Lâu nay học đạo nhưng tôi vẫn chưa hiểu rõ Tứ Cú
Kệ là gì. Xin quý quý thầy, quý cô, quý đạo hữu hoan
hỷ cho tôi biết Tứ Cú là gì? “Tứ Cú” và “Tứ Cú Kệ” trong
kinh Kim Cương là một hay khác. Tứ cú kệ trong kinh Kim Cương
có phải là bài “Nhược dĩ sắc kiến ngã. Dĩ âm thanh cầu
ngã. Thị nhân hành tà đạo. Bất năng kiến Như Lai” không
?
TRẢ
LỜI:
Tứ
Cú là bốn câu hay còn gọi là bốn mệnh đề, dùng để diễn
tả mọi sự mọi việc trong thế giới tương đốị Tất cả tri kiến tư tưởng của nhân loại không ra ngoài
bốn thể diễn tả nàỵ Đó là: (1) Có, (2) không,
(3) cũng có cũng không, và (4) chẳng có chẳng không. Thí dụ như tứ cú của vô thường là (1) thường, (2) vô
thường, (3) cũng thường cũng vô thường, và (4) chẳng thường
chẳng phải thường.
Còn
Tứ cú kệ, theo Cụ Đoàn Trung Còn, là “một
bài
kệ tóm lược trong bốn câu chứa đựng hết ý nghĩa
đạo lý. Chư Phật chư Tổ thường dùng Tứ cú kệ
truyền cho đệ tử hoặc để khai ngộ hay để phó chúc. Người hữu duyên nghe một Tứ cú kệ, có thể giác ngộ mà
tu cho tới thành đạọ Thí dụ bốn câu kệ:
Chư
ác mạc ác
Chúng
thiện phụng hành
Tự
tịnh kỳ ý
Thị
chư Phật giáọ
Bốn
câu kệ ấy tóm lược hết giáo lý của Phật.”
(Tự Điển Phật Học Quyển 3)
Tuy
nhiên, theo Hoà Thượng Duy Lực ghi chú trong bản dịch Kinh
Kim Cang thì Tứ cú kệ cũng là Tứ
cú. Chẳng lọt vào Tứ cú là thực hành theo Tứ cú
kệ.
Tứ
Cú Kệ:
Có
là cú thứ nhất,
Không
là cú thứ nhì,
Cũng
có
cũng không là cú thứ ba,
Chẳng
có
chẳng không là cú thứ tư
Chẳng
lọt
vào tứ cú là thực hành theo tứ cú kệ. (Ghi chú hết)
http://www.thuvienhoasen.org/u-kkimcang-01.htm
Và
Hoà Thượng Thanh Từ giảng “..người
ứng dụng thọ trì 4 câu kinh Kim Cang là chẳng chấp tướng,
như như bất động, hay vì người diễn nói cũng đều là
bất thủ tướng, như như bất động…” Như như bất
động là gì? tức là Như Laị không từ đâu
đến và không đi đâụ..” http://www.thuvienhoasen.org/u-kcgg32.htm
(Kinh Kim Cang Chư Gia giảng: “Như như bất động là người
học đạo, nếu tự nói mình biết đặng, tỏ ngộ đặng,
giải thoát đặng, hiểu như thế thì có động tâm, tức phải
sanh diệt. Bằng không tâm ấy thì cả thảy pháp đều
chẳng động. Chẳng động thì trong ngoài đều như, cho
nên nói: “như như bất động”.)
Theo
ý kiến của dịch giả Kinh Kim Cang Chư Gia (Tam tạng Pháp Sư
Cưu Ma la Thập dịch kinh và 53 nhà chú giải) thì: “Phật
tổ thuyết kinh này trước sau là 14 lần nói về Tứ cú kệ
mà không chỉ ra cho đích xác còn mỗi khi nói Tứ cú kệ đều
có nói thọ trì và trên có chữ nãi chí dưới có chữ đẳng.
Phải
biết nghĩa chữ: thọ trì là tự mình dụng lực: Thọ
lãnh trong lòng là thọ, ghi nhớ không quên là trì nãi chí
cho đến, đẳng là cái bọn (số nhiều). Ấy là cái
mật nghĩa của Ngài có ý muốn để cho chúng sinh tự mình
tìm hiểu lấy mà thôị
Mật
nghĩa ví cũng như câu xai bài đố nếu nói rõ ra thì chẳng
những là hết cả cái mật ý của nó mà lại làm cho mất
hết một phần chú ý của độc giả nữạ
Ngài
thương cả thảy chúng sinh như mẹ thương con nên trong bốn
mươi mấy năm thuyết pháp ba trăm ngoài độ mỗi mỗi đều
chỉ dạy cặn kẽ đinh ninh mà còn không tiếc huống chi là
Tứ cú kệ. Sở dĩ chẳng nói ra là nguyên nhân ấỵ
Chúng
tôi đã đọc kinh Kim Cang lẽ cố nhiên dầu chưa thấu lý
ráo rốt cũng có lẽ hiểu đặng một ít phần, nhưng chúng
tôi là con nhà Phật nên thể theo ý của Phật không dám chỉ
rõ rạ Tuy vậy mà cũng ráng thỏ thẻ đôi lời là giải
nghĩa chữ: Thọ trì, nãi chí và đẳng đó, đặng cho lộ
cái tiêu tức mối mang của Tứ cú kệ một chút đó thôị
Vậy
thì người học đạo phải dụng tâm lực xét cần nghiên
cứu cho thấu đáo nghĩa lý của bộ kinh này hẳn thấy Tứ
cú kệ hiện tướng rõ ràng trước mặt.” (trang 392)
Cũng
trong Kinh Kim Cang Chư Gia, Nhan Bính giải như sau: “Tứ
Cú Kệ là nhãn mục của bộ kinh nầy, tuy chú giải đã mấy
trăm tay, nhưng chưa có ai chỉ rõ chỗ căn cước (hạ lạc)
đặng. Phần nhiều không tự hiểu Tứ cú kệ của mình,
chỉ bo bo tìm tòi trong kinh sách. Dầu cho tìm đặng đi
nữa, cũng là câu chết trong kinh, chớ đâu phải là câu sống? Câu sống là <> mới phảị Tuy vậy, cũng
phải bổn thân thấy biết mới đặng. Kinh Phật Nhãn
có nói: <
mình xét lấy, quyết chẳng nên cỡi trâu mà tìm trâụ
Bằng
đem bảy báu bao nhiêu mà bố thí, cũng chẳng bằng phát tâm
Bồ đề, thọ trì Tứ cú kệ của mình, rồi vì người mà
thuyết pháp, khiến cho hết thảy chúng sinh đều đặng thấy
tánh thành Phật, thì phước này hơn phước kiạ...”
(trang 398)
BBT
TVHS (Tịnh Thuỷ)
TRẢ
LỜI : Tứ cú là một vấn đề rất quan trọng đối với
luận lý biện biệt của Phật giáo nên không thể nói vắn
tắt quá được. Tuy nhiên, chúng tôi cũng cố gắng tóm gọn
vấn đề để ông dễ theo dõị Tứ cú là hình thức phân
loại chư pháp (vạn hữu) còn gọi là “Tứ pháp cú”, tiếng
Phạn là càtuskotica, tức lấy một tiêu chuẩn là A, hoặc
hai tiêu chuẩn là A và B mà đem chư pháp phân ra làm 4 loại,
tức “Tứ cú” .
Đệ
nhất cú : là A (tức phi phi A), tức “chẳng phải chẳng là
A”
Đệ
nhị
cú : phi A (không phải là A)
Đệ
tam
cú : diệc A diệc phi A (là “A” mà cũng là “chẳng phải
A”)
Đệ
tứ
cú : “Diệc phi A, diệc phi phi A”(“cũng không phải A” mà
“cũng không phải không là A”) .
Thường
thì “phi A” tức “B” nhưng trong mọi trường hợp, “A” và “phi
A” đều có sự bao hàm quan hệ lẫn nhaụ Đối với vấn đề
“có” và “không” mà nói thì tứ cú gồm có Hữu (có), Vô (không),
Diệc hữu diệc vô (cũng là có mà cũng là không), Phi hữu
phi vô (chẳng có mà cũng chẳng không) gọi là “Hữu -Vô tứ
cú” .
Trong
kinh luận thường thấy hình thức tứ cú pháp để giải thích
các loại nghĩa lý, như phẩm Vô sanh tứ cú ở quyển nhất
Trung luận chủ trương “Bất tự sanh, Bất tha sanh, Bất cộng
sanh, Bất vô nhân sanh”. Thiên Aùp ly tứ cú ở quyển 25 -Câu
Xá luận chủ trương”Aùp nhi phi ly, ly nhi phi áp, Diệc áp diệc
ly, Phi áp phi ly”. Thành Duy thức luận quyển nhất nêu “Nhất
dị tứ cú” của ngoại đạo như sau :”Nhất, Dị, Diệc nhất
diệc dị, phi nhất phi dị”. Quyển 3 Pháp Hoa văn cú mục Quyển
bảo tứ cú cho rằng “Quyền, Thật, Diệc quyền diệc thật,
phi quyền phi thật”. Ngoài ra đối với hữu và không, thường
và vô thường, mình và người, sạch và dơ, đều có thể
dùng phép Tứ cú để mà biện biệt .
Trong
Tứ cú thì Đệ nhất cú là đơn thuần khẳng định gọi
là “Đệ nhất đơn cú”. Đệ nhị cú là đơn thuần phủ định
gọi là “Đệ nhị đơn cú”. Đệ tam cú là phức hiệp khẳng
định gọi là “Đệ tam câu cú” hay “Song diệc cú”. Đệ tứ
cú là phức hiệp phủ định gọi là “Đệ tứ câu phi cú”
hay “Song phi cú”. Tuy nhiên chân lý của Phật giáo không dùng
phép Tứ cú đó để nắm bắt lý luận vì Phật giáo chủ
trương tất cả đều “Không”, chẳng có gì để “Đắc”; cho
nên quyển nhất sách Đại thừa huyền luận nói :”Lý chân
đế xa rời”Tứ cú”, “Bách phi”. “Bách phi”là đối với mọi
khái niệm “Hữu” “Vô” đều thêm chữ “Phi” để biểu thị
ý phủ định. Điêù này có nghĩa chân lý của Phật giáo
không cần, không nên lấy “Tứ cú” mà phân biệt, đồng thời
cũng vượt khỏi ý niệm phủ định của Bách phi” .
Xin
nói cho rõ thêm về Tứ cú -bách phị Tứ cú- bách phi là
dụng ngữ “Chân không vô tướng bất khả đắc” để phá
trừ tà kiến mê chấp đối đãi hữu -vô của chúng sinh .
Đây là khái niệm hay dụng ngữ mà Tam luận tông và Thiền
tông hay dùng để tiếp dẫn học nhân . Cái gọi là Tứ cú
thông thường chỉ “Hữu, vô, diệc hữu diệc vô, phi hữu
phi vô” hoặc chỉ “khẳng định, phủ định, bộ phận khẳng
định bộ phận phủ định, cả hai đều phủ định” để
phán đoán mọi luận nghị mà trong thiền lâm thường là chỉ
phép Tứ liệu giản của Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền :”Đoạt
nhân bất đoạt cảnh, đoạt cảnh bất đoạt nhân, nhân cảnh
cộng đoạt, nhân cảnh cộng bất đoạt”. Ngoài ra sách Duy
Ma kinh Huyền sớ cho rằng thuyết Tứ cú có hàng chục loại,
còn Bách Phi chỉ hàng trăm loại phủ định. Kinh Bắc Bổ
Đại Niết bàn, quyển 21 mới nói biết bao phủ định về
Niết bàn của Như Lai là phi hữu, phi vô, phi hữu vi, phi vô
vi, phi hữu lậu, phi vô lậu, cho đến phi quá khứ, phi vị
lai và cả phi hiện tạị Cho nên phải thấy rằng “Tứ
cú – bách phi” chỉ dựa cơ sở trên lập trường của phán
đoán và nghị luận mà thiết lập khái niệm giả danh, nhưng
tông chỉ chí cực của Phật giáo lại vượt cả lên trên
các khái niệm giả danh đó để mà đạt đến cảnh giới”ngôn
vong, lự tuyệt”. Cũng do đó mà thiền lâm mới lưu truyền
câu danh ngôn “Ly tứ cú, tuyệt bách phi“. Các công án
lừng danh liên quan đến “Ly tứ cú, tuyệt bách phi” của Thiền
tông truyền lưu đến ngày nay thật nhiều, và đó chính là
kim chỉ nam của kẻ tham thiền, biện đạo vậy .
Còn
“Tứ cú kệ” hoàn toàn khác với “Tứ cú” hay “Tứ cú pháp“,
bởi nó chỉ các thi kệ Phật giáo hình thành bằng bốn câu
thợ Kệ tụng do sách Phật ghi chép phần nhiều gồm bốn
câu, nhưng số chữ mỗi câu thì không nhất định. Tứ cú
kệ thường hàm chứa yếu nghĩa kinh luận Phật giáo, cho nên
trong kinh thường nói dùng Tứ cú kệ dạy người hoặc trì
thọ tứ cú kệ, đều được công đức rất lớn, như phẩm
Ứng hoá phi chân phân đệ tam thập nhị kinh Kim Cương viết
:”Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát Bồ tát
tâm giả, trì ư thử kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ
trì độc tụng vi nhân diễn thuyết, kỳ phước thắng bi”,
hoặc ở quyển hai kinh Đại thừa bổn sanh tâm điạ quán
viết :”Khuyên chư chúng sinh, cùng phát tâm này, lấy chân thật
pháp ở tứ cú kệ, pháp thí cho người khiến họ hướng
về Vô thượng chính đẳng Bồ đề, nên gọi là Chân thật
Ba la mật đa”. Như vậy, Tứ cú kệ không chỉ nhất thiết
một bài kệ nào mà chỉ chung kinh điển nào Phật giáo cũng
được, hay sâu hơn là hàm ý chỉ yếu lý Phật pháp .
(Nguyệt
san Giác Ngộ số 41 -8/1999)
Discussion about this post