biệt nhấn mạnh công đức của cha mẹ.
* Kinh Hiếu Tử dạy về các phương thức báo hiếu.
* Kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán, với phẩm thứ hai – phẩm báo
ân, dạy cách đền ơn cha mẹ của người xuất gia và người tại gia.
* Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, có đến 2 phẩm nói về gương hiếu
hạnh của chư Phật và chư Bồ-tát trong các đời sống quá khứ.
* Kinh Địa Tạng kể về hiếu hạnh của Bồ-tát Địa Tạng, và thông qua đó
hướng dẫn cách đền ơn cha mẹ ở hiện đời cũng như các đời sống quá khứ.
* Sám Pháp Mục-kiền-liên dạy về cách sám hối và hướng dẫn cha mẹ về
chánh pháp của đức Phật.
* Kinh Thiện Sinh (Hán) hay Giáo thọ Thi-ca-la-việt (p:Singālaka) dạy
về đời sống và các mối quan hệ đạo đức của xã hội, trong đó có đề cập đến 5
nguyên tắc đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái và 5 nguyên tắc đạo đức của
con cái đối với cha mẹ.
* Kinh Pháp Hoa Phẩm thứ 27, dạy về báo hiếu bằng đem lại chánh kiến,
pháp lạc lâu dài cho mẹ cha bằng con đường thâm tín Chánh pháp.
* Kinh Chánh pháp niệm xứ, dạy về 4 ân: ân mẹ, ân cha, ân Như lai và
ân pháp sư giảng pháp.
Ngoài ra, còn nhiều lời
dạy về hiếu hạnh có mặt trong nhiều kinh thuộc Pāli tạng và Hán tạng. Có thể
nói, chữ hiếu có mặt trong rất nhiều kinh điển Phật giáo, đến nỗi người ta phát
biểu: “Thiên kinh vạn điển, hiếu vi đệ nhất”. Theo tinh thần Phật dạy, hiếu đạo
là nền tảng của nhân thừa, là cơ sở cho muôn hạnh lành khác phát sinh, là chặng
đường quan trọng trên lộ trình hướng đến đích giải thoát. Để quán triệt tinh
thần hiếu đạo ấy, chúng ta lần lượt khảo sát qua các điểm trọng yếu như sau:
- iv. Vu-lan bồn giáo dục ý thức
về ân nghĩa[4]:
Trong thế giới duyên
sinh vô ngã, Phật dạy con người là một tập hợp của nhiều nhân tố. Cái ấm thân
này chính là do cha mẹ chúng ta sinh thành nên, nhưng muốn cho tấm thân này
được trưởng thành mọi mặt trong cuộc sống hiện thực này còn phải nhận lấy nhiều
mối quan hệ ân nghĩa tất yếu khác. Như vậy, Vu-lan gợi cho chúng ta nghĩ nhớ về
ân cha nghĩa mẹ sinh thành dưỡng dục; ngoài ra, còn cho chúng ta biết cần phải
tri ân và báo ân các ân nghĩa khác như: ân quốc gia xã hội, ân sư trưởng huấn
dục, ân Tam bảo,v.v…
- i. Về ân nghĩa sinh thành:
Ở đời, ai lại không có
cha, người nào lại không có mẹ. Nhưng nên biết, để cho bản thân ta nên vóc nên
hình, cha mẹ đã phải trải qua bao đắng cay cơ cực. Điều này đã được đức Phật
minh chứng tận tường Kinh báo đáp công ơn cha mẹ:
1. Chín tháng cưu mang
khổ nhọc
2. Khi sinh đau đớn,
nguy hiểm
3. Nuôi con không màng
cực khổ
4. Nuốt đắng, mớm ngọt
5. Nhường khô, nằm ướt
6. Sú nước, nhai cơm
7. Giặt đồ dơ, tắm rửa
cho con
8. Lo lắng khi con đi xa
9. Có thể tạo tội vì con
10. Không ham trao
chuốt.
Thật vậy, với ân cha
nghĩa mẹ, văn thơ nào có thể kể cho xiết, bút mực nào có thể viết cho xuể, núi
biển nào có thể sánh cho bằng ân nghĩa sinh thành của cha mẹ. Cuộc đời vất vả
của cha và nhọc nhằn của mẹ được đánh dấu bằng những vết hằn năm tháng in đậm
trên gương mặt của cha già và mẹ yêu. Tất cả đều “để” và “cho” cháu con. Ân
nghĩa ấy được phát xuất từ tấm lòng thương yêu vô điều kiện, vô bờ bến của cha
mẹ đối với cháu con.
Kinh điển trong Phật
pháp cũng như thi ca ngoài xã hội, không ngớt lời ca ngợi công ơn cao cả như
trời biển này. Tất cả đều muốn nói lên đạo lý uống nước nhớ nguồn, gieo ý thức
cho tất cả mọi người khắc ghi đạo lý thâm trầm này. Hãy ý thức và hành động sao
cho phù hợp với lẽ chân thường.
a. Gương hiếu hạnh đối với
song thân xưa nay trong Phật giáo:
Trong Phật pháp xưa cũng
như nay có biết bao nhiêu gương hiếu hạnh đối với đấng sinh thành, tiêu biểu
như: Tôn giả Mục-kiền-liên sau khi chứng quả A-la-hán liền nghĩ đến việc cứu độ
mẫu thân Thanh Đề thoát khỏi chốn u đồ (kinh Vu-lan-bồn). Nàng Mục Nữ cứu mẹ
Diệt-đế-lợi thoát khỏi cảnh địa ngục (kinh Địa tạng). Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn,
sau khi tu tập hạnh Bồ-tát, thành tựu sáu Ba-la-mật, phát triển bốn tâm Vô
thượng, có thể vận dụng thần thông trong các trường hợp cần thiết, nhị vị Thái
tử này nghĩ ngay đến việc giáo hóa Phụ vương là Diệu Trang Nghiêm đang lầm lạc
vào con đường tà kiến hướng về Phật pháp, chứng đắc Thánh quả (kinh Pháp Hoa,
Phẩm thứ 27),v.v…
Vậy, bất luận là đời hay
đạo, bần cùng hay vương giả,… đều có cách thể hiện khác nhau, nhưng tuyệt nhiên
đều bắt đầu bằng việc tri ân và nhớ ân qua tấm lòng thương yêu và kính mến thật
sự của mình đối với đấng sinh thành.
b. Phương pháp hiếu hạnh theo
Phật pháp:
Kinh Phân Biệt (Bắc
tạng) ghi: “Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới thành Phật, toàn là
công ơn của cha mẹ ta. Vậy nên, người muốn học đạo không thể không tinh tấn
hiếu thảo với mẹ cha.”
Kinh Nhẫn Nhục ghi:
“Điều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác tối cao là bất hiếu”.
Kinh Tăng nhất A-hàm,
Đ.ii, 601, đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai
phải cõng mẹ, đi xa nghìn dậm, cung phụng mọi thức ăn, đồ mặc, chăn nệm và
thuốc thang, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện trên vai mình đi chăng nữa, cũng chưa
trả được ân sâu. Các thầy phải hiểu rằng, ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi
nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành. Vì thế mà biết ân đó khó
trả. Này các Tỳ kheo, có hai việc làm cho phàm phu có công đức lớn, được quả
báo lớn, đó là phụng sự cha và mẹ.”
Kinh Hạnh Phúc (Nam
tạng) ghi: “Phụng dưỡng mẹ và cha là vận may tối thượng”.
Ngoài việc thực hiện
trọn vẹn những tiêu chí hiếu nghĩa mà đạo nhân luân qui định, Phật pháp còn dạy
chúng ta về những nguyên lý ưu việt trong việc thực hiện hiếu đạo cao cả, trọn
vẹn và bền vững hơn: giúp mẹ cha hướng đến chánh pháp, để vượt qua mọi ưu não
khổ đau.
Tăng Chi I, tr.75, Phật
dạy: “Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải
vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ
kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo thì khuyến khích cho có lòng
tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối
với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì
khuyến khích vào chánh kiến, cho đến như vậy, này các Tỳ kheo, là làm đủ và đáp
ơn đủ cho mẹ và cha”.
Như vậy, chúng ta nhận
thấy, Phật giáo không những dạy về hiếu đạo bằng hiếu kính và hiếu dưỡng đối
với mẹ cha, mà còn dạy bổn phận làm con phải biết chăm lo đời sống tinh thần
của cha mẹ, phải có trách nhiệm đạo đức đối với các đấng sanh thành ra mình,
nuôi nấng mình trưởng thành và trở nên hữu dụng cho bản thân và xã hội. Sự hiếu
thảo của người con như vậy được trình bày qua 5 trách nhiệm đạo đức thiết thực
mà đức Phật đã dạy trong kinh Thiện sinh:
Vâng lời cha mẹ, giúp đỡ
cha mẹ khi cần:
Kinh nghiệm sống là một
trong những tri thức văn hóa đặc trưng của con người; thế nên, lời khuyên của
các bậc cha mẹ được phát xuất từ kho tàng tri thức văn hóa xuyên qua kinh
nghiệm sống của chính bản thân. Hơn nữa, lời khuyên ấy còn được phát xuất từ
tấm lòng chân tình thương yêu bảo bọc. Làm con, chúng ta không thể không nghe
lời cha mẹ. Do đó, yếu tố vâng lời cha mẹ được đặt thành vấn đề đầu tiên trong
nguyên tắc hiếu đạo.
Trên thực tế ngày nay,
chúng ta nhận thấy đạo lý này thật sự bị lung lây khi văn hóa vật chất trên đà
phát triển như vũ bão, nhưng ngược lại văn hóa tinh thần lại không sao đuổi
kịp. Thế hệ càng về sau tri thức học vấn càng cao hơn, nhưng ý thức đạo đức
càng sa sút; trên đà trược dài theo lối hưởng thụ vật chất, ít khi nào quan tâm
đến lời khuyên bảo của mẹ cha. Không những đạo lý về nhân tâm đầy tình người
này không được quan tâm, mà còn bị cho là những ý tưởng cổ hữu, không hợp với
thị hiếu đổi mới và cơ chế thị trường đấu tranh phát triển. Những ý tưởng thác
loạn này đã nhận chìm bao kẻ cuồng si trong vũng bùn tệ đoan tệ nạn xã hội.
Những ý tưởng trả treo như vậy thường đi đôi với thái độ vô trách nhiệm đối với
mẹ cha. Cho dù cha mẹ có nuôi con bằng cả tâm huyết, vắt cả hơi tàn cuộc sống
chính mình cũng không ai nghĩ đến một mai này con mình nuôi lại mình, nhưng
phận làm con phải nghĩ đến cha mẹ. Đây chính là đạo lý làm người có từ ngàn
xưa. Nên biết, tình cảm phụ tử và mẫu tử là một thứ tình cảm thiêng liêng, là
mảnh đất mầu mở nuôi lớn tình người, tình đồng loại và tình chúng sinh. Nếu
thiếu vắng thứ tình cảm này, thì không thể có một thứ tình cảm cao cả nào khác
có thể tồn tại. Có viễn cảnh nào đau buồn hơn, cha mẹ sống cả đời vất vả lao
đao phục vụ con cái, khi già yếu phải sống cảnh neo đơn cơ quạnh, con cái bỏ
rơi, không nơi nương tựa. Không một luân thường đạo lý nào ở đời có thể chấp
nhận.
Như vậy, với yếu tố tiên
quyết này, Phật dạy, là một người con hiếu thảo phải thỏa đáng 2 tiêu chí:
ngoan ngoãn vâng lời và chăm lo giúp đỡ cho cha mẹ bằng việc phụng dưỡng những
nhu cầu cần thiết khi cha mẹ cần đến trong lúc đau ốm già yếu như tiền bạc, ăn
mặc, thuốc men,…
‚ Làm tròn bổn phận đối với
cha mẹ:
Đạo Phật không phải là
một tôn giáo xa rời hiện thực. Đức Phật dạy, cuộc sống lành mạnh trong sáng
phải là một cuộc sống “trung đạo”, thăng bằng ổn định giữa đời sống vật chất và
tinh thần. Sự hiếu thảo của người con được thể hiện bằng tấm lòng chân tình cả
hình thức lẫn thực chất trong việc thể hiện của mình đối với đấng sinh thành.
Đó là tâm thành của “hiếu kính”, phụng sự của “hiếu dưỡng”, và ý thức của “hiếu
nghĩa”, chứ không vọng lý hư đàm. Đây chính là bổn phận tất yếu mà mọi người
con phải khắc ghi tận tâm cang.
Bổn phận tiên quyết của
người con được xác lập trên nền tảng của “hiếu kính”: Cho dù cha mẹ già yếu,
vẫn không bao giờ có tâm niệm xem như một gánh nặng mà hết lòng kính trọng
thương yêu, nhận thức cha mẹ còn sống là nguồn hạnh phúc vô biên đối với cháu
con; luôn ý thức, cha mẹ không thể mãi sống đời với ta. Hình ảnh đẹp của người
con chí hiếu luôn khát khao được ở bên cạnh mẹ cha, tâm nguyện mong muốn mẹ cha
luôn mãi sống bên mình.
con.” (Ca dao)
Không có nỗi bất hạnh
nào hơn khi mồ côi cha mẹ. Cha mẹ ta biến ta từ không thành có, từ có nên thành
người. Làm sao có thể quên ân nghĩa thâm trầm này. Luôn nghĩ về cha mẹ quá vãng
là đạo lý uống nước nhờ nguồn. Cha mẹ mất đi nhưng vẫn còn tồn tại trong hơi
thở và dòng máu trong mỗi cháu con.
Thích Ca Mẹ già như thể Phật bà Quan Âm; Nhớ ngày xá tội vong nhân, Lên chùa lạy Phật đền ân sinh thành.” (Ca dao)
Bổn phận “hiếu dưỡng”
được thể hiện bằng cả tấm lòng, chăm lo đời sống tinh thần bằng sớm hôm thăm
viếng, vấn an vỗ về cha mẹ trong lúc bệnh đau cũng như khi già yếu; chăm lo đời
sống vật chất cho cha mẹ bằng tiền bạc, ăn mặc, thuốc men,… khi cha mẹ già cả
đau yếu. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, cho dù nghèo cùng bi đát nhất, người ta
cũng vẫn có thể thể hiện hiếu tình của mình một cách trọn vẹn.
Ở mặt “hiếu nghĩa”,
người con hiếu thảo phải là người con biết ăn ở ứng xử cho phải đạo, không vì
nuôi cha mẹ mà phương hại đến đạo đức luân thường, làm nhiều điều tội ác để chu
cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật không chấp nhận sự hiếu thảo phi pháp này. Một
trong những điều hiếu đạo cao cả nhất cần phải lưu tâm, giúp cho cha mẹ tránh
xa con đường ác nghiệp, là giúp cho cha mẹ có cuộc sống hiền lương và thánh
thiện bằng qui hướng Tam bảo và tác phước hành thiện, để rồi gặt hái hạnh phúc
và an lạc trong hiện tại và mãi mãi về sau.
“Nếu chỉ việc trả
hiếu cho cha mẹ bằng cách phụng dưỡng của cải vật chất tiền bạc thì không bao
giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Mà nếu cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo thì khuyến
khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích
vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với
cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến. Được như vậy là làm đủ và đáp
ơn đủ cho mẹ và cha.”[6]
Mặt khác, bổn phận người
con hiếu thảo còn được thể hiện trên bình diện rộng hơn như: xây dựng sự nghiệp
tri thức và đạo đức cho bản thân, chăm lo gầy dựng gia thất, v.v… Nhìn chung,
thực hiện tất cả những gì mà cha mẹ kỳ vọng nơi ta, muốn ta trưởng thành trên mọi
phương diện, và chúng ta muốn thực hiện những hoài bảo này của cha mẹ một cách
hoàn thiện thì phải dựa vào tiêu chí đúng chánh pháp và phù hợp đạo lý xã hội.
ƒ Giữ gìn danh dự và truyền
thống của gia đình:
Truyền thống gia đình
được xem như hạt nhân xây dựng tính giá trị và vững bền cho quốc gia xã hội, và
nói rộng hơn là yếu tố tác thành văn minh nhân loại. Vì vậy, việc bảo vệ truyền
thống mà các bậc tiền bối và tổ tiên đã dầy công tạo dựng được đặt ra trong vấn
đề hiếu đạo.
Truyền thống ấy là những
gì mà các bậc ông bà tổ tiên, các bậc tiền nhân đã dầy công vun đắp, cho gia
phong được hưng vượng, cho dân tộc được vẻ vang, cho đất nước được phú cường.
Truyền thống ấy được xây dựng bằng chính mỗi gia tộc khép kín trong dòng huyết
thống, là những nguyên tắc đạo lý gia phong được thỏa thuận, hình thành và
chuyển giao qua nhiều thế hệ, như đoàn kết hòa mục, tương thân tương trợ, tác
nghiệp gia truyền, tri thức gia tộc, luật tắc gia phong,v.v… Nói chung là nếp
sống truyền thống tốt đẹp với tinh thần ý thức cộng đồng.
Phật dạy: “Hội họp trong niệm đoàn kết, chia tay
trong niệm đoàn kết, làm việc trong niệm đoàn kết;… biết tôn trọng, bảo vệ và
làm vẻ vang tôn miếu của dòng tộc mình.”[7]
Bảo vệ truyền thống ở
đây chính là bảo lưu những gì tốt đẹp được truyền thừa qua nhiều thế hệ, quá
trình phát triển tốt đẹp của gia tộc, làng xóm, cộng đồng, sắc tộc, quốc
gia,v.v… Cần phải hiểu một cách thấu đáo rằng, đạo Phật là một tôn giáo đề cao
trí tuệ, tư duy và thẩm định; mọi ý thức và hành động đều được xác quyết xuyên
qua tiêu chí của trạch pháp, của gạn đục khơi trong. Đạo Phật không khuyến
khích và phục tùng các truyền thống lạc hậu và phản đạo đức, đi ngược lại con
đường phát triển đời sống tâm linh, không tin một cách mù quáng vào những
truyền thống hủ bại như chế độ thế tập “cha truyền con nối”,
“con vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa”. Điều này đã
được minh chứng rõ trong dòng sử Việt: Lý Công Uẩn, con Sải lại ra làm vua;
Trần Nhân Tông,… con Vua lại đến chùa mà quét lá đa. Các bậc Minh vương này cởi
cẩm bào ra làm Sải hay cởi Ca-sa ra làm Vua đều mang sứ mạng an dân tế thế,
hoàn toàn không phải vì “thất thế” hay “quyền thế” mà phải thay đổi thân phận.
Niềm tin chân chánh phải
là niềm tin có chánh kiến “chớ vội tin vào điều gì cho dù điều đó thuộc về tập
quán hay truyền thống,… mà hãy tin vào điều gì mang lại lợi lạc lâu dài cho
chính mình và tha nhân.”[8]
Với thế giới nhị nguyên lợi bất cập hại này, mọi vấn đề đều có thể tồn tại 2
mặt tích cực và tiêu cực, tiến hóa và lạc hậu; cũng vậy, truyền thống nào cũng
có cái tốt và cái xấu kèm theo. Qua nhãn quan trí tuệ, Đạo Phật dạy việc bảo
lưu truyền thống tốt đẹp của tổ tiên là một hình thức vinh danh gia tộc dòng họ
theo chiều hướng có chọn lọc và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát
triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần về phương diện vật chất.
„ Bảo vệ tài sản thừa tự từ
cha mẹ & tổ tiên:
Bảo vệ gia sản kế thừa
từ ông bà cha mẹ, những thành quả cơ nghiệp mà tổ tiên đã dầy công vun đắp cũng
được xem là một hình thức báo hiếu. Vì thành quả này được hình thành bằng bao
nhiêu tâm huyết của các tiền nhân. Không thể một chốc lát mà bao nhiêu cơ đồ ấy
tiêu tan thành mây khói trong bàn tay của “tán gia chi tử” của chúng ta.
Mặc dù với nhãn quan trí
tuệ siêu xuất thế gian, nhưng đức Phật cũng quan tâm đến đời sống luân lý xã
hội. Ngài quan tâm đến vấn đề giáo dục con người toàn diện: con người cá nhân
và con người xã hội. con người xã hội là con người được truyền thừa, được chuyển
giao giữa các thế hệ. Ngài dạy, “bảo vệ tài sản thừa tự” là nguyên tắc duy
trì tính vững bền của truyền thống gia tộc. Tài sản thừa tự này phải được hiểu
là những gì mà con cái kế thừa nơi tổ tiên dòng họ về những di sản từ vật chất
cho đến phi vật chất, như gia tài tiền của phải được kế thừa, gìn giữ và phát
triển hợp pháp; như tri thức và đạo đức gia phong phải được gìn giữ và phát
huy. Nghĩa là sinh thời cha mẹ chí thú làm ăn, thì con cái không được ăn chơi
lêu lổng; cha mẹ là tầng lớp tri thức, thì con cái phải siêng năng học hành;
cha mẹ tác phước hành thiện và qui kính Tam bảo, thì con cái không nên làm việc
ác và phỉ báng Tam bảo. Không những kế thừa những di sản cao quí ấy, mà còn
phát huy một cách tốt hơn. Vì kế thừa thường đi đôi với phát triển, nên càng về
sau càng hoàn thiện, trên tiêu chí “con hơn cha là nhà có phước”.
… Chu
toàn tang lễ của cha mẹ đúng pháp:
Quan niệm chết ra ma ra
cỏ, chết ra cát bụi là một quan niệm đầy sai lầm trên phương diện đạo đức nhân
bản, là động cơ đưa đến băng hoại và thất tán nhân tâm; hơn nữa cũng thiếu sự
soi sáng của nhãn quan khoa học. Chết chẳng qua cũng chỉ là sự vận động của thế
giới vật chất, là sự chuyển tiếp từ sự sống này qua sự sống khác, một chặng
đường đổi thay của dòng sống vô tận. Chính vì vậy mà khi cha mẹ qua đời, việc
chu toàn tang lễ cho cha mẹ đúng pháp là một vấn đề tối yếu cần đặt ra trong
bổn phận làm con.
Ở đây, việc chu toàn
tang lễ trong tinh thần báo hiếu khi cha mẹ qua đời đơn giản nhưng chân thành
và trang trọng; không cầu kỳ lễ nghi như cúng tế, ếm đối, ăn uống, ca hát, đốt
vàng bạc,v.v… chỉ oán kết thêm ác nghiệp mà thôi. Con cái nên nén sự đau
thương, khóc lóc, than vãn; nên niệm Phật, tụng niệm để siêu độ cho người quá
cố, xả bỏ nghiệp duyên và chấm dứt luyến ái mà nhẹ nhàng siêu thoát. Trong thời
gian cư tang, con cháu nên tu tạo các phước điền như phóng sanh, bố thí, cúng
dường,… làm hành trang thiện nghiệp để cha mẹ thác sinh vào các cảnh giới an
lành.
- ii. Về ân nghĩa quốc gia, xã hội:
Nên biết, hồn thiêng đất
Việt ngàn đời khắc ghi, với truyền thống Âu việt con cháu Lạc hồng, bốn ngàn
năm văn hiến, bất khuất trước bao thế lực cừu địch, nhưng cũng rất hòa hiếu với
các dân tộc quốc gia láng giềng. Điều ấy đã được minh chứng bằng lịch sử oai
hùng trong suốt các thời kỳ kháng chiến chống ngoại xâm. Tinh thần bất khuất và
hòa hiếu ấy chính được un đúc, nuôi dưỡng và khai phóng từ tinh thần vô ngã và
vị tha của đạo Phật ngay trong buổi đầu lập quốc. Mái chùa, cửa Phật luôn là
nơi cưu mang và san sẻ với dân tộc trải qua các cuộc thăng trầm trong các cuộc
chiến tranh bảo vệ và xây dựng đất nước từ các triều đại xưa cho đến thời hiện
đại.
nguy nhưng chẳng mất.” (Hồ Dzếnh) “Mái chùa che chở hồn dân tộc, Nếp sống muôn đời của Tổ tông” (Huyền
Không)
Ý thức và hành động này
luôn khắc ghi vào tâm khảm của mọi Phật giáo đồ tại gia cũng như xuất gia. Điều
này đã được minh chứng rõ trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, mà tiêu biểu
nhất là câu nói của HT. Thích Trí Thủ, một bậc danh Tăng Việt Nam trong thời
hiện đại:
“Những gì tôi cống hiến
cho Phật pháp cũng chính là cống hiến cho dân tộc, và những gì tôi đã cống hiến
cho dân tộc cũng chính là cống hiến cho Phật pháp”.
Gia tài cuộc sống nhân
thế với đời cũng như đạo mà chúng ta đang thụ hưởng đây, chính là xương máu của
biết bao thánh tử đạo, anh hùng nghĩa sĩ,… đã nằm xuống, cho đời thêm hoa thơm
của bình yên và trái ngọt của hạnh phúc. Có người nằm xuống, đời không ngớt lời
tôn vinh; nhưng cũng có không biết bao nhiêu anh linh vô danh ngã xuống, không
một điếu văn hay một lời truy điệu,… nhưng tất cả nằm xuống với một ý nghĩa cao
cả, vì nâng cao ngọn đuốc thiêng chánh pháp, vì sự nghiệp trường tồn của dân
tộc, vì sự tồn vong của tổ quốc. Và ngay trong giờ phút bình an mà chúng ta yên
tâm sinh sống cũng như tu tập đây, biết bao chiến sĩ phải vật lộn với bao hiểm
nguy ngoài biên ải xa xăm của tổ quốc.
Còn nữa, về các mối quan
hệ hỗ tương xã hội trong cuộc sống duyên sinh trùng trùng này, ta ăn cơm nhờ có
nông dân cày cấy, ta bệnh đau nhờ thầy thuốc điều trị, ta đi đây đó nhờ tài xế
đưa đón,v.v… Tất cả đều là ân nghĩa quan hệ chằng chịt xã hội. Với nhãn quan
trí tuệ, Đạo Phật còn nhìn xa hơn là ân nghĩa chúng sinh: con trâu kéo cày, con
ngựa kéo xe, con chim ca hót,… Tất cả đều là sự đóng góp để hình thành nên cuộc
sống đầy sinh động này. Nói cách khác, ta phải biết nhớ ơn và trân trọng đời,
vì đời cho ta một cuộc sống. Nếu mọi người trong xã hội đều biết đạo lý này,
thì không những biết trân trọng giữ gìn mà còn xây dựng xã hội, tạo dựng cuộc
đời tươi đẹp hơn bằng khả năng những gì mà trong tầm tay có thể. Thái độ vô ý
thức với cuộc sống đáng yêu này chính là động cơ đưa đến lũng đoạn xã hội, huỷ
diệt môi trường và tiêu vong cuộc sống; điều đó cũng có nghĩa, con người tự huỷ
diệt chính mình trong từng phút từng giây.
iii. Về ân nghĩa sư trưởng:
Ít nhiều gì trong đời,
ai trong chúng ta cũng có một lần thọ giáo nơi các bậc thầy: học văn hóa, học
nghề nghiệp, v.v… Cho dù là người ở ngoài đời hay người trong đạo, ân Sư trưởng
là một đạo lý không thể thiếu. Vai trò của vị Thầy quan trọng đến đổi người đời
ví von: “Không Thầy đố mày làm nên”. Hơn nữa, với Phật pháp vai trò của vị Thầy
quan trọng biết dường nào trong sự nghiệp tác thành giới thân và tuệ mạng cũng
như cứu vớt tâm linh cho chúng ta trong bước khởi đầu cũng như điểm đến đích
trên đạo lộ giác ngộ giải thoát. Ân nghĩa thâm trầm ấy quả thật như bể cả và
trời cao.
Bởi vì, cha mẹ cưu mang
và nuôi dưỡng ta, nhưng nếu không có các bậc Sư trưởng, thiện hữu trí thức thì
chúng ta không thể thành nhân: “Cha mẹ tuy có thể sanh dưỡng ta, nhưng nếu
không có Sư trưởng thế gian thì không biết lễ nghĩa; nếu không có Sư trưởng
xuất thế gian thì không hiểu Phật pháp. Không biết lễ nghĩa thì khác chi cầm
thú, không hiểu Phật pháp thì khác nào thế gian.”[9]
Vâng, trời cao khó với,
bể sâu khó lường; cũng vậy, ân đức của Sư trưởng đối với chúng ta khó mà đền
đáp. Mỗi mùa Hiếu hạnh trở về, là một dịp thiêng liêng để chúng ta nghĩ nhớ và
tỏ lòng tôn kính đối với các bậc Thầy thế gian cũng như xuất thế gian, và cũng
để khuyên nhắc chúng ta luôn hướng đến mục tiêu hoàn thiện đời sống của bản
thân, mà tinh thần “tôn sư trọng đạo” luôn là kim chỉ nam soi đường ta đi.
iv.
Về thâm ân Tam bảo:
Cuộc đời là một dòng
chảy xiết, bao sự sống đang dập dìu trôi nổi trên dòng cuồng lưu dục vọng ấy.
Nói cách khác, đời là bể khổ; vì bản thân của cuộc đời được hình thành từ sanh
– lão – bệnh – tử – sầu bi khổ ưu não. Thế nên, khi ngẫm về sự đời, cổ nhân đã
phải than rằng:
khổ mênh mông sóng ngập trời, Khách trần chèo một chiếc thuyền
trôi Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió, Xét lại cùng trong bể khổ thôi.”
Thật vậy, con người luôn
muốn vùng vẫy khỏi các nỗi khổ hiện sinh này, nhưng kết cục đành bất lực. Trong
khi đó Tam bảo xuất hiện như ngọn đuốc thiêng soi sáng cho đời, như chiếc
thuyền từ đưa người qua bể khổ. Nhờ Tam bảo mà chúng ta hiểu được chánh pháp,
biết được đạo lý “thế” cũng như “xuất thế”, nhận chân được thực chất của cuộc
đời là “khổ, nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ”. Nếu không hiểu giáo
pháp này cũng có nghĩa là dòng luân hồi khổ đau vẫn sẽ tiếp diễn và sinh tử vẫn
sẽ trải dài bất tận trong vô ngôn.
dài kẻ thức trọn canh, Đường dài với khách bộ hành mỏi
chân Luân hồi dài với kẻ ngu nhân; Không thông diệu pháp muôn phần
cách xa.” [10]
Ân chư Phật ra đời cứu
khổ độ sinh, ân Giáo pháp đưa đến con đường giác ngộ giải thoát, ân chúng Tăng
thay Phật hoằng dương chánh pháp. Chính vì vậy, là Phật tử dù tại gia hay xuất
gia không thể quên thâm ân này. Vai trò Tam bảo quan trọng đối với cuộc đời như
vậy, nên cổ nhân có lời cảm thán:
đênh trường dạ đêm dài, Này ngôi Tam bảo là đài quang minh; Ngập trời bể khổ linh đinh, Này ngôi Tam bảo sinh linh thuyền từ.”
- C. KẾT LUẬN:
- i. Vu-lan báo hiếu xây dựng tiêu chí ý thức & hành động:
- 1. Giáo dục ý thức về ‘nhân quả thiện ác’:
Truyền thống giáo lý Nam
truyền và Bắc truyền đều xếp tội ác giết cha, giết mẹ vào năm tội lớn, được gọi
là “ngũ đại trọng tội” hay “ngũ nghịch tội”[11], hiện
đời phải chịu pháp luật đại hình, một hậu phải chuốc lấy khổ đau vô tận dưới
chốn u đồ. Ngược lại, phụng thờ cha mẹ được xem là “đại phước điền”, sống được
đời tán dương, đời sau hưởng phúc lạc vô cùng trong thế giới nhân thiên. Thật
vậy, hiếu thuận hoặc bất hiếu đều có kết cuộc tương xứng.
mình hiếu với mẹ cha, Mai sau con hiếu với ta khác gì. Nếu mình ăn ở vô nghì, Đừng mong con hiếu làm gì uổng
công. Kìa xem giọt nước xuôi dòng, Giọt sau, giọt trước cũng đồng một
nơi”. (Hiếu
thuận hoàn sinh hiếu thuận tử, Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch
nhi. Bất tín đả khán thiềm đầu thủy, Điểm điểm trích trích bất sai di.)
Có biết chăng hành động ứng xử xã
hội chính là tập quán nghiệp, là khế ước dắt dây của nhân quả, gieo thiện nhân
thì gặt thiện quả. Tốt với người, người tốt với mình. Nếu mình hiếu để với mẹ
cha thì con cũng hiếu với ta khác gì; và ngược lại. Mỗi mùa Vu-lan trở về là
mỗi lần gợi nhắc lại bổn phận của mọi người con phải nhớ lại và hướng đến đấng
sinh thành đang còn hoặc đã mất của mình, phải sống sao cho phải lẽ hiếu đạo
của phận làm con.
- 2. Giáo dục ý thức giá trị đạo đức, lòng nhân ái đối với kẻ còn,
người mất và muôn loài trong mối tương giao cuộc sống:
Tinh thần Vu-lan báo hiếu là một giá
trị đạo đức, giáo dục lòng nhân ái đối với kẻ còn lẫn người mất trong mối tương
giao xã hội. Hiếu đạo không dành cho riêng ai, mà là của tất cả mọi người, mọi
người con đối với công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Ở bình diện rộng
hơn, Vu-lan còn mang ý nghĩa tri ân và báo ân với các mối quan hệ ân nghĩa khác
trong “tứ đại trọng ân” như trên đã trình bày. Hơn nữa, Vu-lan còn là thông
điệp hướng đến mọi chúng sanh đang bị khổ đau, do bị nghiệp bất thiện gây ra
trong đời sống hiện tại cũng như trong kiếp sống quá khứ.
Với nhãn quan của bậc Đại giác, đức
Phật quan sát và phản ảnh khắp cả pháp giới chúng sinh, không riêng gì loài
người; thế nên, đức Phật cũng được gọi là bậc “thầy của trời người” (thiên nhân
chi đạo sư). Tuy nhiên, phạm vi giáo pháp ở đây đặc trưng dành riêng cho nhân
loại. Điều đó có nghĩa, Vu-lan báo hiếu là việc làm phước lợi ân triêm cho cả
kẻ còn lẫn người mất. Song song với việc thi hành pháp sự giải oan và bạt độ
nghiệp chướng cho người mất, giúp họ mau ra khỏi chốn u đồ khổ não, thì người
sống cũng được nghe giáo pháp mà tu tỉnh, dứt ác hành thiện. Đạo Phật quan tâm
đến cuộc sống toàn diện, vì hạnh phúc và an lạc cho nhân loại, với tinh thần
“cứu tử độ sinh” thì không lý do cho rằng đạo Phật là phi nhân bản, ăn cơm nhân
gian nói chuyện âm phủ.
Mùa Vu-lan hiếu đạo là mùa gợi chúng
ta nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha. Với cha mẹ còn sinh tiền
phải biết kính trọng, vâng lời, phụng dưỡng, sớm hôm chăm sóc khi cha mẹ đau
yếu; nếu cha mẹ chưa trở về với Chánh pháp thì hướng dẫn cha mẹ qui kính Tam
bảo, trở thành người Phật tử chân chánh. Nói chung, người Phật tử phải biết đền
ơn cha mẹ hiện đời cũng như cha mẹ trong các đời quá khứ. Ở phương diện xã hội
rộng hơn, lễ hội Vu-lan còn là dịp tốt để người Phật tử phát tâm cúng dường Tam
bảo, làm việc nhân từ bố thí, phóng sanh giúp vật,v.v… Tinh thần Vu-lan dạy
chúng ta ý thức độ lượng, bao dung, hướng đến và giúp đỡ người khác trong tinh
thần vô cầu lợi. Ngoài ra, Vu-lan còn là cơ hội tốt cho chúng ta phát tâm Bồ-đề
hướng đến các chúng sanh ngạ quỷ đang đau khổ, làm các việc công đức để hồi
hướng cho họ. Một lễ hội có nhiều giá trị luân lý đạo đức cao đẹp như vậy cần
được giữ gìn và phát huy trên phạm vi giáo dục xã hội vĩ mô.
- 3. Vu-lan báo hiếu, giá trị giáo dục đa phương diện:
* Phương diện giá trị đạo đức: giáo dục
tình yêu tiên giống nòi, tình yêu dân tộc đất nước, tinh thần tôn sư trọng đạo,
tình yêu chân lý giáo pháp, tình yêu nhân loại và muôn loài chúng sinh. Hơn nữa,
Vu-lan – hiếu đạo còn giáo dục tinh thần ý thức đạo lý nhân quả thiện ác, răn
đe điều xấu và cổ vũ điều tốt, phát huy tinh thần luân lý đạo đức tình người.
* Phương diện giá trị văn hóa: Lễ hội
Vu-lan mặc nhiên trở thành ngày hội truyền thống mang đậm nét văn hóa tinh thần
đặc thù của nhiều quốc gia trên thế giới. Mùa Vu-lan trở thành mùa hiếu hạnh của
tất cả mọi người, không của riêng ai, cho dù là người khác tôn giáo hay không
tôn giáo.
* Phương diện giá trị
kinh tế: Mùa lễ hội Vu-lan, trở thành mùa của hiếu hạnh,
cũng là mùa cho mọi người tác phước hành thiện. Các hoạt động kinh tế như: cúng
dường Tam bảo, bố thí ủy lạo, cũng như các hoạt động gây quỹ cứu trợ an sinh,…
diễn ra trong bầu không khí hoan hỉ tưng bừng và hiệu quả; phản ảnh đầy đủ tinh
thần từ mẫn và vị tha của đạo Phật.
* Phương
diện giá trị chính trị: Vu-lan hiếu đạo nêu cao tinh thần từ bi, vô ngã và
vị tha; vượt lên trên mọi ranh giới của mọi ý thức hệ, tư tưởng, chủ nghĩa, dân
tộc và quốc gia,…; xem pháp giới chúng sinh đều là
những mối quan hệ ân tình tương sinh không biên giới. Đây chính là tinh thần
giáo dục ý thức chính trị an lạc cộng đồng pháp giới.
Nói tóm, Vu-lan là tiếng nói chung
của tinh thần hiếu đạo Phật giáo, là tinh thần giáo dục nhân bản. Tinh thần
giáo dục này đã vượt khỏi ranh giới tôn giáo, đi vào lòng người trong mọi tầng
lớp xã hội, nêu cao tấm gương hiếu đạo của những người con hiếu hạnh; đồng
thời, cũng khơi dậy nhân tâm ở mọi người con vì một lý do nào đó mà quên đi cội
nguồn; ít ra hằng năm, khi mùa Vu-lan trở về mọi người con có dịp nghĩ nhớ về
mẹ cha hiện đời cũng như bảy đời quá khứ trong nỗi niềm thương cảm chân thành,
để tìm giải pháp thiết thực báo đáp công ơn. Có thứ tình cảm nào thiêng liêng
bằng tình yêu cốt nhục, và thâm trầm bằng tình cảm mẹ cha. Thứ tình cảm mà đã
làm nẩy sinh bao tình cảm yêu thương cao đẹp khác: tình yêu thương nhân quần
đồng loại, tình yêu thương dân tộc quốc gia, tình yêu thương gia tộc giống nòi,
tình yêu thương pháp giới chúng sinh. Vu-lan báo hiếu, tinh thần uống nước nhớ
nguồn và tri ân báo ân; hơn nữa, đây còn là tinh thần nhân ái, hướng đến tha
nhân và mọi loài trong tình yêu thương nâng đỡ, vô điều kiện và vô vụ lợi, đến
với những ai trong nỗi niềm bí yếu, đến với muôn loại chúng sinh trong cơn hoạn
nạn, với tinh thần ban vui cứu khổ. Tinh thần này cần được phát huy để cho sự
sống của con người cũng như của pháp giới chúng sinh hôm nay và mãi mãi mai sau
thật sự an lạc và hạnh phúc.
Chùa Phước Long Phật Tích,
Diên Phước, Diên Khánh, Khánh Hoà
[1] Kính lễ và thuận thảo với các bậc
cha mẹ, sư trưởng, vợ chồng, thân hữu, tôi tớ, đạo sĩ qua ý nghĩa lễ 6 phương;
khi sống được an lạc, lúc chết được sinh thiên. (k. Thiện sinh)
[2] Vạn 35/151B
[3] Những duyên sự về thọ nghiệp ngạ
quỷ được diễn tả trong rất nhiều kinh: Ngạ quỷ sự, Nam truyền đại tạng, tập 25,
tr. 87 – 94; Phật thuyết ngạ quỷ vấn Mục-liên kinh, Đ.17, tr.535b – 536b; Phật
thuyết tạp tạng kinh, Đ.17, tr. 557b-560b; Ngạ quỷ báo ứng kinh, Đ. 17, tr.
660b-562b;v.v…
[4] Tứ đại
trọng ân: ân nghĩa Sinh thành, Quốc gia, Sư trưởng và Tam bảo
[5] Kinh Báo Ân Cha Mẹ, thi hóa của
Nhật Từ
[6] Tăng Chi bộ Kinh I, Tr. 75
[7]
Digha-nikāya I, No.16 Mahāmarinibbanasūtta
[8]
Tăng chi I, Các vị ở Kesaputta, tr.337-347
[9] Văn khuyến phát bồ đề tâm
[10] Pháp cú
[11] Giết cha, giết mẹ, giết
A-la-hán, làm thân Phật bị thương ra máu và phá hòa hợp Tăng.
Discussion about this post