Khác với văn xuôi là
ngôn ngữ của trí óc, thi phú là ngôn ngữ của con tim. Nếu một bài thơ không biểu
lộ được những xúc cảm của con tim thì nhất định sẽ không phải là một bài thơ đúng
nghĩa của nó, mà chỉ là một bài văn vần. Xúc cảm của con tim thì đôi khi lại quá
kín đáo, vì thế các vần thơ cũng phải thật tinh tế và bén nhạy mới có thể chuyển
tải được các xúc cảm ấy. Thế nhưng nếu một bài thơ càng tinh tế và kín đáo thì lại
càng trở nên khó nắm bắt hơn. Trong những ngày đầu xuân bên tách trà thơm,
chúng ta hãy cùng tìm hiểu về một bài thơ Đường dưới đây của thi hào Vương Duy mang tựa là Điểu Minh Giản.
鳥鳴澗 Điểu minh giản
人閒桂花落, Nhân nhàn quế hoa
lạc,
夜靜春山空。 Dạ tĩnh xuân sơn không.
月出驚山鳥, Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
時鳴春澗中。 Thời minh
xuân giản trung.
Dịch nghĩa :
Chim hót
trong khe suối
Người
nhàn [ngắm nhìn] hoa quế rụng,
[Trong] một đêm tĩnh lặng [giữa] một vùng núi xuân vắng ngắt.
Con
trăng hiện ra [khiến] chim trong núi
hoảng hốt,
Vụt
hót [vang] trong khe suối ngày xuân.
Dưới
đây là bài dịch của cụ Ngô Tất Tố
Chim
hót trong khe
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lặng ngắt
trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim
núi giật mình,
Tiếng kêu thủng
thẳng đưa quanh khe đồi
Thi
hào Vương Duy (701-761)
cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều
đại của Đường Huyền Tông (685-762). Nói chung thì thời Đường là thời kỳ hưng thịnh
nhất của nền văn minh Trung Quốc,
tất cả các đường nét đặc thù về văn hóa, nghệ thuật, tư tưởng của dân tộc Hán đều
được hình thành vào giai đoạn này. Thế nhưng mầm mống của sự suy tàn cũng nẩy sinh
rất sớm ngay trong thời nhà Đường. Sau “biến cố” Dương Quý Phi và loạn
An Lộc Sơn (755-763) nền văn minh Trung Trung quốc suy tàn dần. Xã hội và dân tộc
Hán ngày nay chỉ biết chạy theo những giá trị vật chất và hãnh diện một cách gượng
gạo với ảo giác của một thời xưa vang bóng mà thôi. Chỉ cần nhìn vào lãnh vực
thi phú cũng đủ để nhận thấy là trong số hơn một tỉ rưỡi người Hán ngày nay thử
hỏi có mấy thi nhân có tầm vóc ngang hàng với Vương Duy, Đỗ Phủ hay Lý Bạch,
trong khi dưới các triều đại nhà Đường thì dân số không hơn 50 triệu người (đây
là con số ước tính của các học giả Tây Phương căn cứ vào tổng số “hộ”
và đầu người trung bình trong mỗi “hộ”, ghi chép trong các sử liệu hành
chánh vào thời Đường)?
Bài
thơ Điểu Minh Giản trên đây của Vương Duy thuộc thể loại ngũ
ngôn tuyệt cú, một thể thơ thật ngắn và cô đọng, gồm vỏn vẹn hai mươi chữ. Đã có
rất nhiều bài dịch tiếng Việt, bài trên đây của cụ Ngô Tất Tố chỉ là một trong
các bài xưa nhất và cũng chỉ mang tính cách tiêu biểu mà thôi. Thật vậy, bài thơ
của Vương Duy thoạt
nhìn khá đơn giản và “dễ hiểu” nên cũng rất dễ dịch. Thế nhưng phía
sau sự đơn giản ấy còn tàng ẩn một điều
gì khác nữa hay chăng? Nếu chỉ căn cứ vào ý nghĩa từ chương thì bài thơ chỉ là
một bài tả cảnh với một vài hình ảnh khá rời rạc: hoa quế rụng, đêm tĩnh mịch,
núi vắng, trăng mọc, chim kêu… Nếu chú ý thật kỹ thì chúng ta sẽ nhận thấy ngay
một vài chi tiết thiếu “mạch lạc” hay “phi lý” nào đó. Nếu
giải đoán được các sự phi lý và thiếu mạch lạc ấy biết đâu rằng đây cũng là
cách giúp chúng ta đến gần hơn với người thi nhân.
Trong
phần dưới đây trước hết chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa của một vài chữ dễ gây ra
hiểu lầm, sau đó là ý nghĩa của từng câu, và sau cùng sẽ tìm hiểu xem Vương Duy đã gửi gấm những gì trong
bài thơ của mình. Thật ra thì trong toàn bài thơ không có chữ nào khúc mắc cả,
ngoại trừ ba chữ sau đây là các từ có thể gây ra sự lầm lẫn:
–
trước hết là chữ “quế hoa” trong câu 1. Có hai loại cây quế khác nhau.
Một loại có vỏ thơm dùng làm gia vị hoặc dược phẩm, gọi là cây quế khâu, tên
khoa học là Cinamomom, tên thông dụng
là quế chi, quế thanh (cannelier / cinnamon). Quế khâu có thân cao từ 10 đến 15
thước, hoa bé tí bằng đầu que diêm (xem hình 1-3). Do đó thiết nghĩ những “cánh
hoa” ấy có rơi rụng trong rừng thì cũng chẳng liên hệ gì đến một thi nhân “nhàn
nhã” ngồi trong một gian nhà giữa đêm khuya. Loại cây quế thứ hai là loại
cây kiểng, cao tối đa một vài thước, trồng ở sân nhà hay trong chậu, và có thể
mang vào nhà. Loại cây kiểng này gọi là quế hoa, mộc hoa hay mộc tê, tên khoa học
là Osmanthus fragrans, thuộc họ Nhài
(Oleaceae) (xem hình 4-6). Trong Truyện
Kiều có một câu như sau: “Một cây cù
mộc, một sân quế hòe” (câu 3238). Hoa của cây mộc quế to khoảng từ một
phân đến một phân rưởi, màu trắng (ngân quế), màu vàng (kim quế) hay màu đỏ (đan
quế), tỏa hương thơm ngát, tương tự như mùi vỏ cây quế khâu. Trong quyển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai-Trí Tiến-Đức,
chữ quế hoa được giải thích là một loại hoa tầm xuân, điều này không được đúng lắm
vì hoa tầm xuân thuộc họ hoa hồng (Rosaceae).
H.1-3: Cây quế khâu Cinamomom sp. và hoa
H.4: Cây hoa quế (Osmanthus fragrans) đang trổ hoa trong sân
H.5: Hoa Ngân Quế
H.6: Hoa Kim Quế
Các
bản dịch tiếng Việt dường như đều hiểu quế hoa trong bài thơ Điểu Minh Giản là hoa của cây quế khâu. Hầu
hết các bản tiếng Pháp và tiếng Anh cũng thế, cũng đều dịch là quế khâu
(cannelier / cinamon tree), chỉ có một bản tiếng Anh duy nhất tìm thấy trong “Bộ Sưu Tập các Bài Thơ trên Thế
Giới” (World Poetry’s Archive)
dịch là hoa Osmanthus, tức là hoa mộc
quế (xem phụ lục).
–
chữ dễ gây ra lầm lẫn thứ hai là chữ không
trong câu 2. Chữ không trong tiếng Hán có nghĩa là trống không, các chữ xuân sơn
không trong câu này có nghĩa là vùng
núi vắng vẻ giữa mùa xuân. Trong khi đó chữ không trong tiếng Việt lại có nghĩa là một sự phủ định. Sở dĩ nêu lên sự lưu ý này là nhằm nhắc nhở những người đọc
kinh sách Phật Giáo, nếu mỗi khi thấy nêu lên khái niệm về “Tánh Không”
thì phải hiểu chữ không trong khái niệm
này có nghĩa là một sự trống không, và
không hề có nghĩa là một sự phủ định.
Mọi hiện tượng trong thiên nhiên đều “có” thế nhưng chúng “trống
không” về một sự hiện hữu mang tính cách nội tại hay tự tại, hoặc nói một
cách dễ hiểu hơn là không có bất cứ một hiện tượng nào đứng yên hay giữ nguyên trong
một thể dạng nhất định nào đó.
–
chữ thứ ba là chữ thời trong câu 4. Trong
tiếng Hán chữ thời mang rất nhiều nghĩa:
thời giờ (giờ, khắc), thời điểm, thời kỳ, lúc thời thế này lúc thời thế kia,
hợp thời, đúng lúc, đúng vào thời điểm, thường thường là như thế, đồng thời, đương
thời, bèn, bỗng nhiên, cơ hội, đúng dịp, v.v… Trong bản dịch của cụ Ngô Tất Tố
chữ thời được dịch là thủng thẳng,
chim kêu thủng thẳng thì chẳng có nghĩa gì cả. Trong số hai bản dịch trong phần
phụ lục dưới đây, thì bản tiếng Pháp dịch là “par instant” có nghĩa
là thỉnh thoảng, trong khi đó thì bản tiếng Anh lại dịch là “don’t stop”,
tức có nghĩa là không ngừng (một vài bản dịch tiếng Anh khác dịch là
“constant” có nghĩa là liên tục). Sự “lúng túng” này cho thấy
các dịch giả không nắm vững được ý của Vương Duy nêu lên trong câu 4.
Đến
đây chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của từng câu một:
– câu thứ nhất có hai vế: người nhàn và hoa quế rụng. Hai vế liên hệ với nhau như thế nào? Tất cả các bản dịch
tiếng Anh, tiếng Pháp và cả tiếng Việt được tham khảo đều dịch hai vế này riêng
rẻ và độc lập với nhau, và tất nhiên là không nêu lên được một sự mạch lạc nào
cả. Một câu thơ năm chữ quá ngắn, do đó phải nuốt chữ, vậy chữ nào bị nuốt khiến
cho chủ từ là người nhàn và túc từ là
hoa quế rụng trở nên rời rạc? Chúng
ta có thể hình dung ra một chữ nào đó có thể nối liền hai vế trên đây, chẳng hạn
như chữ ngắm nhìn, và câu 1 trên đây
sẽ trở thành: người nhàn ngắm nhìn hoa
quế rụng. Người thi nhân nhàn nhã ngồi một mình ngắm nhìn những cánh hoa quế
tàn úa rơi rụng trong đêm, và biết đâu cũng là để hồi tưởng lại những kỷ niệm
xa xưa nào đó.
–
câu 2 cho biết là người thi nhân ngắm nhìn hoa quế rụng trong một bối cảnh như
thế nào: một đêm tĩnh mịch trong một vùng rừng núi hoang vắng giữa mùa xuân.
–
câu 3: trăng ló khiến chim trong núi hoảng hốt. Câu này khá khó hiểu vì không còn
là một câu tả cảnh nữa mà để nói lên tâm trạng của người thi nhân: một sự
“hoảng hốt” nào đó. Dù trăng có vằng vặc hay mờ ảo thì chim vẫn ngủ im
trong đêm, sự “hoảng hốt” của chim chỉ là sự tưởng tượng của người
thi nhân đang chìm đắm trong đêm bỗng giật mình khi nghe tiếng chim hót. Trong
cảnh tịch mịch đó chỉ có con người là hoảng hốt mà thôi khi tự hỏi tại sao chim
lại hót trong đêm? Hai chữ nguyệt xuất
có thể hiểu là trăng mới ló sau rặng núi, tuy nhiên cũng có thể hiểu là trăng đã
tà, đã xuống thấp khi trời gần sáng. Thế nhưng cũng có thể hiểu chữ nguyệt xuất trong bài thơ là những tia sáng
ban mai đã bắt đầu le lói sau rặng núi.
–
câu 4: Chim bỗng hót vang trong khe suối ngày xuân. Trời hừng đông chim bắt đầu
hót, thế nhưng người thi nhân lại cứ nghĩ rằng chim “hoảng hốt” vì ánh
trăng chiếu sáng khe suối và chim cất tiếng hót trong đêm. Các chữ thời minh (thời là lúc, minh là chim
hót) có nghĩa là đúng lúc chim bắt đầu hót vào buổi sáng, không có
nghĩa là chim thỉnh thoảng hay liên tục hót như thường thấy trong các bản
dịch. Thật vậy hầu hết các bản dịch – dù bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Việt
– đều là các bài tả cảnh. Thiết nghĩ các bài dịch mang tính cách miêu tả thiếu
mạch lạc đại loại như thế sẽ không sao phản ảnh được giá trị của một bài thơ đã
vượt thời gian hơn mười thế kỷ!
Tóm
lại ý nghĩa của toàn bài là người thi sĩ ngắm nhìn những cánh hoa quế rơi rụng
trong đêm đã sống lại với một thời quá khứ nào đó. Đắm mình trong những kỷ niệm
xa xưa, người thi nhân bỗng thoát ra ngoài thực tại và không ý thức được là trời
đã sáng, chim đã thức dậy và hót vang trong khe suối cạnh nhà. Vậy chúng ta hãy
thử đề nghị một bản tạm dịch như sau:
Chim hót trong khe suối
Nhàn nhã ngắm nhìn hoa quế rụng,
Tĩnh mịch
đêm xuân trong núi vắng.
Trăng ló đâu
non chim hoảng hốt,
[Ngỡ
sáng] trong khe vội hót vang.
Hoang
Phong dịch (01.01.14)
Các
chữ trăng ló và ngỡ sáng phản ảnh sự lầm lẫn trong tâm trí người thi nhân khi cho rằng
ánh trăng tỏa sáng khiến cho chim giật mình và hót vang, và không ngờ là trời đã
sáng.
Trong
số các bài thơ Đường cũng có một bài khá tương tự với bài thơ trên đây của Vương
Duy, đó là bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế. Vậy chúng ta hãy thử
phân tích bài thơ này và so sánh với bài thơ của Vương Duy xem sao. Bài thơ của
Trương Kế như sau:
楓橋夜泊 Phong Kiều Dạ Bạc
月落烏啼霜滿天, Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
江楓漁火對愁眠。 Giang
phong ngư hoả đối sầu miên.
姑蘇城外寒山寺, Cô Tô thành ngoại
Hàn San tự,
夜半鐘聲到客船。 Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch
nghĩa:
Đêm ghé thuyền bên chiếc Cầu Phong
Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời,
Trên sông [ghé thuyền] ở bến Cầu
Phong, thao thức bên ngọn đèn của người dân chài
(một loại đèn bão tránh gió).
Từ ngôi chùa Hàn San nơi ngoại thành
Cô Tô,
Lúc nửa đêm vọng lại với người khách
trên thuyền những tiếng chuông ngân.
Sau
đây cũng xin mạn phép nêu lên dưới đây hai bài dịch của hai cụ Tàn Đà và Trần
Trọng Kim, là hai trong số các bài dịch xưa nhất:
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bãi, sầu vương giấc
hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn
San.
Tản
Đà dịch (khoảng năm 1937 hay 1938)
Đêm khuya thuyền đậu ở bến Phong Kiều
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co.
Con thuyền đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn
San.
Trần
Trọng Kim dịch (1944)
Hai
bài dịch trên đây của cụ Tản Đà và cụ Kim cũng như các bài dịch khác mới hơn
sau này, kể cả các bài dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh đã được tham khảo, dường
như chỉ nhắm vào mục đích “tả cảnh”, không thấy nhấn mạnh đến nỗi niềm
ray rứt của người thi nhân, cũng không giải thích gì về sự mâu thuẫn giữa câu 1
(trời đã sáng) và câu 4 (tiếng chuông chùa nửa đêm). Đấy là chưa nói đến nhiều
chữ không sát nghĩa hoặc vụng về, chẳng hạn như trong hai bài dịch của cụ Tản Đà
và cụ Kim thì tựa cho biết là bến Phong Kiểu (bến sông cạnh chiếc Cầu Phong),
thế nhưng trong câu thơ dịch thì lại gọi là cây
bãi (hàng cây trên bãi sông?). Trong bản dịch của cụ Tản Đà, hai chữ sầu miên (giấc ngủ buồn nói lên sự trằn
trọc và đau buồn của người thi nhân) thì lại dịch là giấc hồ, tức là giấc mơ của Trang Tử thấy mình hóa bướm, khi thức
giấc thì tự hỏi không biết mình hóa ra bướm hay bướm hóa ra mình, một cách vắn
tắt thì đây là câu chuyện nêu lên một khái niệm “triết học”, không liên
hệ gì đến tâm trạng của người thi nhân trong khoang thuyền. Trong bản dịch của
cụ Kim thì hai chữ sầu miên lại trở
thành nằm co, quả thật hai chữ này không
phù hợp tí nào với nội dung của bài thơ.
Tựa
của bài thơ là Phong Kiều Dạ Bạc, phong
(érable / maple) là một loại cây có lá đỏ rực vào mùa thu (lá trên quốc kỳ của
Gia Nã Đại), kiều là chiếc cầu, dạ bạc là đêm ghé bến. Tựa của bài thơ cũng
đã tạo ra cả một bối cảnh không gian và thời gian phù hợp với nội dung của toàn
bài thơ. Hơn nữa trong tiếng Hán chữ bạc
cũng mang nhiều nghĩa khác nhau: ghé bến,
cập bến, trôi nổi, trôi dạt nơi đất
khách quê người, khinh bạc, đạm bạc, không màng công danh lợi lộc. Do đó chữ dạ bạc có nghĩa là đỗ thuyền
trong đêm và cũng có nghĩa là một đêm
khinh bạc, gợi lên một cách kín đáo tâm
trạng của người thi nhân. Do đó cũng có thể hiểu tựa của bài thơ là “Sự khinh bạc lợi danh trong một đêm
ghé vào bến Phong Kiều”.
Tóm
lại, đại ý của bài thơ là trời đã sáng, trăng đã lặn, quạ đã kêu, thế nhưng sương
vẫn bao phủ đầy trời, tưởng chừng như vẫn còn trong đêm tối. Trên con thuyền
neo cạnh chiếc cầu Phong, người thi nhân mang nặng một mối sầu trong lòng và thao
thức bên ngọn đèn leo lét. Trong khi đó ở ngôi chùa Hàn San nơi ngoại thành Cô
Tô, các nhà sư đã thức giấc và gióng chuông trong thời kinh buổi sáng. Tiếng
chuông vọng đến bờ sông khiến người lữ khách “bàng hoàng” và tự hỏi “tại sao chùa lại gióng chuông vào nửa đêm như thế này?”
Sương mù dầy đặc bao phủ cảnh vật hay là sự u uẩn trong lòng đã khiến người lữ
khách đánh mất cả ý niệm của thời gian?
Xin
tạm dịch bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc như
sau:
Đêm ghé bến Phong Kiều
Tiếng quạ, trăng tà, sương phủ kín,
Bên
đèn thao thức một niềm đau.
Cô Tô, vọng lại Hàn
San tự,
Nửa
đêm thuyền vẳng tiếng chuông ngân.
Hoang
Phong dịch (Tô Châu, 05.09.01)
Trương
Kế (730?-780?) sinh sau Vương
Duy khoảng 30 năm, và ông đã sáng tác bài thơ này vào năm 750
với tâm trạng của một “thư sinh” trong lứa tuổi hai mươi khi mới thi
trượt. Dù là mang cùng “một ý” hay “mượn ý” của bài thơ Điều Minh Giản của Vương Duy đi nữa, thế
nhưng bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương
Kế rõ ràng là phong phú và nhiều màu sắc hơn. Câu 1 cho thấy trời đã sáng, trăng
đã lặn, quạ đã kêu, thế nhưng sương còn dầy đặc tương tự như trời vẫn còn trong
đêm. Câu 2 nói lên niềm đau của một thư sinh thi trượt. Câu 3 gợi lên một khung
cảnh thật buồn: tiếng chuông chùa xa xa từ chùa Hàn San vọng lại bến sông khiến
người thư sinh càng thêm chua xót. Câu 4 nói lên sự cảm nhận sai lầm của người thư
sinh ngỡ rằng chùa gióng chuông trong đêm. Trương Kế đã mượn sự cảm nhận sai lầm
ấy để nói lên sự hoang mang và đau buồn trong lòng mình.
Bối
cảnh trong bài Điểu Minh Giản của Vương
Duy là một vùng rừng núi trong một đêm thanh vắng, người thi sĩ yên lặng ngắm
nhìn những cánh hoa quế héo tàn, đắm mình vào những kỷ niệm xa xưa, và không còn
ý thức được là trời đã sáng, chim đã thức và hót vang trong khe suối ngày xuân.
Bối cảnh trong bài Phong Kiều Dạ Bạc của
Trương Kế trái lại đã nêu lên những hình ảnh thật mạnh: sương mù dầy đặc trên bến
sông, tiếng quạ kêu, tiếng chuông chùa văng vẳng vọng lại từ xa…, và nhất là đã
nêu lên các địa danh thật chính xác mang tính cách hoài cổ, gợi lên những sự tích
xa xưa: thành Cô Tô với nàng Tây Thi, chùa Hàn San với hai anh em kết nghĩa là Hàn
San và Thập Đắc. Chuyện kể rằng Hàn San được cha mẹ đi hỏi vợ cho mình, thế nhưng
sau đó đã khám phá ra rằng cô dâu lại là người yêu của em mình là Thập Đắc. Hàn
San không muốn làm buồn lòng em nên bỏ ra đi biệt tích. Thập Đắc hay tin cũng ra
đi tìm anh và đã gặp được anh tá túc trong một ngôi chùa nhỏ. Hai anh em gặp
nhau, mừng mừng tủi tủi và cùng xin xuất gia trong ngôi chùa này. Người đời sau
gọi ngôi chùa ấy là Hàn San tự.
Tóm
lại là hai bài thơ Điểu Minh Giản của
Vương Duy và Phong Kiều Dạ Bạc của
Trương Kế, dưới một góc nhìn nào đó mang nhiều nét khá tương tự nhau. Vì thế chúng
ta cũng có thể nêu lên một thắc mắc là có một sự liên hệ nào giữa hai bài thơ
này hay không? Như đã được đề cập trên đây, Trương Kế trước tác bài Phong Kiều Dạ Bạc vào năm 20 tuổi sau
khi thi trượt, và ba năm sau đó tức là vào kỳ thi năm 753 thì ông đỗ tiến sĩ và
được bổ làm quan, thế nhưng cũng chỉ là một chức quan nhỏ. Trong lúc đó thì
Vương Duy đã 52 tuổi, là một thi nhân nổi tiếng và là một vị quan lớn trong triều.
Sự chênh lệch về tuổi tác và tước vị đó có thể khiến nghĩ rằng giữa hai người
không có một sự liên hệ mật thiết nào. Tuy nhiên cũng có thể là hai người đã
từng gặp nhau dưới trướng của Hoàng đế Đường Huyền Tông, và biết đâu đã từng cùng
bàn bạc với nhau về thi phú? Hoặc cũng có thể trước đó Trương Kế với tư cách là
một thư sinh trẻ mến mộ Vương Duy và đã từng được nghe Vương Duy giải thích về ý
nghĩa bí ẩn của bài thơ Điểu Minh Giảng?
Hoặc ngược lại thì biết đâu bài Điểu Minh
Giản đã được trước tác sau bài Phong
Kiều Dạ Bạc của Trương Kế? Trường hợp này khó xảy ra hơn, bởi vì Vương Duy
là một nhà thơ lớn từng sáng tác thật nhiều, trong khi đó Trương Kế chỉ là bậc
đàn em không ai biết đến, kể cả về sau này người ta cũng không biết đích xác năm
sinh và năm mất của ông, và cũng chỉ biết đến ông qua bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc được trước tác trong những lúc đau buồn cực độ khi ông thi
trượt. Sau đó khi ra làm quan, công danh thỏa nguyện, thì Trương Kế không còn
làm được một bài thơ nào xuất sắc nữa. Do đó thật hết sức khó để nghĩ rằng Vương
Duy mượn ý của Trương Kế.
Sau hết, nếu nhìn lại các bài thơ tiếng
Nôm trong văn học Việt Nam, thì bài Qua
Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, tuy không thuộc cùng một thể loại với
hai bài thơ trên đây, thế nhưng cũng đã gợi lên một nỗi niềm u uẩn và thật kín đáo
nào đó:
Qua Đèo Ngang
Bước tới đèo
Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình
riêng, ta với ta.
Bà
Huyện Thanh Quan
Bốn
câu đầu là các câu tả cảnh, câu 1 cho biết là vừa đến được Đèo Ngang thì nắng chiều
đã xuống thấp. Câu 2 và 4 cho thấy là người thi nhân đã bắt đầu trèo lên đèo nhưng
vẫn còn thấp, vẫn còn thấy người lom khom và nhà cửa lác đác. Câu 5 và 6 không còn
phải là các câu tả cảnh nữa, mà là để nói lên tâm trạng của người thi nhân: nhớ
nước cũng chỉ là chuyện đau lòng, thương nhà thì hết hơi mỏi miệng, toàn là
những chuyện kêu gào lải nhải. Câu 7 cho thấy người thi nhân đã lên đến đỉnh đèo
và dừng lại: thế gian dường biến mất, bầu trời tỏa rộng thênh thang, núi cao và
xa xa là biển xanh bát ngát. Trước cảnh bao la đó người thi nhân bất chợt cảm thấy
một “mảnh tình” thật thầm kín, nhỏ nhoi và riêng tư hiện ra trong lòng
mình, một “mảnh tình” mà mình không thể nói ra được, không thể giải bày
được, chỉ riêng mình mới có thể biết được mà thôi: Một mảnh tình riêng ta với ta. Vậy chúng ta thử “phỏng đoán”
xem mối tình ấy là gì?
Bà Huyện Thanh Quan sinh năm 1805,
chồng là Lưu Nghị (tự là Lưu Nguyên Uẩn) lớn hơn bà một tuổi, làm tri huyện
Thanh Quan (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay). Năm 1839 bà được vời vào kinh đô Huế
giữ chức Cung Trung Giáo Tập dạy học cho các công chúa và hậu phi. Chồng bà cũng
được thuyên chuyển về kinh đô để giữ một chức vụ khác. Thế nhưng người chồng bỗng
qua đời năm 1847, lúc ấy mới 43 tuổi. Bà Huyện Thanh Quan xin nghỉ hưu, đưa bốn
con về tá túc nơi quê nội ở làng Nghi Tàm, tỉnh Hà Đông (ngoại ô Hà Nội ngày
nay). Một năm sau thì bà qua đời cũng vào cái tuổi 43. Không có sử liệu đích xác
nào cho biết bà đã viết bài thơ Qua Đèo
Ngang vào năm nào và trong bối cảnh nào. Phải chăng bà đã làm bài thơ này ở
Đèo Ngang khi cùng với bốn con trên đường trở về quê ở làng Nghi Tàm, một bài
thơ nói lên tâm trạng một người quả phụ còn trẻ với bốn con trên tay và “một
mảnh tình riêng” trong lòng?
Trên
đỉnh Đèo Ngang, giữa quang cảnh bao la của núi rừng mây nước, phải chăng người quả phụ đã bất chợt cảm thấy hiện ra
trong lòng mình một mối tình thật nhỏ bé và thầm kín, thật ray rứt và thiết
tha. Trước cảnh thiên nhiên xinh đẹp đó, người quả phụ sao lại chẳng nhớ đến nấm
mồ chưa xanh cỏ của người chồng mà mình đã để lại sau lưng nơi kinh đô Huế? Phải
chăng bốn đứa con trên tay và mối tình riêng thầm kín đó đã giúp bà đủ can đảm
để sống thêm được một năm sau khi chồng qua đời?
Nếu đúng là bà đã dùng câu thơ thứ
8: Một mảnh tình riêng ta với ta để nói
lên tình thương nhớ người chồng của mình khi dừng lại trên đỉnh Đèo Ngang, thì
quả thật không có một thứ xúc cảm nào có thể sinh động, sâu sắc và thấm thía hơn
được. Người chồng vẫn còn sống trong lòng bà, đứng cạnh bà trên đỉnh Đèo Ngang.
Các chữ ta với ta có thể là các chữ
hay nhất trong bài thơ, các chữ ấy không
có nghĩa là bà với chính bà, mà là một câu thầm nhủ trong lòng nói với chồng mình
rằng đây là mảnh tình chung giữa chúng
ta.
Mười một thế kỷ trước Bà Huyện Thanh
Quan, Trương Kế nằm thao thức với một niềm đau trong lòng bên cạnh một ngọn đèn
leo lét trong một khoang thuyền ở bến Phong Kiều, và Vương Duy thì ngồi nhìn
những cánh hoa quế héo tàn rơi rụng trong đêm. Nếu chúng ta có thể phỏng đoán
được một chút xót xa nào đó trong lòng người cô phụ trên một đỉnh đèo và niềm đau
của người thư sinh trong khoang thuyền, thì tuyệt nhiên chúng ta không sao đoán
được những gì thật thầm kín trong lòng Vương Duy. Ông quả là người thật kín đáo,
không hé môi cũng chẳng thổ lộ một lời nào, chỉ yên lặng ngắm nhìn những cánh
hoa rụng trong đêm. Phải chăng mùi hương hoa quế và hình ảnh những cánh hoa rơi
đã đưa ông trở về một thời xa xưa nào đó, mà ngay cả tiếng chim hót trong khe
suối một buổi sáng ngày xuân cũng không đủ sức kéo ông trở về với thực tại?
Thật vậy, tất cả đều “phi lý”
trong lòng những người thi nhân: chim hót khi trăng mọc, chùa gióng chuông
trong đêm, trời đất bao la và một nấm mồ nho nhỏ… Phải chăng chỉ có những vần
thơ nói lên những gì thật “phi lý” mới có thể giải bày được những nỗi
niềm ray rứt trong lòng họ mà thôi?
Lời kết
Các bài thơ trên đây đã từng được không
biết bao nhiêu học giả uyên bác, các nhà văn, nhà giáo… dịch hoặc bình giải. Do
đó tác giả bài viết này không khỏi ái ngại khi đưa ra thêm một vài nhận xét riêng
của mình. Dầu sao đi nữa thì người viết cũng không dám tự nhận là những điều do
mình nêu lên là “đúng” hay là “sự thật”, bởi vì một số chỉ
là những sự “phỏng đoán”. Lý do cũng dễ hiểu, bởi vì các câu chuyện đã
quá xưa và tư liệu lịch sử thì thiếu sót. Thế nhưng những sự “phỏng đoán”
ấy không nhất thiết chỉ là những chuyện tưởng tượng vô căn cứ, mà đúng hơn đã
được dựa vào một số dữ kiện cụ thể và một sức mạnh nào đó của sự chú tâm, mà đôi
khi người ta còn gọi là thiền định. Thật vậy thiền định không phải chỉ là cách đi
tìm một cái gì đó cho riêng mình mà còn là một phương tiện mở rộng lòng mình để
hòa nhập với người khác.
Tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đều
phát sinh từ một sự tương tác giữa nhiều nguyên nhân và điều kiện, các hiện tượng
ấy lại tiếp tục trở thành các nguyên nhân và điều kiện khác, làm phát sinh các
hiện tượng khác. Và đấy cũng chính là cách vận hành của thế giới. Sự sai lầm to
lớn nhất đối với sự hiểu biết của con người là tách rời từng sự kiện để phân tích
và tìm hiểu thế giới. Nếu chúng ta tách rời một bài thơ ra khỏi tác giả và bối
cảnh của nó, thì bài thơ sẽ mất hết ý nghĩa, nói cách khác là nếu chỉ biết rung
đùi và thưởng thức một bài thơ thì thật ra chúng ta cũng chỉ thưởng thức những
gì hiện ra trong đầu mình, không nhất thiết phản ảnh những rung động của người
thi nhân. Quên mình để hòa nhập với thi nhân là cách giúp mình đến gần với họ và
hiểu họ, và đồng thời cũng là cách gián tiếp giúp mình phát huy trí tuệ và sự bén
nhạy của con tim của chính mình. Chẳng hạn như nếu hòa nhập được với tâm trạng
của một người quả phụ thì chúng ta mới có thể thấu hiểu được những xót xa trong
lòng họ.
Trong sách vở và báo chí quả không
thiếu những bài bình giải về thi phẩm Điểu Minh Giản của Vương Duy, một số “quả
quyết” rằng bài thơ này là một bài “thơ thiền”, hay ít ra cũng thấm
đượm nhiều “thiền vị”, lý do có thể là vì Vương Duy lúc bước vào tuổi
già đã từ bỏ danh vọng để tu thiền, và bài thơ thì có nội dung khá khúc mắc dễ
khiến một số học giả đoán mò là mang tính cách thiền học. Đôi khi họ còn cho rằng
nội dung bài thơ phản ảnh khái niệm “sắc tức thị không, không tức thị sắc”
(hình tướng là trống không, trống không là hình tướng) trong Tâm Kinh và bản chất
Paramita (Ba-la-mật), tức là tính cách siêu việt – “vượt sang bờ bên
kia” – của trí tuệ Phật Giáo . Quả thật đấy chỉ là những sự thêm thắt mang
tính cách phiêu lưu. Nếu nhìn vào bài thơ Điểu
Minh Giản dưới góc cạnh trên đây, thì chúng ta tất sẽ phải hiểu rằng đấy chỉ
là một sự bám víu và u mê đi ngược lại với giáo lý nhà Phật. Trên đây chỉ là một
thí dụ nhỏ nêu lên cách “tán rộng” của một số học giả, do đó cũng xin
ước mong rằng đối với những người tu tập trong chúng ta cũng nên thận trọng khi
viết lách hay “thuyết giảng”, thật vậy thay vì mang lại sự sáng tỏ cho
kẻ khác thì biết đâu chúng ta cũng có thể vô tình tạo ra thêm sự hoang mang cho
họ.
Hòa nhập với sự đau buồn của một thi
nhân đôi khi cũng có thể làm sống dậy những đau buồn của chính mình. Thật ra thì
đấy cũng chỉ là một trong các nguyên tắc hay phương cách giúp chúng ta phát động
lòng từ bi trong lòng mình đối với kẻ khác và cả chính mình. Mặc dầu cùng đau xót
với người thi nhân thế nhưng chúng ta vẫn có thể rung cảm và thưởng thức những
vần thơ của họ trước một đĩa mứt và một tách trà trong ngày xuân, với điều kiện
là chúng ta phải biết mở rộng lòng mình với họ và với cả chính mình. Chẳng hạn như
thay vì khép kín “một mảnh tình
riêng ta với ta”, thì chúng ta hãy cứ hòa mình với bầu không gian rộng
lớn của cả vũ trụ này:
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Vũ
trụ nghìn phương ta với ta.
Bures-Sur-Yvette,
07.01.14
Hoang Phong
Phụ Lục
Dưới đây là bản chuyển
ngữ tiếng Anh duy nhất của bài thơ Điểu Minh Giản đã được tìm thấy với chữ quế
hoa được dịch là Osmanthus
flowers:
Birds Calling in the Ravine
I’m idle, as Osmanthus flowers fall,
This quiet night in spring, the
hill is empty.
The moon comes out and startles
the birds on the hill,
They don’t stop calling in the spring ravine.
(trích trong Classic Poetry
series, Wang Wei poems, World’s Poetry Archive, 2004, tr.17)
Dưới đây là bản chuyển
ngữ tiếng Pháp của bài thơ Điểu Minh Giản
của một học giả người Nhật là Kôzen Hiroshi,
cựu giáo sư Đại Học Quốc Gia Kyoto, đương kim giáo sư Đại Học Riksumeikan
Kyoto. Trong bản dịch này chữ quế hoa được dịch là hoa của cây quế khâu
(cannalier / cinamom tree):
Les
hommes sont en paix, les fleurs de cannelier
tombent.
Dans
la nuit tranquille, la montagne au printemps est vide,
La
lune qui se lève réveille les oiseaux de la montagne,
Qui chantent par instant dans le torent au printemps.
(trích trong tập san Tìm hiểu văn học Trung Quốc của Pháp: Etudes Chinoises, Trois aspects de la lune dans la poésie Tang: Wang Wei, Li He, Li
Shangyin / Ba
cách tả trăng trong thơ Đường: Vương Duy, Lý Hạ, Lý Thượng Ẩn, vol. XIX, N° 1-2,
2000, tr.162-196)
Cả hai bản
chuyển ngữ trên đây thay vì tìm cách nối hai vế trong câu thứ nhất của bài thơ là
người nhàn và hoa quế rụng, thì lại tách
ra thành hai câu rời nhau mang hai ý nghĩa hoàn toàn không có gì liên hệ với
nhau. Bản tiếng Anh dịch câu này là: Tôi đang
nhàn rỗi, những cách hoa quế rơi; bản tiếng Pháp thì dịch là: Mọi con người đều an bình, các cánh hoa quế
rơi. Trong số các bài dịch sang tiếng Việt đã được tham khảo thì tất cả đều
phạm vào lỗi này, tức giữ nguyên hai vế và không tìm cách chuyển thành một câu nhằm
nói lên một ý nghĩa mạch lạc nào đó. Thế nhưng câu mở đầu này lại là câu quan
trọng nhất, nếu dịch không trung thực và không nói lên được ý nghĩa ẩn chứa
trong câu này thì tất nhiên là các câu sau cũng sẽ trở nên vô nghĩa vì mất hết
tính cách mạch lạc.
Ngoài
ra chữ thời trong câu 4 của cả hai bản dịch trên đây đã được dịch với ý nghĩa
trái ngược nhau: bản tiếng Anh dịch là chim hót không ngừng, bản tiếng Pháp
thì lại dịch là thỉnh thoáng chim mới hót. Điều này cho thấy là các dịch giả không
nắm vững được ý nghĩa của câu kết luận.
Discussion about this post