TINH YẾU CỦA THIỀN
Tuệ Thiện
Có
rất nhiều phương pháp thiền. Mỗi vị thiền sư lưu truyền một phương
pháp cho các đệ tử; đến phiên các vị nầy, mỗi vị lại thêm thắt
biến đổi một ít tùy theo sự hiểu biết và kinh nghiệm đạt đạo của
mình. Thành ra có bao nhiêu thiền sư là có bấy nhiêu phương pháp. Vậy
thì làm cách nào để đánh giá một phương pháp thiền? Chúng ta phải
qui chiếu vào kinh điển và dựa trên phương pháp của Đức Phật, nếu
chúng ta vẫn coi Ngài là vị Thiền Sư đầu tiên đã tìm ra được phương
pháp dẫn tới sự giác ngộ. Còn vị thiền sư nào hơn Đức Phật? Có vị
tổ sư thiền nào để lại cho chúng ta hơn một cuốn sách dạy về thiền đâu?
Nhất là những vị đã chủ trương “bất lập văn tự, giáo ngoại
biệt truyền”. Một vị thiền sư phải có ít nhất một vị đệ tử đạt
đạo giống như mình. Điều nầy chứng tỏ phương pháp của mình là khả
thi và hiệu quả dẫn tới cùng một mục đích. Nếu mục đích là thấy
Niết Bàn, thì người đệ tử cũng phải thấy rõ Niết Bàn. Nếu mục đích
là đắc thần thông, thì người đệ tử cũng phải đắc thần thông như vị
thầy. Đức Phật sau khi đắc đạo, đã nghĩ tới những người bạn cùng tu
khổ hạnh với mình thuở trước. Bài pháp “Chuyển pháp luân” đầu
tiên của Ngài đã khai quang tuệ giác cho 5 đạo sĩ khổ hạnh nầy và đã
đưa 5 ông đến đạo quả A La Hán, ngang hàng với Đức Phật về hiệu quả
chứng đắc: thấy Niết Bàn và chấm dứt luân hồi. Năm vị thuộc nhóm
Kiều Trần Như là một bằng chứng cụ thể đầu tiên cho thấy Niết Bàn
là một sự thật và phương pháp của Đức Phật là hiệu nghiệm huyền
diệu. Từ đó đến nay không biết bao nhiêu thế hệ Thiền Sư – Đệ Tử, Đệ
Tử – Thiền Sư thực hành theo phương pháp của Ngài đã giác ngộ Niết
Bàn.
Đức Phật đã
giảng dạy hai phương pháp thiền: Chỉ
Tịnh (Samatha) và Tuệ Quán
(Vipassanā). Đúng ra phương pháp Chỉ Tịnh đã có từ trước thời Đức
Phật, nhưng Ngài vẫn tiếp tục truyền dạy vì thấy lợi ích của nó và
đồng thời Ngài có cách để đưa nó vào con đường dẫn tới sự giải
thoát. Phương pháp Tuệ Quán do chính Ngài phát hiện ra và được Ngài
phẩm định là một “con đường duy nhất (Ekāyānomaggo) để chúng sinh
tự thanh lọc để diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệ và chứng
ngộ Niết Bàn” (Kinh Niệm Xứ ‘Satipaṭṭhāna Sutta’, Trung Bộ Kinh
số 10).
Bài nầy
xin đề cập đến tinh yếu của loại thiền thứ hai nầy và thử đi tìm
chỗ giao thoa giữa 2 phương pháp.
-ooOoo-
Những Phương Tiện
Chúng ta
từ sáng tới tối, từ sinh ra cho tới chết đi, lúc nào cũng bị ngoại
cảnh lôi cuốn. Từ sự nghe, thấy, ngữi, nếm, đụng, cho tới suy nghĩ
cũng đều từ cái thế giới bên ngoài. Chưa lúc nào chúng ta có dịp
ngồi lại nhìn cái thế giới nội tại. Thiền chính là lúc chúng ta
làm công việc nầy. Tinh yếu của
thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như
thế chúng ta cần phải biết xử dụng 3 phương tiện: sự cố gắng, sự
ghi nhận và sự giác tỉnh. Đây là 3 khả năng của tâm thức mà nếu
không phát triển dùi mài, làm cho điêu luyện thì không thể nào thấy được
thực tướng của sự vật và con tâm.
Khi chúng
ta làm việc gì với sự cố gắng, chúng ta đều biết nó khác với lúc
chúng ta làm với sự thờ ơ chểnh mảng; chúng ta cảm thấy có một
nhiệt tình, một hăng hái nào đó trong tâm. Sự cố gắng nầy Phật Giáo
gọi là TINH TẤN (Viriya), là một yếu tố rất quan trọng cho sự giác
ngộ. Trong thiền tinh tấn không phải là ráng ngồi bất động càng lâu
càng tốt, mà là cố gắng duy trì sự chú ý – ghi nhận (trên) các đề
mục thiền và cũng không quên ghi nhận sự thay đổi hay biến mất của
các đề mục nầy. Do đó ta có thể thay đổi tư thế từ ngồi sang đứng,
sang đi hay sang nằm hoặc làm việc, ăn uống, tiêu tiểu, miễn là không đánh
mất sự ghi nhận.
Sự ghi
nhận là một khả năng khác của tâm, nó còn được gọi là NIỆM (Sati),
là ý thức, nhận biết, nắm bắt đối tượng xuyên qua 6 cửa ngỏ của
tâm. Năm cửa giúp chúng ta giao tiếp với thế giới bên ngoài ngay trong
giây phút hiện tại và một cửa (ý) giúp ta nắm bắt các đối tượng
nội tại ở trong cả 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai và cả những ý
niệm trừu tượng, như ý niệm KHÔNG chẳng hạn hay những đối tượng vượt
ngoài thời gian và không gian, như NIẾT BÀN chẳng hạn. Thể tánh của
sự ghi nhận là CHÚ TÂM (attention). Nó là trụ cốt của thiền. Không có
GHI NHẬN – CHÚ TÂM không có thiền. Sự ghi nhận giúp cho ta gom tâm vào đối
tượng và sàng lọc những gì đối với tâm là quan trọng nhất lúc bấy
giờ. Có lúc tâm chỉ phat’ hiê.n những gì mình ưa thích. Có lúc lại thây’
nôi lênnhững gì mình ghét nhất du` rang môt cach’vô thu+c’. Bởi thế mà
THAM và SÂN được có dịp để phát triển và tác hại. Nếu chúng ta
biết khôn khéo tac’ y’ đối tượng(Yonisomalasikara=nhu+ ly’ tac’ y’), thì công dụng của sự ghi nhận là ngăn chận bảo vệ tâm thoát khỏi
hai lưỡng cực tham và sân. Đây là công dụng tích cực của thiền nhằm
bảo vệ và rèn luyện tâm.
Trong Thiền
Quán đối tượng không gì khác hơn là thân và tâm (hay các hiện tượng
vật chất và tinh thần) đang diển biến không ngừng bên trong ta. Khi
những vọng tưởng trở nên thưa dần, những ba động từ bên ngoài được
sàng sẩy, thì thân và tâm xuất hiện ngày càng rõ rệt. Lúc đó ghi
nhận – chú tâm giúp cho ta thấy rõ, hiểu rõ bản chất của THÂN TÂM.
Những đặc tướng VÔ THƯỜNG, KHỔ và VÔ NGÃ không còn là những danh từ
vô nghĩa mà chúng hiện ra dưới con mắt bàng hoàng của kẻ quan sát.
Sự ghi
nhận – chú tâm giữ một vai trò quan trọng trong sự rèn luyện và kiểm soát tâm. Trong một bài kinh, Đức
Phật dạy một vị Tỳ Khưu: “Khi nghe hãy dừng lại ở sự nghe; khi
thấy dừng lại ở sự thấy; khi ngữi, nếm, đụng, dừng lại ở ngữi,
nếm, đụng”. Việc nầy chỉ có thể làm được nhờ sự ghi nhận –
chú tâm. Thật vậy, sự chú tâm soi sáng giai đoạn chuyển tiếp từ tư
tưởng sang hành động, có thể giúp ngăn chận những hành động hay lời
nói làm hại đến chính mình hay làm đau khổ thiệt hại đến người
khác.Theo tâm ly’ hoc Phât giao’ không bao gio+`co’ hiên tuong “khâu? xà
tâm Phât” vi`truoc’ khi lo+i`noi’ ac’ ddoc duoc thôt’ ra , no’ dda~ duoc
hinh`thành trong tâm tu+ rôi`du`rât’ nhanh le.
Trong giai đoạn
thực tập, nó có thể làm chậm lại sự hành động, nhưng một khi đã
trở thành thói quen thuần thục, nó giúp cho ta ngăn chận một cách
hiệu quả và quyết định mau lẹ rời bỏ những tư tưởng và hành động
xấu xa.Trong thực hành muốn dừng lại ở sự nghe , sự thây’,sự ngửi nếm đụng
không phải dễ , điều này co’ nghĩa là dùng chánh niệm để ghi nhân sự thây’ (
nhãn thức) ngay khi no’ xuât’ hiên do sự tiếp xúc của nhãn căn với nhãn trần luc’ này đối tượng vẫn còn là chân
đế ,tâm vẫn còn thọ xả cho dù đối tượng co’ tốt hay xấu ,no’ chưa bị ô nhiễm hay phiền não chen vào. Nó chưa bị tâm HàNH
chi phối ,tâm hành là đã có sự phân biêt chon lựa , thuong hay ghét. Một trong
những “phương pháp” của Thiền Sư Thích Thanh Từ là: “Đối
cảnh không sinh tâm”, nếu không nhờ chu’ tâm chanh’ niêm thì làm sao
có thể không sinh tâm được? Tâm đây chính là tâm hành , môt thành phần của ngủ uẩn.
Làm sao
chỉ một công việc đơn giản là CHÚ TÂM – GHI NHẬN có thể giải thoát con người khỏi vòng sinh
tử luân hồi? Như chúng ta đã biết định luật “Thập Nhị Nhân
Duyên” trói buộc con người trong vong`sanh tu+? bằng 12 móc xích: VÔ
MINH => HÀNH => THỨC => DANH SẮC=> LỤC NHẬP=> XÚC=> THỌ=>
ÁI=> THỦ=> HỮU=> SINH=> LÃO TỬ… (–> vô minh). Chính nhờ sự
CHÚ TÂM can thiệp, cắt đứt gạch nối giữa hai móc xích THỌ -/-> ÁI
mà con người mới được giải thoát khỏi vòng sinh tử khổ đau. Như
chúng ta đã biết, thọ có 3 loại: lạc, khổ và xả. THỌ LẠC đưa tới
ái dục, ưa thích, dính mắc. THỌ KHỔ đưa tới sân ưu, thù hận, ghét
bỏ. Cả hai đều đưa tới sự chấp thủ (THỦ), tạo nghiệp (HỮU) Một đàng
tạo nghiệp THAM, một đàng tạo nghiệp SÂN. Cả hai đàng đều dẫn vào
luân hồi. Sự chú tâm, nhờ được rèn luyện tinh tế, sẽ giúp ngăn chận
hữu hiệu sự tạo nghiệp xấu nầy.Đức Phât co’ giảng rõ điều này trong bài kinh
” Thê’ Giới'” ( Tuong Ưng bô kinh IV, Thích Minh Châu , trang 94)
“…Và này các tỳ kheo , thê’ nào là thê’ giới đoạn diệt ? Do duyên Mắt và
các Sắc khởi lên nhãn thức. Do ba cái hợp lại ( căn, trần, thức) nên co’ XÚC.
Do duyên xúc nên co’ THỌ .Do duyên thọ. nên co’ AI’ . Do sự đọan diệt ly tham
ai’ ây’ môt cách hoàn toàn nên THỦ diêt, Do thủ diệt nên HỮU diêt, Do hữu diêt
nên SANH diêt, Do sanh diêt nên GIÀ, CHẾT,SẦU,BI, KHỔ, ƯU NÃO diêt. Như vây
toàn bộ ngủ uẩn này đọan diệt . Này các
tỳ kheo , đây là thê’ giới đoạn diệt.
Bởi thế một tinh yếu khác của thiền là phải ghi
nhận cho được cảm thọ trong mọi hoàn cảnh. Mỗi
khi có sự tiếp xúc giữa giác quan (lục căn) và cảnh trần (lục trần),
phải cố gắng ghi nhận cho được cảm thọ. Cảm thọ của thân và cảm
thọ của tâm: từ dễ chịu cho tới khó chịu, từ hỷ lạc cho tới đau đớn,
khổ sở cùng tột. Cảm thọ nào rồi cũng đi qua. Những cảm giác sung
sướng, khoái lạc đi qua rất nhanh, chỉ còn lại một cảm giác đại đồng,
âm ỉ, bao trùm: KHỔ. Khi sung sướng, hạnh phúc, muốn kéo dài không được
cũng khổ. Cây muốn lặng mà gió không ngừng cũng khổ. Tâm xao động,
bức rức; ý tưởng thù hận hay ăn năn, hối tiếc cứ nổi dậy quay cuồng
trong tâm, đôi khi phải dùng cái chết mới chấm dứt được. Cái khổ
xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng. Bao giờ chúng ta thấy tất cả
các khía cạnh của khổ trong sự tỉnh giác hoàn toàn từ KHỔ THỌ,
KHỔ HÀNH, KHỔ TƯỚNG, cho tới cuối cùng là KHỔ ĐẾ thì NIẾT BÀN sẽ
hiện ra ở ngưỡng cửa cuối cùng.
Một bí quyết để đi tới sự thật cùng tột là duy
trì sự liên tục của chú niệm. Muốn như thế
phải có sự cố gắng như đã nói ở trên, và phải liên tục ghi nhận
THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Đàng sau thân là thọ, đàng sau tâm là thọ, đàng
sau pháp là thọ và đàng sau thọ ẩn nấp THAM và SÂN, cũng như ẩn nấp
VÔ THƯỜNG, KHỔ, và VÔ NGÃ.
Đi chung
với sự chú tâm – ghi nhận là sự GIÁC TỈNH (Sampajañña: claire
compréhension). Dĩ nhiên, khi có sự chú tâm thì trí não sẽ hiểu rõ
những gì đang xảy ra bên trong và xung quanh ta. Công việc nầy, khoa học
tâm thần (neuroscience) gọi là xử lý các dữ kiện (traitement des
informations) là một nhiệm vụ quan trọng của tâm. Đây chính là yếu tố
trí tuệ trong Phật Giáo; nó có 4 chi:
1) Hiểu
biết rõ ràng về mụ̣c đích (Sātthaka Sampajañña): trong đời sống có
người không biết sống để làm gì? khi làm một việc gì đó, không biết
làm để làm gì? Thiền cũng vậy, không biết với mục đích gì? Thấy
người khác làm thì bắt chước vì thấy hay hay. Cho nên trong khi làm,
nếu có một cái gì đó có vẻ thích thú hơn thì người đó chạy theo
cái thích thú mới và cứ như thế tiếp tục cho đến hết cuộc đời.
Mục đích của thiền rất rõ ràng là thiêu đốt phiền não, tiêu diệt
THAM, SÂN, SI. Có môn phái thiền cho rằng thiền không nhằm mục đích gì
cả. Thật ra, đó chỉ là một cách nói để cho thiền sinh đừng vọng
móng, nếu không họ thiền để làm gì?
2) Hiểu
biết rõ ràng những điều kiện (Sappāya Sampajañña) thích hợp về thời
gian, không gian và phương tiện để thực hiện mục đích trên. Một hành động,
cử chỉ hay lời nói đều nhằm một mục đích nào đó, nếu không nó trở
thành vô ích. Trong thiền ta đã biết rõ mục đích, vậy thì bất cứ điều
gì cần cho mục đích ấy hay cần cho sự liên tục của pháp hành thì
cứ làm. Ngoài ra đều nên tránh. Đức Phật dạy rằng nếu điều kiện nơi
chốn thuận tiện, thức ăn thích hợp mà hành giả vẩn không thấy pháp
thì tốt hơn nên rời bỏ nơi ấy. Ngược lại, nếu nơi chốn không tốt,
thức ăn không thích hợp mà hành giả hành thấy pháp thì nên tiếp tục
ở lại kiên trì. Điều nầy có nghĩa là những điều kiện vật chất
không đáng kể bằng những điều kiện tinh thần như giới đức, một vị
thầy, một phương pháp thiền…
3) Hiểu
biết rõ ràng về lảnh vực quán niệm (Gocara Sampajañña). Điều nầy
có thể được hiểu là biết rõ lúc nào chúng ta đang ở trong thiền và
lúc nào đã xuất thiền. Ở trong thiền có nghĩa là chúng ta không xa
rời đề mục. Xuất thiền là chúng ta đã ra ngoài đề mục và ra ngoài
mục đích. Nếu đề mục là thân và tâm, chúng ta đã ra khỏi thân tâm.
Nếu mục đích là diệt trừ phiền não, thì chúng ta đã ra khỏi mục đích
nầy. Trên thực tế nếu hành TỨ NIỆM XỨ thì lúc nào chúng ta cũng
có thể ở trong thiền được; vì những lãnh vực của thiền tứ niệm xứ
bao gồm tất cả những sinh hoạt của đời sống. Càng luyện tập thì
những lãnh vực của thiền càng ngày càng mở rộng để bao trùm tất
cả mọi sinh hoạt. Đến khi thuần thục thì chúng ta có thể “sống
thiền” liên tục, trừ lúc ngủ. Hành thiền Chỉ Tịnh thì không thể được như vậy; vì càng luyện tập
thì lãnh vực của thiền càng chuyên sâu, đến độ phải đóng kín cả 5
cửa của giác quan để chỉ giữ một cửa ý. Do đó càng ngày càng phải
xa lánh đời sống thế tục ồn ào để ẩn cư nơi chốn sơn lâm tĩnh mịch.
4) Hiểu
biết rõ ràng về thực tại (Asammoha Sampajañña): hiểu rõ có đúng sự
thật hay những gì mình thấy, mình cảm nhận chỉ là một ảo giác, ảo
tưởng; tức là hiểu biết sư ̣vật đúng như nó là như vậy, không thêm
không bớt, không qua lăng kính ngã chấp, không theo nhãn quan tình cảm:
Một cái nhìn “chánh kiến”.
Sự Quân Bình Giữa Ngũ Căn
Tinh yếu sau cùng của thiền TỨ NIỆM XỨ là sự
giữ quân bình giữa ngũ căn: TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH
và TUỆ. Khi ngũ căn quân bình với nhau, thì niệm sẽ làm việc một
cách tự nhiên không cố gắng, khi ấy tuệ sẽ phát.
Vào thời Đức
Phật, có Đại Đức SONA KOLIVISA rất là tinh tấn, ngài cố gắng quá
sức cả thân và tâm trong khi hành thiền nhưng vẫn không có kết quả.
Ngày kia ngài có ý định từ bỏ cuộc sống phạm hạnh để trở về với
gia đình. Đức Phật biết được ý định của ông, bèn xuất hiện dạy dỗ:
“Có phải khi còn là cư sĩ, con rất giỏi về nhạc khí không? Con
nghĩ thế nào, này SONA, khi cây đàn của con lên dây cao quá mức, con
có thể đàn đúng âm điệu không? Và con nghĩ thế nào, này SONA, khi cây
đàn của con lên dây thấp quá, con có thể đàn đúng âm điệu không?”
– “Bạch Ngài, không” – “Cũng như thế ấy, này SONA, cố gắng
quá mức làm cho thân tâm căng thẳng và không đủ cố gắng sẽ sinh ra dã
dượi, lười biếng. Thấu hiểu sự
quân bình của các căn, con sẽ thành đạt mục tiêu bằng cách kiên
trì và đều đặn tinh tấn”. Theo lời chỉ dạy của Đức Phật, về
sau Đại Đức SONA KOLIVISA đắc quả A La Hán (Vinaya text II, Anguttara 55).
TÍN là
niềm tin của hành giả nơi Phật, Pháp, Tăng:
– Phật
là sự giác ngộ, sự giải thoát.
Tin nơi
Phật, hành giả tin rằng sự giác ngộ và giải thoát là có thật và
mục đích của hành thiền là đi đến sự giác ngộ để thấy rõ bản
chất BẤT TỊNH, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ của thân tâm nầy, đi đến sự giải
thoát khỏi THAM, SÂN, SI. Vì là một cái gì còn ở ngoài tầm tay
người hành thiền, nên họ chỉ phải tin. Đây không phải là một niềm tin
mù quáng, vô căn cứ, mà nó được xác nhận bởi Đức Phật và vô số
các thế hệ thiền sư chứng đắc.
– Pháp là con đường,
là phương pháp dẫn tới sự giác ngộ.
Tin nơi
Pháp, hành giả tin rằng phương pháp mình đang theo phù hợp với những
giáo huấn của Đức Phật. Hành giả có thể kiểm chứng qua kinh điển do
Đức Phật truyền lại rãi rác trong Tam Tạng Pháp Bảo và đã được sao
lục bởi các học giả Phật Giáo.
– Tăng là tập
thể những người cùng hành đạo, bao gồm các
vị thiền sư tu sĩ và cư sĩ. Tuệ Trung Thượng Sĩ, thầy của vua Trần
Nhân Tông ( Trúc Lâm đệ nhất tổ )là một cư sĩ. Goenka, một thiền sư
hiện đại nổi tiếng, đệ tử của thiền sư U BA KHIN, cả hai đều là cư
sĩ. Bà ACHAAN NAEB, thầy của vô số tăng ni phật tử Thái Lan và Việt
Nam, là một cư sĩ đã chứng đắc.
Tin nơi Tăng,
hành giả tin ở sự hiểu biết và kinh nghiệm của người thầy hướng
dẫn mình, có thể giúp mình vượt qua những khó khăn trở ngại trên con
đường tu tập. Đồng thời cũng tin tưởng nơi những bạn đạo đồng hành. Đôi
khi những kinh nghiệm ngu dốt của họ lại là những ngu dốt của ta.
Những trao đổi kinh nghiệm giữa các thiền sinh đôi khi hiệu quả hơn
lời chỉ dạy của ông thầy (học thầy không tày học bạn).
TÍN ngoài
ra còn là một niềm tin nơi khả năng của chính mình có thể đi hết con
đường còn lại từ đây cho tới khi nhắm mắt. Con đường dù còn dài, con
đường dù còn nhiều chông gai, sức ta còn, hơi ta chưa cạn, ta còn có
thể cải thiện thân tâm nầy. Cũng như sự tích một nhà sư bị cọp vồ
trong lúc đang hành thiền TỨ NIỆM XỨ. Mỗi một cú ngoạm xé của cọp
vào da thịt của ngài là một lần để ngài tiếp tục hành thọ quán
niệm xứ, cho đến khi thành đạo quả trước giây phút trút hơi thở cuối
cùng trong miệng cọp.
Bốn yếu
tố TÍN, TẤN, NIỆM, TUỆ (giác tỉnh) đã được đề cập tới, bây giờ xin
đề cập đến yếu tố ĐỊNH.
Yếu tố ĐỊNH
rất quan trọng để phân biệt hai loại thiền: Chỉ Tịnh (Samatha) và Tuệ
Quán (Vipassanā):
– Mục tiêu
của thiền Chỉ Tịnh là đi đến TOÀN ĐỊNH (= An Chỉ Định: Apana Samādhi),
rồi từ đó có thể tiến đạt đến các tầng thiền sắc giới và vô sắc
giới, hoặc có thể phát triển các loại thần thông. Khi tâm ở trong
trạng thái toàn định, nó cũng ngăn ngừa được các ác pháp THAM SÂN
không cho sinh khởi. Nhưng khi ra khỏi trạng thái nầy, tâm vẫn bị ô
nhiễm như củ.
– Trước khi
đến Toàn Định, tâm phải trải qua trạng thái CẬN ĐỊNH (Upacara Samādhi).
Cận Định là một trạng thái tâm an trụ khá vững chắc, mặc dù không
sâu mạnh bằng tâm Toàn Định nhưng cũng có khả năng ngăn giữ những ô
nhiễm ở bên ngoài tâm. Tâm Cận Định có thể an trụ trên đối tượng
trong một thời gian khá lâu. Gọi là Cận Định bởi vì nó xảy ra trước
tâm Toàn Định và chỉ có một đối tượng duy nhất không thay đổi, tùy
theo hành giả đã chọn lựa trước hoặc do vị thầy đã ấn định trước
khi vào thiền.
– Thiền
Tuệ Quán không dùng hai loại ĐỊNH nầy, mà chỉ xử dụng CHẬP ĐỊNH
(hay còn gọi là SÁT NA ĐỊNH: Khanika Samādhi). Chập Định cũng có khả
năng ngăn giữ những ô nhiễm ở ngoài tâm và cũng có khả năng an trụ
trên đối tượng một cách lâu dài, nhưng khác một điều là đối tượng ở
đây có thể thay đổi tùy theo tâm bắt được đối tượng nào trong 4 đối
tượng THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP, ở giây phút hiện tại. Mục tiêu của thiền
Tuệ Quán là thiêu đốt tận gốc phiền não, chí đến những phiền não
ngủ ngầm trong tiềm thức. Một điều khác nữa, là khi một phiền não
nào đã bị thiêu đốt thì nó bị triệt tiêu vĩnh viễn trong tâm, cũng
giống như một khoảng nào đó của tâm được thắp sáng thì không có một
bóng tối chen vào nữa. Theo một số thiền sư, CẬN ĐỊNH và CHẬP ĐỊNH
có hiệu quả ngang nhau. Rất tiếc môn Thần Kinh Thần học
(neurothéologie, môn khoa học mới, nghiên cứu những căn bản khoa học
của các khả năng tâm linh) chưa đủ phát triển để kiểm nhận điều nầy,
khiến cho một số thiền gia hoang mang, không biết mình có hành đúng
phương pháp Thiền Tuệ không? Riêng tôi thiển nghĩ trong các mức độ Định,
có một mức độ ngưỡng cửa (seuil) không nên vượt qua. Nếu vượt qua, tâm
sẽ nhập thẳng vào TOÀN ĐỊNH, lúc đó tâm sẽ mất khả năng linh hoạt
quan sát (tuệ) và hành giả rơi vào loại thiền Chỉ Tịnh. Đức Phật và
những thiền sư chứng đắc cả hai loại thiền, nắm giữ bí quyết về điểm
giao thoa giữa 2 phương pháp. Từ điểm nầy có thể tách ra để đi vào
một trong 2 phương pháp CHỈ TỊNH hay TUỆ QUÁN. Trong Tạng Kinh, có
những bài kinh Đức Phật nói về Thiền Chỉ Tịnh, có lẻ để giảng dạy
các tỳ khưu đã chứng đắc, giúp các ngài gìn giữ sức khoẻ, bảo tồn
sinh khí mỗi khi đau yếu. Có những bài nói về thiền Tuệ Quán để
giảng dạy cho tất cả những ai chưa chứng đắc. Điều nầy cần phải được
nghiên cứu thêm.
Kết Luận
Tinh yếu
của thiền trước hết là cố gắng thiết lập sự chú tâm ghi nhận trên
một đề mục căn bản tùy theo phương pháp thiền trong chủ đích tiêu
diệt tận gốc phiền não. Khi hội đủ 3 yếu tố cố gắng, ghi nhận và
giác tỉnh thì ta gọi là có chánh
niệm, một trong tám chi của Bát Chánh Đạo. Mỗi phương pháp có
một đề mục căn bản:
– phương
pháp Mahasi lấy sự Phồng Xẹp của bụng,
– phương pháp Goenka lấy Cảm Thọ,
– phương pháp Achaan Naeb lấy Tứ Oai Nghi,
– phương pháp Shwe-Oo-Min và phuong phap’ của Thiên`Tông lấy Tâm,
– phương pháp Zen lấy tư thế Ngồi (Zazen)…
Sau đó, duy trì sự liên tục của chánh niệm
trên 4 đối tượng THÂN THỌ TÂM PHÁP, tùy theo đối tượng nào xuất hiện
rõ ràng nhất trong giây phút hiện tại.
Cuối cùng,
giữ trạng thái quân bình giữa 5
yếu tố TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH, TUỆ, để cho niệm làm việc một
cách tự nhiên. Chánh niệm quan sát thân tâm, sự tác động giữa thân và
tâm, giữa thân tâm với môi trường bên ngoài một cách khách quan cho đến
khi phát hiện những sự thật. Những sự thật nầy chính là những tuệ
giác. Theo kinh sách Nguyên Thủy, hành giả phải trải qua 16 cái tuệ
mới có thể bước vào giòng thánh (Nhập Lưu) tương ứng với 7 giai đoạn
thanh lọc của sách “Thanh Tịnh Đạo” (Visuddhimagga, Buddhaghosa). Lúc đó, vị nầy đã thanh lọc được
3 kiết sử (ô nhiễm): thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ , và chỉ
còn tái sinh lại 7 kiếp để hoàn thành công việc thanh lọc những kiết
sử còn lại. Vị nầy chắc chắn không tái sinh vào 4 khổ cảnh và có
thể tái sinh vào một cõi thiên giới hữu học nếu hội đủ những phước
báu hữu lậu.
Phương pháp
là như thế. Bây giờ chỉ còn chờ đợi sự chín muồi của Ba La Mật
(công đức tu tập tích lũy từ muôn kiếp trước).
Nên nhớ rằng
sự giải thoát tùy thuộc 3 điều kiện:
– hạnh
nguyện giải thoát;
– sự quyết tâm và kiên trì thực hiện hạnh nguyện nầy;
– đầy đủ Ba La Mật.
Nếu chúng
ta cảm thấy công đức chưa đầy đủ, thì cố gắng tiếp tục bồi đắp
thêm. Chỉ có thế thôi.
Discussion about this post