PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Tìm Hiểu Kinh Mettâ-sutta – Bài Kinh Về Lòng Nhân Ái

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

TÌM HIỂU KINH
Mettâ-sutta

BÀI KINH VỀ LÒNG NHÂN ÁI

Hoang Phong

Bottathanh3 Mettâ-sutta
là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật
Giáo Nguyên Thủy
cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc
bằng tiếng Việt của bản kinh này là “Kinh
Từ Bi”
, thế nhưng chữ mettâ
trong tiếng Pa-li không có nghĩa là từ bi
mà chỉ có nghĩa là lòng tốt, lòng từ tâm, lòng thương yêu. Các bản dịch
sang các ngôn ngữ Tây phương thì mang tựa là: Discourse on Loving Kindness, Discourse on Good Will, Discourse on Friendliness,
Discours sur la Bonté, Discours sur la Bonté Bienveillante, Discours sur l’
Amour Bienveillant v.v…,
tóm lại tất cả đều có nghĩa là Bài thuyết giảng về Lòng Tốt, Lòng Thiện Cảm, Tình
Thương
Yêu
…

Do đó thiết nghĩ nếu dịch ra tiếng
Việt thì có lẽ bản kinh này nên mang tựa đề là “Kinh về Lòng Từ Ái“,
chữ từ trong tiếng Hán có nghĩa là thương và ái là yêu. Trong quyển Hán-Việt
Tự-Điển của Đào Duy Anh thì chữ từ ái
được định nghĩa là lòng thương yêu. Tuy
rằng hầu hết các quyển tự
điển khác, từ quyển Việt-Nam Tự Điển của hội Khai-Trí Tiến-Đức (1931) cho đến các
quyển tự điển mới gần đây đều có nêu lên và định nghĩa chữ từ ái, thế nhưng trên thực tế thì không mấy khi thấy chữ này được sử
dụng
và hình như đã biến thành
một từ “cũ” (?). Do đó thiết nghĩ cũng có thể thay chữ Từ Ái
bằng chữ Nhân Ái thông dụng hơn, để gọi kinh Mettâ Sutta là “Kinh
về Lòng Nhân Ái
“
, và dù sao thì cách dịch này cũng có phần sát nghĩa
hơn so với tên gọi quen thuộc trước đây là “Kinh Từ Bi“. Đôi khi kinh Mettâ Sutta lại còn được gọi là kinh Karaniya Mettâ Sutta, tức có nghĩa là
kinh “Hãy thực thi lòng Nhân Ái” (tiếng Pa-li karaniyam có nghĩa là hãy nên thực thi). Bản kinh này được tìm
thấy
trong Tập Bộ Kinh (Suttanipata – Sn 1.8), thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddakapatha – Khp 9). [Cũng xin minh chứng là người viết các dòng
này không biết tiếng Pa-li, và chỉ dựa vào các bản dịch song ngữ có sẵn và tra
cứu
tự điển].

Kinh Mettâ Sutta gồm có rất nhiều bản dịch khác nhau bằng nhiều ngôn ngữ
khác nhau, từ các ngôn ngữ Tây Phương đến các ngôn ngữ Á Châu. Riêng đối với tiếng
Việt thì cũng có khá nhiều bản dịch của nhiều dịch giả khác nhau. Vì thế bài viết
này không hề có ý định đề nghị thêm một bản dịch mới, vì tất nhiên đấy là một
việc hoàn toàn dư thừa, mà chỉ đơn giản đưa ra một bản chuyển ngữ gần nhất với
bản gốc bằng tiếng Pa-li.

Bản
Kinh về lòng Nhân Ái gồm có 10 tiết,
mỗi tiết gồm có 4 câu. Dưới đây là phiên bản gốc bằng tiếng Pa-li viết theo ngữ
tự La-tinh, phần chuyển ngữ sang tiếng Việt được trình bày song hành kèm theo từng
tiết một của bản kinh. Phần chuyển ngữ này được dựa vào một số bản dịch từ tiếng
Pa-li sang tiếng Anh của các nhà sư học giả lỗi lạc người Tích Lan như: Thanissaro
Bhikkhu, Ñanamoli
Thera, Piyadassi Thera, Ānandajoti Bhikkhu, v.v… :

KINH VỀ LÒNG NHÂN ÁI
Mettâ-sutta

I

Karaṇīyam-attha-kusalena
yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca,
Sakko ujū ca suhujū ca
suvaco
cassa mudu anatimānī,
1- Ai hằng thực hiện được những điều tốt
lành
,
2- Và mưu cầu đạt được thể dạng an bình
thì phải hành động như sau:
3- Phải cố gắng, ngay thật và hoàn toàn
liêm khiết,
4- Tuân thủ, hòa nhã và nhún nhường.

II

Santussako
ca subharo ca
appakicco
ca sallahuka-vutti,
Santindriyo
ca nipako ca
appagabbho
kulesu ananugiddho.
5- An phận, không tạo ra gánh nặng cho
người khác,
6- Từ bỏ các mối lo toan thế tục, chọn một
nếp sống đơn sơ,
7- Chủ động được xúc cảm, thận trọng, không
xấc xược,
8- Không tranh dành với các người quyến
thuộc
trong gia đình.

III

Na ca
khuddaṃ samācare kiñci
yena
viññū pare upavadeyyuṃ.
Sukhino
vā khemino hontu
sabbe
sattā bhavantu sukhitattā.
9- Không phạm vào một sai lầm nhỏ nhoi nào,
10- Khiến các vị hiền nhân có thể chê trách.
11- Ước nguyện tất cả chúng sinh được hạnh
phúc
và an lành,
12- Và trong thâm tâm họ, niềm hân hoan
luôn hiển hiện.

IV

Ye keci
pāṇa-bhūtatthi
tasā vā
thāvarā vā anavasesā,
Dīghā vā
ye mahantā vā
majjhimā
rassakā aṇuka-thūlā,
13- Nguyện cầu cho tất cả chúng sinh có
giác cảm,
14- Dù yếu đuối hay khoẻ mạnh,
15- Khẳng khiu, béo phì hay trung bình,
16- Thấp lùn, nhỏ bé hay gọn gàng.

V

Diṭṭhā vā
ye ca adiṭṭhā
ye ca
dūre vasanti avidūre,
Bhūtā vā
sambhavesī vā
sabbe
sattā bhavantu sukhitattā.
17- Các chúng sinh nhìn thấy hay không
nhìn thấy,
18- Đang ở bên cạnh hay trong những nơi xa
xôi,
19- Đang hiện hữu hay mong muốn sẽ được sinh
ra,
20- Không gạt bỏ một chúng sinh nào, tất
cả đều tìm thấy an vui.

VI

Na paro
paraṃ nikubbetha
nātimaññetha
katthaci naṃ kiñci,
Byārosanā
paṭīgha-saññā
nāññam-aññassa
dukkham-iccheyya.
21- Cầu xin tất cả mọi người đừng lường
gạt lẫn nhau,
22- Dù ở tận chốn nào, cũng không khinh miệt
lẫn nhau,
23- Dù oán giận hay hận thù,
24- Cũng không làm hại nhau.

VII

Mātā
yathā niyaṃ puttaṃ
āyusā
eka-puttam-anurakkhe,
Evam-pi
sabba-bhūtesu
māna-sambhāvaye
aparimāṇaṃ.
25- Tương tự như người mẹ che chở cho đứa
con duy nhất,
26- Dù phải hy sinh cả tánh mạng mình,
27- Thế nhưng luôn phải hướng vào tất cả
chúng sinh,
28- Với tâm từ vô hạn.

VIII

Mettañca
sabba-lokasmiṃ
māna-sambhāvaye
aparimāṇaṃ,
Uddhaṃ
adho ca tiriyañca
asambādhaṃ
averaṃ asapattaṃ.
29- Hãy trải rộng tình thương vô biên trong
khắp thế gian này,
30- Từ trên cao, dưới thấp và trong khắp
mọi hướng,
31- Không có gì cản ngăn,
32- Không mảy may căm ghét, chẳng một
chút hận thù.

IX

Tiṭṭhañ’caraṃ
nisinno vā
sayāno vā
yāvatassa vigatam-iddho,
Etaṃ satiṃ
adhiṭṭheyya
brahmam-etaṃ
vihāraṃ idham-āhu.
33- Dù đang đứng, đang đi, đang ngồi,
34- Hay đang nằm, trong những lúc tỉnh
táo
,
35- Luôn phát động một tâm linh tỉnh thức.
36- Đấy là cách sống cao quý nhất trong
thế gian này.
X
Diṭṭhiñca
anupagamma
sīlavā
dassanena sampanno,
Kāmesu
vineyya gedhaṃ,
Na hi
jātu gabbha-seyyaṃ punaretīti.
37- Không rơi vào các quan điểm,
38- Hướng vào đạo đức và phát huy sự
quán
thấy,
39- Không bám víu vào những thèm khát giác
cảm,
40- Người ấy sẽ không bao giờ còn quay lại
để nằm trong một tử cung nào nữa.
Etena
sacca vajjena – Sotthi me hotu sabbadā
Etena
sacca vajjena – Sabba rogo vinasatu
Etena
sacca vajjena – Hotu me jaya mangalaṃ
Vững tin vào sự
thực đó – tôi cầu xin được mãi mãi tìm thấy an vui !
Vững tin vào sự
thực đó – tôi cầu xin tránh khỏi mọi ốm đau !
Vững tin vào sự
thực đó – tôi cầu xin đạt được sự an bình !

Bối cảnh của bài
kinh


Sau đây
là tóm lược bối cảnh đưa đến sự hình thành của bài kinh trên đây:

Có một lần Đức Phật đang ngụ tại thành Xá Vệ
(Savatthi) thì có một toán tỳ kheo từ nơi xa đến đây tìm Ngài để được nghe
giảng về các phép thiền định. Sau đó thì họ tìm đến một khu rừng gần đấy để an
cư
trong mùa mưa (vassana). Thế nhưng các vị thần linh ngụ tại các gốc cổ thụ
trong rừng rất đỗi lo ngại vì đám người tỳ kheo có thể quấy rối và làm mất đi
cảnh thâm u nơi khu rừng của họ. Các vị thần linh liền hiện ra và tỏ vẻ không bằng
lòng và mong rằng toán người tỳ kheo sẽ sớm rời khỏi nơi này. Thế nhưng họ lại cứ
tiếp tục lưu lại vì thời gian kiết hạ kéo dài đến ba tháng. Vì thế cứ đêm đêm
các vị thần linh lại hiện ra để quấy phá và dọa nạt họ.

Các vị tỳ kheo không thể an tâm mà
thiền định trong quang cảnh đầy sợ hãi ấy, họ đành phải tìm đến Đức Phật để bày
tỏ sự lo âu của mình. Đức Phật liền giảng cho họ bài Kinh về lòng Nhân Ái và khuyên họ hãy cứ quay về nơi khu rừng trước
đây và dùng bài kinh này để tự che chở cho mình.

Các
vị tỳ kheo quay trở lại nơi trú ngụ trước đây và đem bài kinh ra tụng niệm. Khi
họ tụng niệm thì một bầu không khí êm ả, tràn ngập yêu thương và lòng nhân từ vụt
tỏa rộng trong khắp khu rừng âm u. Các vị thần linh đều bị chấn động bởi sức
mạnh
vô biên của tình nhân ái phát động trong lòng các vị tỳ kheo. Thế rồi các
vị thần linh cũng cảm thấy thiện cảm đối với những người tu hành và đã để yên
cho họ thiền định trong quang cảnh êm ả của khu rừng.

 

Ghi Chú

Trên phương diện hình thức
thì bài kinh được trình bày dưới thể dạng một bài thơ, tức một loại thi kệ (tiếng
Phạn gọi là gatha), dùng để trì tụng
hơn là để trình bày một triết lý thâm sâu hay một khái niệm giáo lý trong Đạo
Pháp
. Nếu chú ý người ta cũng sẽ nhận thấy là bài kinh không bắt đầu bằng một
câu rất công thức là “Evam m’a
sutam”
, có nghĩa là “Tôi đã
từng được nghe như thế này”
, đấy là cách xác định bài kinh là những
lời giảng đích thật của Đức Phật. Trong phần cuối của bài kinh cũng không thấy
nói đến tác động mang lại cho các vị tỳ kheo và các người được nghe giảng,
giống như trong các bài kinh khác.

Về phần nội dung thì có
hai khía cạnh thật chính yếu cần nêu lên: khía cạnh thứ nhất là tính cách thực
tiễn
và thực dụng của bài kinh nhằm giúp các vị tỳ kheo hóa giải mọi sự sợ hãi
của mình, khía cạnh thứ hai là một sự “kết hợp” hay “chuyển tiếp”
thật đẹp và hài hòa giữa căn bản giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo
Đại thừa, tức là giữa sự giải thoát cá nhân và lòng từ bi hướng vào tất cả chúng
sinh
.

Vào khoảng thời gian còn
tu khổ hạnh trong khu rừng Ưu-lâu Tần-loa cùng với năm anh em Kiều Trần Như, vị
bồ-tát Tất-đạt-đa cũng đã từng ngồi thiền trong đêm vắng, và trong những lúc ấy
vị tu hành trẻ tuổi cũng khó tránh khỏi những lúc sợ hãi: “Phải tu tập trong đêm
khuya và giữa cảnh vật như thế này thì thật là ái ngại, nhất là khi có một con
thú vụt chạy ngang hay một con công làm gẫy một cành cây, hoặc trong những lúc
gió rít qua cành lá. Trong bối cảnh như thế thì thật là dễ sinh ra sự hốt hoảng
và khiếp sợ”
(Trung A Hàm, 4).

Trong
đêm khuya giữa mùa mưa bão, các vị tỳ kheo ngồi trong các túp lều dựng lên bằng
cành lá cây rừng, rải rác trong quang cảnh âm u của khu rừng thì tránh sao khỏi
sự khiếp sợ. Sự khiếp sợ đó có thể đã phát sinh trong đầu của các vị tỳ kheo và
Đức Phật đã ban cho họ một liều thuốc hóa giải là bài Kinh về lòng Nhân Ái. Trong liều thuốc đó nhân tố hiệu lực làm tan
biến sự sợ hãi chính là tình Yêu Thương.
Trong cuộc sống thường nhật của chúng ta cũng thế, nếu chúng ta ngờ vực những
người xa lạ, dò xét và canh chừng những người không giống chúng ta, thì sự sợ hãi
và nghi ngờ rất dễ phát sinh. Mở rộng tình thương và lòng trìu mến đến tất cả mọi
người
chung quanh chính là viên thuốc mầu nhiệm nhất làm tan biến mọi nỗi khiếp
sợ và lo âu trong tâm thức của chính mình.

Thật
thế, sự hung dữ, ích kỷ và nghi kỵ biết đâu là những gì ẩn nấp một cách thật sâu
kín trong tâm thức của mỗi người, và chúng chỉ hiện lên trong đêm tối để dọa nạt
khiến chúng ta phải khiếp sợ. Tiếng hát của yêu thương trong lòng của các vị tỳ
kheo
vang lên qua những lời tụng niệm đã mang lại cho khu rừng trong mùa mưa kiết
hạ
một bầu không khí thật ấm áp, an bình và tràn ngập yêu thương. Chính tiếng hát
đó đã làm tan biến những sợ hãi đang ẩn nấp trong những góc kẹt nơi tận cùng của
tâm thức họ. Mầu nhiệm thay một liều thuốc của Yêu Thương.

Khía
cạnh thứ hai của bài kinh phản ảnh một sự kết nối thật đẹp giữa phép tu tập của
Phật Giáo Nguyên Thủy giúp mỗi người trong chúng ta tìm thấy con đường Giải Thoát,
và lý tưởng của Đại Thừa chủ trương trải rộng lòng Từ Bi vô biên đến tất cả chúng
sinh
. Câu 1 đến câu 10 của bài kinh nêu lên các nguyên tắc căn bản trong giáo lý
của Phật giáo Nguyên Thủy, phản ảnh phần nào Bát Chánh Đạo, nhằm giúp cho một
cá thể hướng về sự Giác Ngộ. Các câu 11 đến 32 thì nêu lên tình yêu thương hướng
vào tất cả chúng sinh, phản ảnh lý tưởng Từ Bi của Đại Thừa. Trong phần kết luận
từ câu 33 đến câu 40 thì lại nhắc trở lại căn bản giáo lý của Phật Giáo Nguyên
Thủy
liên quan đến sự quán thấy và loại trừ dục vọng và mọi thèm khát giác cảm hầu
giúp cho người tu tập vượt thoát khỏi cảnh giới của luân hồi.

Trên
đây là vài nét tổng quát về nội dung của bài kinh, và trong phần dưới đây thì một
vài ghi chú liên quan đến ý nghĩa của vài chữ hay vài đoạn sẽ được nêu lên
trong mục đích giúp chúng ta tìm hiểu bài kinh một cách chính xác hơn. Đồng thời
một vài chi tiết khác biệt giữa các bản dịch cũng sẽ được nêu lên để cho thấy là
việc dịch thuật cũng như quá trình lưu giữ và quảng bá kinh sách đôi khi cũng khó
tránh khỏi một vài sai lạc thứ yếu.

– Các câu 1 và 2:

1-
Ai hằng thực hiện được những điều tốt
lành
,
2-
Và mưu cầu đạt được thể dạng an bình thì phải hành động như sau:

Người ta thấy trong một số
bản dịch bên cạnh chữ an bình còn có
ghi thêm chữ Niết-bàn trong hai dấu
ngoặc nhằm để giải thích cho chữ an bình. Cách giải thích thêm này e rằng không
được đúng lắm, vì một người mới “thực hiện được những điều tốt lành”
và chỉ biết giữ giới để mang lại cho mình một thể dạng an vui chắc hẳn cũng chưa
hội đủ khả năng để ý thức được được Niết-bàn là gì.

– Các câu 13 đến 20:

13- Nguyện cầu cho tất
cả chúng sinh có giác cảm,
14- Dù yếu đuối hay khoẻ
mạnh,
15- Khẳng khiu,
béo phì hay trung bình,
16- Thấp
lùn, nhỏ bé hay gọn gàng.

Ý của các câu này là nêu
lên các chúng sinh mang nhân dạng con người, dù họ mang hình tướng bên ngoài như
thế nào, thí dụ như khẳng khiu, béo phì,
nhỏ bé hay thấp lùn
…, thì cũng không nên vin vào đấy để phân biệt và đánh
giá
họ, thế nhưng nhiều dịch giả lại xem đấy là các thứ loại chúng sinh khác
nhau. Có lẽ cách trình bày trong nguyên bản bằng tiếng Pa-li là “các chúng sinh dài hay to lớn, ngắn
hay trung bình, nhỏ bé hay gọn gàng”
không được rõ ràng lắm để chỉ
định
đấy là những nhân dạng. Sự suy đoán này được căn cứ vào bốn câu trong tiết tiếp
theo
sau, vì trong tiết này bản kinh mới đề cập đến các chúng sinh khác hơn với
con người:

17- Các chúng sinh nhìn thấy hay không nhìn thấy,
18- Đang ở bên cạnh hay
trong những nơi xa xôi,
19- Đã sinh
ra hay mong muốn sẽ được sinh ra,
20- Không gạt bỏ một
chúng sinh nào, tất cả đều tìm thấy an vui.

Đối với bốn câu này cũng có
một số dịch giả hiểu sai các chữ “các
chúng sinh nhìn thấy
và không nhìn
thấy”
và dịch là “các chúng
sinh
thuộc cõi sắc giới và vô sắc giới”
. Thật ra thì rất có thể bài kinh
chỉ muốn nêu lên một số các chúng sinh mà chúng ta có thể nhìn thấy được chung
quanh và một số khác thì vì quá nhỏ bé hoặc sống trong các môi trường mà chúng
ta
không nhìn thấy được, chẳng hạn như các sinh vật sống trong đáy nước, dưới các
lớp đất sâu, v.v… Sau đó thì câu 18 còn nhắc thêm chúng ta không được quên các
sinh vật ở những nơi xa xôi, chẳng hạn như các sinh vật sống trong rừng sâu, nơi
sa mạc và có thể cả bên ngoài vũ trụ…

Câu 19 nêu lên các chúng
sinh
“đã được sinh ra” và còn
nhắc đến cả “các chúng sinh mong
muốn sẽ còn được hình thành”,
có nghĩa là còn mang nhiều tham dục và bám
víu
và ước mong sẽ còn quay lại với chúng ta trong thế giới luân hồi. Ngoại trừ
một số bản dịch của các nhà sư Tích Lan trình bày đúng với ý nghĩa trong nguyên
bản, còn lại thì hầu hết các dịch giả khác đều dịch là “các chúng sinh đã và sẽ được sinh ra”, cách dịch này không
nói lên được ý nghĩa thật tế nhị trong nguyên bản là mong được tái sinh (sambhavesī
= those who seek birth).

– Câu 37:

37-
Không rơi vào các quan điểm,

Nhiều dịch giả thêm vào bên
cạnh chữ quan điểm tĩnh từ sai lầm đặt trong ngoặc kép, hoặc dịch
thẳng chữ quan điểm (diṭṭhiñ = views) là tà kiến, mê lầm, lầm lạc, v.v… Theo giáo lý Phật Giáo thì
tất cả các quan điểm đều mang bản chất sai lầm, vì đã là quan điểm thì tất nhiên
mang tính cách công thức, nhị nguyên và quy ước. Hiện thực tượng trưng bởi con
đường Trung Đạo
vượt lên trên tất cả mọi quan điểm. Đấy chính là chỗ cao siêu và
tinh tế trong câu kinh, không cần phải giải thích thêm hay ghép thêm một từ nào
khác để chỉ định tính cách sai lầm của
các quan điểm.

– Câu 40:

40- Người ấy sẽ không bao giờ còn quay lại để nằm
trong một tử cung nào nữa.

Ngoại trừ một số các bản dịch
sang tiếng Anh của các nhà sư học giả người Tích Lan ra thì hình như không thấy
có bất cứ một bản dịch nào bằng bất cứ ngôn ngữ nào giữ câu “không nằm trở lại trong một tử cung nào nữa” (gabbha
seyyaṁ puna-r-etī
) đúng với bản kinh gốc, mà đều dịch trại ra là “không còn quay lại thế giới này”.
Tuy rằng ý nghĩa của hai câu phát biểu có phần tương tự nhau, thế nhưng cách diễn
đạt
“không nằm trở lại trong một tử
cung
nào nữa”
mang nhiều ý nghĩa và tinh tế hơn, tức không quay trở lại
cõi dục giới và sắc giới (nhưng cũng có thể quay trở lại cõi vô sắc giới, vì chúng
sinh
vô hình tướng trong cõi vô sắc giới không sinh ra nhờ vào một tử cung). Hơn
nữa cách diễn đạt trên đây tuy có hơi “quá mạnh” thế nhưng cũng có thể
gây ra nhiều tác động hơn đối với người đọc so với cách phỏng dịch.

– 3 câu cuối:

Một vài bản kinh hiếm hoi có
thêm ba câu mang hình thức những lời nguyện cầu như dưới đây:

Vững tin vào sự thực đó – tôi cầu xin được mãi mãi tìm thấy an vui !
Vững tin vào sự thực đó – tôi cầu xin tránh khỏi mọi ốm đau !
Vững tin vào sự thực đó – tôi cầu xin đạt được sự an bình !

Rất có thể đấy là những câu
được thêm vào, không thuộc vào bản kinh gốc.

Tóm lại trên phương diện dịch
thuật cần phải thận trọng, nhất là dịch kinh sách. Một câu không chính xác hay
một chữ không sát nghĩa cũng có thể mang lại sự hoang mang cho người đọc. Ngay
trong bối cảnh của hiện tại, thế mà một bài kinh thật ngắn như bài kinh Mettâ Sutta cũng đã được dịch ra không biết
bao nhiêu phiên bản mang ít nhiều khác biệt. Nếu nhìn lại quá khứ qua hàng nhiều
trăm năm truyền khẩu trước khi các bài kinh được ghi chép bằng chữ viết thì biết
đâu sự sai biệt còn có thể nặng nề hơn nhiều. Các lần kết tập Đạo Pháp trong quá
khứ
là các dịp để người xưa kiểm soát lại kinh điển, loại bỏ những thêm thắt đi
trệch ra ngoài giáo lý, thí dụ lần kết tập do vua A-dục tổ chức vào thế kỷ thứ
III trước Tây lịch là một trong những lần kết tập quan trọng nhất nhằm vào chủ đích
trên đây.

Tóm lại người xưa đã lưu lại
cho chúng ta những lời thuyết giảng vô cùng uyên bác và thâm sâu của Đức Phật,
chúng ta nên cố gắng và thận trọng khi đem ra để cùng nhau nghiên cứu và học tập,
hầu bảo tồn và chia sẻ một cách trung thực với các thế hệ sau cái gia tài vô giá
đó của nhân loại.

Phần đọc thêm

Người
đọc có thể đánh các chữ Mettâ Sutta
hay Karaniya Mettâ Sutta vào bất cứ
trang tìm kiếm nào trên mạng Internet thì đều có thể tìm thấy hàng chục bản dịch
của kinh này của nhiều dịch giả khác nhau và bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Riêng đối với các bản Việt dịch thì có thể sử dụng các chữ Kinh Từ Bi làm “chìa khóa” dò tìm, hoặc cũng có thể gõ thẳng
các chữ này vào khung tìm kiếm của trang web thuvienhoasen.org
thì sẽ tìm được một số các bản Việt dịch đã được chọn lọc.

Ngoài
ra
cũng xin trích ra trong phần phụ lục dưới đây một bản chuyển ngữ song hành toàn
bộ
bài kinh từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh do nhà sư Tích Lan Ānandajoti Bhikkhu
thực hiện, hầu giúp những ai muốn phân tích kỹ lưỡng hơn về bài kinh này.

Karaniya Mettâ Sutta
(Edited & Translated by Ānandajoti Bhikkhu)
(http://www.ancient-buddhist-texts.net/Texts-and-Translations/Short-Pieces/Mettasuttam.htm)

 

Karaṇīyam-atthakusalena yan-taṁ santaṁ padaṁ abhisamecca
What should be done by one skilful in
good, who has comprehended the state of peace:

Karaṇīyam : what
should be done (những gì cần nên làm)
attha (= atthe) : in
good (một cách hoàn hảo, đúng đắn)
kusalena : by
one skilful (bởi một người khôn ngoan, khéo léo)
yan-taṁ : (the
one) who (người ấy)
santaṁ : of
peace (an bình)
padaṁ : the
state (thể dạng)
abhisamecca : has
comprehended (đã hiểu được, đã ý thức được)


sakko ujū ca sūjū ca suvaco c’ assa mudu anatimānī
he ought to be able, straight, and
upright, easy to speak to, meek, without conceit,

sakko : able
(có thể)
ujū : straight
(thẳng thắn, chân thật)
ca : and
(và)
sūjū : upright
(chính trực, liêm khiết)
ca : and (và)
suvaco
: easy
to speak to (dễ bảo, tuân thủ)
c’ (= ca) : and
(và)
assa : he
ought to be (hắn phải)
mudu : meek
(nhu mì, hiền lành)
anatimānī : without
conceit (không tự phụ, tự kiêu, ngạo mạn)


santussako ca subharo ca appa-kicco ca sallahuka-vutti
satisfied (with little), easy to support,
with few duties, and light in living,

santussako : satisfied (hài
lòng
, vừa lòng)
ca : and
(và)
subharo : easy
to support (không đòi hỏi, “dễ nuôi”)
ca and
(và)
appa- : few
(ít)
kicco : duties
(sự lo toan, các mối bận tâm)
ca and
sallahuka- (= sa+lahuka) : (with)
light (đơn sơ, thanh nhàn)
vutti : living
(nếp sống, cuộc sống)


sant’ indriyo ca nipako ca appagabbho kulesu ananugiddho
with faculties at peace, prudent, not
forward, and greedless among the families,

sant’ (= santa) : peace (bình
tâm, chủ động)
indriyo : faculties (khả
năng, đức tính)
ca : and (và)
nipako : prudent (thận
trọng
)
ca and (và)
appagabbho (= a+pagabbho) : not
forward (không xấc xược, trân tráo, trơ trẻn)
kulesu : among
the families (trong gia đình quyến thuộc)
ananugiddho (= an+anugiddho) : greedless
(không đòi hỏi quá đáng, tham lam quá độ)


na ca khuddaṁ samācare kiñci yena viññū pare upavadeyyuṁ
he should not do the slightest thing
whereby others who are wise might find fault (with him).

na : not
(không)
ca : (connective
particle) (liên từ)
khuddaṁ : slightest
(nhỏ nhất, nhẹ nhất)
samācare : he
should do (hắn cần phải làm, cần phải thực hiện)
kiñci thing
(việc)
yena : whereby
(theo đó, dựa vào đó)
viññū : wise
(lịch duyệt, uyên bác)
pare others
(các người khác)
upavadeyyuṁ : might
find fault (có thể khiển trách)


“Sukhino vā khemino hontu sabbe sattā bhavantu sukhitattā
“(May all beings) be happy and
secure, may all beings in their hearts be happy!

Sukhino : happy
(hạnh phúc, an vui)
vā (= va) : (emphatic)
(chữ dùng để nhấn mạnh, tỏ sự cương quyết)
khemino : secure
(an lành, được che chở)
hontu : be
(được)
sabbe : all
(tất cả)
sattā : beings
(chúng sinh)
bhavantu : may
(they) be (cầu xin cho tất cả được)
sukhitattā (= sukhita+attā) happy
in heart (hân hoan trong lòng)

Ye keci pāṇa-bhūt’ atthi tasā vā thāvarā vā anavasesā
Whatsoever breathing beings there are –
trembling, firm, or any other (beings),

Ye keci : Whatsoever
(dù là)
pāṇa- : breathing
(thở, linh hoạt, đang sống)
bhūt’ (= bhūtā) : beings
(chúng sinh)
atthi : there
are (là, thì…)
tasā : trembling
(run rẩy, yếu đuối)
vā : or
(hay là)
thāvarā : firm
(cứng cáp, khoẻ mạnh)
vā : or
(hay là)
anavasesā : any
other (lit.: what remains) (tất cả số [chúng sinh] còn
lại)


dīghā vā ye mahantā vā majjhimā rassakāṇuka-thūlā
whether they be long or great, of middle
size, short, tiny, or of compact (body),

dīghā : long
(dài, khẳng khiu)
vā or
(hay là)
ye : they
(who) (họ là, thì)
mahantā : great
(to lớn, béo phì)
vā or
(hay là, họ thì)
majjhimā : middle (size) (vừa phải, trung bình)
rassak(a)- : short
(ngắn, thấp lùn)
(a)ṇuka : tiny
(tí tẹo, bé nhỏ)
thūlā : compact
(body) (gọn gàng)

diṭṭhā vā ye ca addiṭṭhā ye ca dūre vasanti avidūre
those who are seen, and those who are
unseen, those who live far away, those who are near,

diṭṭhā : seen
(trông thấy được)
vā : or
(hay là)
ye : those
who (họ là, họ thì)
ca : and
(và)
addiṭṭhā (= a+diṭṭhā) unseen
(không nhìn thấy được)
ye : those
who (họ là, họ thì)
ca : and
(và)
dūre far
(away) (ở xa, cách xa)
vasanti live
(sống)
avidūre near
(gần, bên cạnh)


bhūtā vā sambhavesī vā sabbe sattā bhavantu sukhitattā
those who are born, and those who still
seek birth – may all beings in their hearts be happy!”

bhūtā : those
who are born ([chúng sinh]đã được sinh ra, đang
hiện hữu)
vā : or
(hay là)
sambhavesī : those
who seek birth (những ai mong muốn sẽ được sinh ra)
vā : or
(hay là)
sabbe : all
(tất cả)
sattā beings
(chúng sinh)
bhavantu may
(they) be (cầu xin cho tất cả được)
sukhitattā (= sukhita+attā) : happy in heart (hân hoan trong lòng)


Na paro paraṁ nikubbetha nātimaññetha katthaci naṁ kañci
No one should cheat another, nor should
he despise anyone wherever they be,

Na : no
(không)
paro : one (lit.: other) (người này)
paraṁ another
(người kia)
nikubbetha should
cheat (lường gạt)
nātimaññetha (= na+atimaññetha) : nor
should he despise (cũng không khinh miệt)
katthaci : wherever
(dù sao, dù như thế nào)
naṁ kañci : anyone
(bất cứ ai)


byārosanā paṭigha-saññā nāññam-aññassa dukkham-iccheyya
he should not long for suffering for
another because of anger or resentment.

byārosanā : because
of anger (vì giận dữ)
paṭigha-saññā because
of (an idea of) resentment (vì oán hờn)
n(a) : not
(không)
(a)ññam-aññassa for
another (cho người khác)
dukkham suffering
(khổ đau)
iccheyya : he
should long (không nên, không được làm cho)


Mātā yathā niyaṁ puttaṁ āyusā eka-puttam anurakkhe
in the same way as a mother would protect
her child, her only child, with her life,

Mātā : a
mother (một người mẹ)
yathā in
the same way as (cũng thế)
niyaṁ her
(lit.: one’s own) (của bà ấy)
puttaṁ son
(đứa con trai)
āyusā : life
(mạng sống, tính mạng)
eka- : only
(lit.: one) (duy nhất, độc nhất)
puttam child
(đứa con)
anurakkhe would
protect (phải bảo vệ, che chở)


evam-pi sabba-bhūtesu mānasaṁ bhāvaye aparimāṇaṁ
so toward all beings he should develop
the measureless thought (of friendliness).

evam : so (vậy,
như vậy)
pi : (emphatic)
(từ dùng để nhấn mạnh một hành động)
sabba- : all
(tất cả)
bhūtesu toward
beings (đối với chúng sinh)
mānasaṁ : thought
(tâm, tâm [từ])
bhāvaye he
should develop (hắn phải phát huy, phát động)
aparimāṇaṁ measureless
(vô biên)


Mettañ-ca sabba-lokasmiṁ mānasaṁ bhāvaye aparimāṇaṁ
Towards the whole wide world he should
develop the measureless thought of friendliness,

Mettañ : friendliness
(lòng thân thiện, thiện cảm)
ca (connective
particle) (liên từ)
sabba- whole
(toàn thể, toàn diện)
lokasmiṁ : towards
the world (đối với thế giới này)
mānasaṁ thought
(tâm, tâm [từ])
bhāvaye he
should develop (hắn phải phát động, phát huy)
aparimāṇaṁ : measureless
(vô biên)

 

uddhaṁ adho ca tiriyañ-ca asambādhaṁ averaṁ asapattaṁ
above, below, and across (the middle),
without barriers, hate, or enemy.

uddhaṁ : above
(bên trên)
adho : below
(bên dưới)
ca and
(và)
tiriyañ across
(xuyên ngang, khắp hướng)
ca and
(và)
asambādhaṁ (= a+sambādhaṁ) : without
barriers (không có gì cản ngăn)
averaṁ (= a+veraṁ) : hate
(thù ghét)
asapattaṁ (= a+sapattaṁ) without
enemy (không kẻ thù)


Tiṭṭhaṁ caraṁ nisinno vā sayāno vā yāvat’ assa vigatamiddho
Standing, walking, sitting, lying, for as
long as he is without torpor,

Tiṭṭhaṁ : Standing
(đang đứng)
caraṁ : walking
(đang đi)
nisinno sitting
(đang ngồi)
vā (or)
(hay là)
sayāno : lying
(đang nằm)
vā (or)
(hay là)
yāvat’ (= yāvatā) for
as long as (miễn là, chừng nào, bất cứ lúc nào)
assa he
is (hắn còn)
vigata without
(không)
middho : torpor
(hôn mê, hốt hoảng, mất sự tỉnh táo)


etaṁ satiṁ adiṭṭheyya brahmam-etaṁ vihāraṁ idha-m-āhu
he should be resolved on this
mindfulness, for this, they say here, is the (true) spiritual life.

etaṁ : this
(điều ấy, việc ấy)
satiṁ : mindfulness
(tâm linh tỉnh thức)
adiṭṭheyya should
be resolved on (nên thực hiện, phải thực hiện)
brahmam : spiritual
(tâm linh, tinh thần)
etaṁ this
(đấy, điều ấy)
vihāraṁ : life
(nếp sống, cách sống)
idha : here
(nơi này)
m : (euphonic
particle) (từ tạo ra âm hưởng êm tai, không có
nghĩa)
āhu : they
say (người ta nói thế)


diṭṭhiñ-ca anupagamma sīlavā dassanena sampanno
without going near to (wrong) views,
virtuous, and endowed with (true) insight,

diṭṭhiñ : views (quan điểm)
ca : (and)
(và)
anupagamma (= an + upagamma) : without
going near (không bám vào)
sīlavā : virtuous
(đạo đức)
dassanena : insight
(sự quán thấy sâu sắc)
sampanno : endowed
(mang lại, tạo ra)


kāmesu vineyya gedhaṁ na hi jātu gabbha seyyaṁ puna-r-etī ti
having removed (all) greed for sense
pleasures, he will never come to lie in a womb again.

kāmesu : for
sense pleasures (lạc thú giác cảm)
vineyya : having
removed (loại bỏ được)
gedhaṁ : greed
(ham muốn, đòi hỏi)
na : not
(không)
hi : emphatic
(từ dùng để nhấn mạnh)
jātu : emphatic
(từ dùng để nhấn mạnh)
gabbha : womb
(tử cung)
seyyaṁ lie
(nằm vào)
puna : again
(thêm nữa)
r (euphonic
particle) (liên từ)
eti will
come (sẽ, sẽ trở thành)
ti (quotation
marker) (từ chỉ định một sự trích dẫn)

Bures-Sur-Yvette, 05.11.11
Hoang Phong

ĐỌC THÊM CÁC BẢN DỊCH KHÁC:

● KINH TỪ BI (METTA SUTTA) – Ni sư Ayya Khema – Diệu Liên Lý
Thu Linh chuyển ngữ

● KINH TỪ BI (METTA SUTTA) – Phạm Kim Khánh dịch

● KINH TỪ BI (METTA SUTTA) – Thích Nhất Hạnh dịch

● KINH TỪ BI (METTA SUTTA) Thích Thiện Châu dịch

● KINH TỪ BI (METTA SUTTA) Vietnamese and English text

● CA KHÚC TỪ BI The Chant of Metta Text Nhạc sĩ: Imee Ooi
Nguyên Giác, Imee Ooi

●
THE METTA SUTTA (Discourse on loving-kindness)

 

Theo ngài Narada
Thera trong quyển Đức Phật và Phật Pháp,
bản Việt dịch của Phạm Kim Khánh thì
” Mettã, dịch là “Tâm Từ”,
và Mettã Sutta dịch là “Kinh Từ Bi”. “Mettã
là cái gì làm cho lòng ta êm dịu,
là tâm trạng của một người bạn
tốt, là lòng ước mong chân thành
cho tất cả chúng sinh đều được
sống an lành vui vẻ.”

“So sánh tâm
Từ
với tình mẫu tử trong kinh Từ
Bi
, Đức Phật không đề cập đến
lòng trìu mến thương yêu (passionate
love) ít nhiều vị kỷ của người
mẹ. Đức Phật chỉ nhằm vào sự
mong mỏi chân thành của bà mẹ hiền
muốn cho đứa con duy nhất của mình được
sống an lành. Trìu mến thương yêu
đem lại phiền não. Tâm từ chỉ
tạo an lành hạnh phúc. “Đây là
một điểm tế nhị mà ta không nên
hiểu lầm. Cha mẹ thương yêu, trìu
mến
con, con thương yêu cha mẹ, chồng
thương yêu vợ, vợ thương yêu
chồng. Tình luyến ái giữa những người
thân yêu là lẽ thường, là một
sự kiện tự nhiên. Thế gian không thể
tồn tại được nếu không có
tình thương. Nhưng tình thương
luôn luôn ích kỷ, hẹp hòi
,
không
so sánh được với tâm Từ là
tình thương đồng đều đối
với tất cả chúng sinh trong vũ trụ
bao la
.
Do đó tâm Từ không đồng nghĩa
với
tình thương yêu ích kỷ.
“Tâm từ (mettã) không phải sự yêu
thương
xác thịt, cũng không phải
lòng luyến ái đối với người
nào. Tình dục và luyến ái là
nguồn gốc của bao điều phiền não.

“Tâm từ cũng
không phải là tình thương riêng
biệt đối với người láng giềng,
bởi vì người có tâm từ không
phân biệt người thân kẻ sơ. “Tâm
từ
không phải chỉ là tình huynh đệ
rộng rãi giữa người và người,
mà phải bao trùm tất cả chúng sinh,
không trừ bỏ một sinh vật nhỏ bé
nào, bởi vì loài cầm thú, các
người bạn xấu số của chúng ta,
cũng cần nhiều đến sự giúp đỡ
và tình thương của chúng ta
. “Tâm
từ cũng không phải là tình đồng
chí, không phải tình đồng chủng,
không phải tình đồng hương, cũng
không phải tình đồng đạo. “Tâm
từ êm dịu vượt hẳn lên trên
các thứ tình hẹp hòi ấy. Phạm
vi
hoạt động của tâm Từ không bờ
bến, không biên cương, không hạn
định. Tâm Từ không có bất luận
một loại kỳ thị nào. Nhờ tâm
Từ
mà ta có thể xem tất cả chúng
sinh
là bạn hữu, và khắp nơi trên
thế gian như chỗ chôn nhau cắt rún.

“Tựa hồ như ánh sáng mặt trời bao trùm vạn vật, tâm Từ cao thượng rải khắp đồng đều phước lành thâm diệu cho mọi người, thân
cũng như sơ, bạn cũng như thù, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, nam nữ, hư hèn hay đạo đức, người hay thú. “Người thực hiện tâm Từ đến mức cùng tột sẽ thâý mình đồng hoá với tất cả chúng sinh, không còn sự khác biệt giữa mình và người. Cái gọi là “ta” lần lần mở rộng lan tràn cùng khắp càn khôn vạn vật. Mọi sự chia rẽ đều tiêu tan, biến mất như đám sương mờ trong nắng sáng. Vạn vật trở thành một, đồng thể, đồng nhất. [Đức Phật và Phật Pháp, trang 584-588]

From Wikipedia, the free encyclopedia

Mettā (Pali: मेत्ता in Devanagari) or maitrī (Sanskrit: मैत्री) is loving-kindness,[1][2] friendliness,[3][4][5] benevolence,[2][4] amity,[3] friendship,[4] good will,[4] kindness,[6] love,[3] sympathy,[3] close mental union (on same mental wavelength),[4] and active interest in others.[3] It is one of the ten pāramīs of the Theravāda school of Buddhism, and the first of the four sublime states (Brahmavihāras). This is love without clinging (upādāna).

The cultivation of loving-kindness (mettā bhāvanā) is a popular form of meditation in Buddhism. In the Theravadin Buddhist tradition, this practice begins with the meditator cultivating loving-kindness towards themselves,[7] then their loved ones, friends, teachers, strangers, enemies, and finally towards all sentient beings. In the Tibetan Buddhist tradition, this practice is associated with tonglen (cf.), whereby one breathes out (“sends”) happiness and breathes in (“receives”) suffering.[8] Tibetan Buddhists also practice contemplation of the four immeasurables, which they sometimes call ‘compassion meditation’[9]

“Compassion meditation” is a contemporary scientific field that demonstrates the efficacy of metta and related meditative practices.

Tin bài có liên quan

Ý Nghĩa Câu – Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm – Trong Kinh Kim Cang

Yếu Chỉ Tâm Kinh Bát-Nhã

Yếu Chỉ Tâm Kinh Bát-nhã

Về Bài Kinh Kalama

Về Bài Kinh Kalama

Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm

Tư Tưởng Thiền Học Trong Kinh Kim Cang

Từ Bát Nhã Đến Pháp Hoa

Tổng Quan Kinh Đại Bát Niết-Bàn

Tổng Quan Kinh Đại Bát Niết-bàn

Toát Yếu Nội Dung Các Kinh Trường A Hàm

Tính Khế Lý Và Khế Cơ Trong Kinh Kim Cang

Tinh Hoa Trí Tuệ – Ứng Dụng Tâm Kinh Trong Cuộc Sống

Tinh Hoa Trí Tuệ – Ứng Dụng Tâm Kinh Trong Cuộc Sống

Load More

Discussion about this post

Nhà Sư Ướp Xác Tại Mông Cổ ‘Chưa Chết’

Nhà sư ướp xác tại Mông Cổ ‘chưa chết’

The mummified remains, covered in cattle skin, were found on January 27 in the Songinokhairkhan province. Picture: Morning Newspaper As...

Chùm Ảnh: Rực Rỡ Cờ Hoa Diễu Hành Đạp Xe Của Ttn Phật Tử Thủ Đô

Chùm Ảnh: Rực Rỡ Cờ Hoa Diễu Hành Đạp Xe Của Ttn Phật Tử Thủ Đô

Trở về mục lục● Đại Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2014 Chùm ảnh: Rực rỡ cờ hoa diễu hành...

Phật Dạy: Có Sáu Sức Mạnh Ở Đời

Phật dạy: Có sáu sức mạnh ở đời

Thế Tôn đã khuyến tấn hàng đệ tử của Ngài phát nguyện dấn thân; lấy từ bi, đem lòng yêu...

Tại Sao Người Giầu Sang, Kẻ Nghèo Hèn

Tại Sao Người Giầu Sang, Kẻ Nghèo Hèn

TẠI SAO NGƯỜI GIÀU SANG, KẺ NGHÈO HÈN Thích Đạt Ma Phổ Giác Thế giới con người từ khi còn...

Huyết Âm Tây Tạng

HUYẾT ÂM TÂY TẠNG  Nguyễn Lương Vỵ   Nghe trên thinh không Cơn mưa huyết trên giòng Yarlung Tsangpo Những...

Nhận Thức

Nhận thức

HT Thích Thông TriệtKhóa Bát Nhã - Lớp Trung Cấp 1BÀI ĐỌC THÊM SỐ 3NHẬN THỨCP: parijānanā: cognitionP: parijānāti: to ...

Pháp Sư Tịnh Không – Người Có Công Phục Hưng Tông Tịnh Độ Thời Hiện Đại

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Trước Vấn Nạn Tin Giả

Trước vấn nạn tin giả

Đại dịch Covid-19 được xem là biến cố của thế kỷ, làm cho con người khắp nơi lo âu, thế...

Ngọn Lửa Từ Trung Tâm

Ngọn lửa từ trung tâm

NGỌN LỬA TỪ TRUNG TÂM Đức Đạt Lai Lạt Ma & Victor Chan | Tuệ Uyển chuyển ngữ   Đức...

Bài Ca Đại Hoan Hỷ: “I-Ha” Bát Nhã Ba La Mật Đa

Bài Ca Đại Hoan Hỷ: “i-ha” Bát Nhã Ba La Mật Đa

Việt ngữ & English BÀI CA ĐẠI HOAN HỶ: “I-ha” Bát Nhã Ba La Mật Đa THE SONG OF GREAT...

Bài Học Về Lòng Từ Bi Từ Đức Đạt Lai Lạt Ma

Bài học về Lòng từ bi từ Đức Đạt Lai Lạt Ma

BÀI HỌC VỀ LÒNG TỪ BI từ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA Margaret Moodian: Educator, Nonprofit Leader, Court Appointed Special...

Du Học Tăng Ni Tại Ấn Độ Tưởng Niệm Ht. Thích Minh Châu

DU HỌC TĂNG NI TẠI ẤN ĐỘ TƯỞNG NIỆM HT. THÍCH MINH CHÂU 16g (giờ Ấn Độ) ngày 7-9-2012, tại...

Thánh Tích Tịnh Xá Kỳ Viên – Nơi Đức Phật Trải Qua Nhiều Mùa An Cư Nhất

Thánh tích Tịnh xá Kỳ Viên – Nơi Đức Phật trải qua nhiều mùa an cư nhất

Tịnh xá Kỳ Viên là một trong nhưng ngôi tịnh xá nổi tiếng vào thời Đức Phật, được nhắc nhiều...

Chùm Thơ Về Bát Chánh Đạo

Chùm Thơ Về Bát Chánh Đạo

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Tương Lai Chùa Việt Ở Mỹ – Minh Mẫn

Tương Lai Chùa Việt Ở Mỹ – Minh Mẫn

TƯƠNG LAI CHÙA VIỆT Ở MỸMinh Mẫn Như các chùa của Tàu có mặt tại Mỹ trước đây, rất sớm,...

Nhà sư ướp xác tại Mông Cổ ‘chưa chết’

Chùm Ảnh: Rực Rỡ Cờ Hoa Diễu Hành Đạp Xe Của Ttn Phật Tử Thủ Đô

Phật dạy: Có sáu sức mạnh ở đời

Tại Sao Người Giầu Sang, Kẻ Nghèo Hèn

Huyết Âm Tây Tạng

Nhận thức

Pháp Sư Tịnh Không – Người Có Công Phục Hưng Tông Tịnh Độ Thời Hiện Đại

Trước vấn nạn tin giả

Ngọn lửa từ trung tâm

Bài Ca Đại Hoan Hỷ: “i-ha” Bát Nhã Ba La Mật Đa

Bài học về Lòng từ bi từ Đức Đạt Lai Lạt Ma

Du Học Tăng Ni Tại Ấn Độ Tưởng Niệm Ht. Thích Minh Châu

Thánh tích Tịnh xá Kỳ Viên – Nơi Đức Phật trải qua nhiều mùa an cư nhất

Chùm Thơ Về Bát Chánh Đạo

Tương Lai Chùa Việt Ở Mỹ – Minh Mẫn

Tin mới nhận

Lời dạy của Đức Phật để có cuộc sống an lành?

Thế giới cõi âm nhìn từ giáo lý đạo Phật

Thư Ngỏ Xây Dựng Chùa Hương Sen

Phật dạy tu trong lúc uống, ăn

Thực hành lời Phật dạy để cuộc sống an lạc, hạnh phúc

Có niềm tin ở Đức Phật là đã gieo được quả ngọt

Trút bỏ phiền ưu theo lời Phật dạy

Lời di huấn của Thế Tôn

Thư Ngỏ Xây Dựng Tịnh Thất Hương Lâm Tỉnh Hậu Giang

5 nguy hại dành cho người nói đặt điều, 5 lợi ích dành cho người nói đúng!

Trói buộc chắc hơn gông cùm xiềng xích

Tu pháp gì để được an vui lâu dài?

Phật nói: Phước cầu không thể được, tu thì được!

Ý nghĩa bước sen thứ bảy: Quả vị Phật

Trong lòng không có hoa, khó tìm hoa bên ngoài

BS.Đỗ Hồng Ngọc: “Đức Phật, bậc Y vương”

Phật dạy: Cách nhìn người để biết họ tà hay chánh

Học theo hạnh Phật

Con ơi, tu đi…

Hủy hoại thiên nhiên đồng nghĩa với với hủy hoại môi trường sống

Tin mới nhận

Mùa xuân viết về đạo ca

Tiếng Phạn Trong Phật Giáo

Phật giáo và thiên nhiên: thương yêu con người và động vật

Trí, Bi và Lạc Trong Kinh Lăng Già

Học theo gương hạnh Đức Phật

Một sinh lực hùng hồn là chìa khóa chiến thắng!

Công đức trì giới

Danh Xưng trong Phật Giáo Việt Nam

Thấy Phật Tánh Bằng Trí Huệ Và Từ Bi

Tổng Quan Về Các Hệ Thống Triết Học Ấn Độ

Khẩu nghiệp ở Việt Nam đang rất nặng!

Đặt tâm đúng hướng

Cao Tăng Dị Truyện – Hạnh Huệ Biên Soạn

Tống Táng Giản Đơn – Thích Chân Tính

Aung San Suu Kyi Và Hồn Của Nước

Việt Nam: Vạt Núi Đốn Cây Xây Nơi Thờ Phật ‘Vì Tâm Linh’?

Phật Lịch Và Phật Đản Sinh

Tại Tâm

Những Lời Khai Thị

Bốn Đặc Trưng Trong Di Sản Văn Hóa Của Thiền Sư Pháp Loa

Tin mới nhận

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 218)

Pháp ngữ trong Kinh Kim Cang (3)

Bát Nhã Tâm Kinh Việt Giải

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 18)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 06)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 233)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 276)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 287)

Nghe Giảng Kinh Của Quý Ht. Huyền Vi, Tâm Thanh Và Thanh Từ

Kinh Điển Nam Truyền (Pali)

Lược Giảng Kinh Pháp Bảo Đàn

Pháp luân công xuyên tạc Kinh Phật, Phật Di Lặc nhằm mục đích gì?

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 303)

Hiện Trạng Đại Tạng Kinh – Tháng 4, 2011

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 184)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 337)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 30)

Audio Book Kinh Thủ Lăng Nghiêm

Tôi tin các vị Bồ-tát luôn hiện hữu

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 231)

Tin mới nhận

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 14)

Chia Sẻ Tâm Đắc Học Tập Đệ Tử Quy (Tập 2)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 30)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 271)

PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 30)

Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 80)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 33)

NHẪN NHỤC BA LA MẬT

Hằng Chuyên Tâm Niệm

Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 64)

Ba Bài Khai Thị Cho Oan Gia Trái Chủ

Nhận thức Phật Giáo (Phần 4)

Quy Tắc Trợ Niệm Lâm Chung Và Pháp Ngữ Khai Thị

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 199)

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 4)

Những Dự Bị Cần Thiết Cho Lúc Lâm Chung – Trích Niệm Phật Thập Yếu

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 12)

Duy thức học đối với người niệm Phật

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 66)

Quê Hương Cực Lạc

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

Chinese (Simplified)EnglishFrenchGermanJapaneseKoreanRussianSpanishVietnamese