sư Mã Tổ (709-788) là đệ tử của thiền sư Nam Nhạc Hoài
Nhượng vốn là đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng (638-713).
Số đệ tử ngộ đạo của sư lên tới 139 người, có chỗ
ghi là 84 người được coi là kỷ lục so với tất cả các
thiền sư khác. Nơi sư hoằng pháp là Giang Tây cũng được
mệnh danh là trường thi Phật. Dòng thiền của sư sau này
có những vị nổi tiếng là Hoàng Bá Hy Vận, và kế đó là
Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-866), vị tổ sáng lập tông Lâm Tế
vẫn còn được truyền tiếp cho tới ngày nay. Thiền tông
Trung Hoa là do công lao sáng lập của tổ Bồ Đề Đạt Ma
cho đến Lục tổ Huệ Năng, nhưng kể từ thời hai vị Mã
Tổ và Thạch Đầu thì mới hưng thịnh và có những đường
lối, đặc điểm rõ rệt. Trong khi Mã Tổ khai đường ở
Giang Tây thì Thạch Đầu Hy Thiên hoằng pháp ở Hồ Nam. Hai
vị đó được coi như hai cột trụ của Thiền Tông lúc bấy
giờ. Dòng thiền của Mã Tổ là tông Lâm Tế, còn dòng thiền
của Thạch Đầu là tông Tào Động. “Phật giáo Trung quốc
đời Đường (618-907) được coi là cực thịnh, nhiều tông
phái phát triển mạnh như Thiền tông, Tịnh Độ tông, Luật
tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Mật tông … Nhưng
đến cuối đời Đường thỉ các tông khác đều đi tới
chỗ suy vi, chỉ có Thiền Tông là vẫn thịnh đạt xán lạn”.
(trích: Lịch sử Phật giáo Trung quốc, Thích Thanh Kiểm)
Sau
đây xin giới thiệu một cuốn sách nghiên cứu khá đầy đủ
về thiền sư Mã Tổ.
Tóm
lược sách: “Sun Face Buddha – The Teachings of Ma-tsu and
the Hung Chou School of Ch’an. Tác giả: Cheng Chien Bhikshu.
Nhà xuất bản: Asian Humanities Press- Berkeley, California, 1992.
Tỳ kheo Cheng Chien, vốn người Yugoslavia, tục danh là Mario
Poceski, sanh năm 1964, đã thọ giới tỳ kheo tại Sri Lanka năm
1983.
Tựa
đề cuốn sách được dịch là: “Mặt trời Phật –
Ngữ lục của Mã Tổ và tông phái Thiền Hồng Châu”.
Phần 1: Dẫn
nhập
Trước
khi viết về cuộc đời và pháp môn của Mã Tổ (709-788) tăng
Cheng Chien giới thiệu về sự phát triển Thiền tông tại
Trung Hoa trong thời đại của Mã Tổ. Đời Đường thường
được coi là thời cực thịnh của văn hóa Trung Hoa nhờ sự
tương đối ổn định về chánh trị và kinh tế. Đạo Phật
được du nhập trước đó hơn 500 năm đã phát triển rất
mạnh. Đến thời đó những kinh, luận quan trọng của
Phật giáo đã được dịch ra tiếng Trung Hoa, người dân đã
thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Các tông phái đã bắt đầu
xuất hiện.
Tông
Thiên Thai được coi như xuất hiện trước nhất. Vị sáng
lập ra tông này là Trí Khải (Chih-i) (538-597) ở núi Thiên
Thai. Ngài là đệ tử của Huệ Tư (515-577) và đã thiết lập
một hệ thống đầy đủ bao gồm toàn thể giáo lý đạo
Phật, phối hợp lý, sự, quyền, thiệt, đốn, tiệm thành
một khối. Một tác phẩm quan trọng của Trí Khải là “Ma
Ha Chỉ Quán”. Ảnh hưởng của Trí Khải rất quan trọng
trong sự phát triển Phật giáo, nhất là đối với Hoa Nghiêm
tông và Thiền Tông.
Một
tông phái khác được xuất hiện sau Thiên Thai tông là Hoa
Nghiêm tông, y cứ vào kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sutra). Sơ tổ
ở Trung Hoa là Đỗ Thuận (557-640), nhưng 2 nhân vật chủ yếu
là tổ thứ 2 Trí Nghiêm (Chih-yen) (602-668) và tổ thứ 3 Pháp
Tạng (Fa-tsang) (643-712). Sau đó tổ thứ 4 là Trừng Quán (Ch’eng-kuan)
(738-839) cũng đã có công lớn trong việc truyền bá Hoa Nghiêm
tông, dệ tử của ngài là Tông Mật (Tsung-mi) (780-841) rất
nổi tiếng và là người đã bắc cầu giữa hai tông Thiền
và Hoa Nghiêm. Ảnh hưởng của Hoa Nghiêm tông và Thiền tông
được thấy rõ trong pháp môn của Mã Tổ.
Sự
hình thành của Thiền tông tại Trung Hoa.
Vị
tổ thứ nhất của Thiền tông tại Trung Hoa là Bồ Đề Đạt
Ma (?-532, có nơi ghi là 470-543). Tổ vốn là vị tổ thứ 28
Thiền tông đã từ Ấn Độ qua miền Nam Trung Hoa vào khoảng
cuối thế kỷ thứ 5. Cuộc đời của tổ không được ghi
rõ lắm, tổ có để lại tác phẩm “Thiếu Thất Lục Môn”,
ghi sáu cửa vào động Thiếu thất, tức sáu pháp môn để
vào cửa Thiền. Tổ thứ hai là Huệ Khả (487-593), người
Trung Hoa. Năm 40 tuổi Huệ Khả thọ pháp của tổ Bồ
Đề Dạt Ma và theo tu học 6 năm, được tổ trao cho cuốn
kinh Lăng Già (Lankavatara Sutra) coi như căn bản Phật pháp. Tổ
thứ 3 là Tăng Xán, viết tác phẩm Tín Tâm Minh. (Tổ gặp
một vị sư người Ấn Độ tên Tỳ Ni Đa Lưu Chi sang Trung
Hoa cầu pháp. Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi được truyền tâm ấn và
được tổ khuyên qua phương Nam để tiếp độ chúng sinh,
và sau này được coi là sơ tổ Thiền tông Việt Nam- trích
Tín Tâm Minh nghĩa giải, của Thuần Tâm – Nhựt Quang)
Tổ
thứ 4 là Đạo Tín (580-651). Từ thời Đạo Tín thì lịch
sử Thiền tông đã bắt đầu được ghi chép rõ ràng. Đệ
tử của tổ lên đến 500 người. Đạo pháp của tổ được
đệ tử ghi thành cuốn (Record of the Transmission of the Lankavatara).
Tổ
thứ 5 là Hoàng Nhẫn (601-674). Sư họ Châu, ở tại huyện
Huỳnh Mai. Năm lên 7 được tổ Đạo Tín thu nhận và ở với
tổ 30 năm. Khi tổ Đạo Tín tịch năm 651 thì Hoàng Nhẫn dời
về Huỳnh Mai. Sau này hai pháp môn của Đạo Tín và Hoàng
Nhẫn được gọi là Pháp môn Đông Sơn, là tên núi tổ ở.
Pháp môn của Hoàng Nhẫn được ghi trong Tối thượng thừa
luận ? (Discourse on the Essentials of Mind Cultivation). Nhiều đệ
tử của Hoàng Nhẫn đã chứng ngộ có nhiều người nhưng
nổi tiếng là Thần Tú (Shen-hsui) và Huệ Năng (Hui-neng).
Thần
Tú (606?-706) truyền bá Thiền tông về hướng Bắc, tại kinh
Tràng An và Lạc Dương theo phương pháp tiệm tu, còn Huệ Năng
về phương Nam, tại tỉnh Hồ Nam và Giang Tây theo phương pháp
đốn ngộ. Thần Tú xuất gia năm 20 tuổi theo học kinh, luận,
đến năm 45 tuổi mới đến Huỳnh Mai thọ pháp Hoàng Nhẫn,
và ở đó 6 năm, sau khi được truyền tâm ấn, sư đến trụ
trì ở chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu khoảng năm 676-679, đệ
tử theo học rất đông (có tài liệu ghi hơn 3000 người) và
nổi tiếng, nên đến năm 701 sư được triều đình mời về
Tràng An hoằng pháp. (Khi sư tịch được phong là Đại Thông
thiền sư).
Huệ
Năng (638-713) họ Lư sanh ở Tân Châu, cha mất sớm, làm nghề
bán củi để giúp đỡ mẹ già. Đến năm 25 tuổi thì đến
chùa Đông sơn tại huyện Huỳnh Mai thụ giáo Hoàng Nhẫn.
Sau khi được tổ Hoàng Nhẫn truyền tâm ấn, trao y bát chứng
nhận sư là người kế nghiệp và như vậy là vị tổ Thiền
tông Trung Hoa thứ 6. Sư đi ẩn dật ở miền Nam trong 16 năm.
Khi biết thời cơ đã tới, sư đến chùa Pháp Tánh tại Quảng
Châu. Nơi đây sư mới chánh thức thọ giới tỳ kheo từ luật
sư Trí Quang. Đến năm 676 tổ dời về chùa Bửu Lâm ở Tào
Khê và hoằng pháp tại đó khoảng 40 năm cho đến khi tịch.
Pháp môn và cuộc đời của tổ được ghi lại trong cuốn
Pháp Bảo Đàn kinh. Tổ truyền pháp Vô Niệm, và Định Huệ
đồng tu. Tổ nhấn mạnh cần thấy tự tánh, tức kiến tánh,
bằng pháp tu vô tướng, vô trụ và vô niệm. Công lao truyền
dựng pháp môn của Lục tổ Huệ Năng phần lớn là do Thần
Hội Hà Trạch (Shen-Hui, 670-762 hoặc 684-758). Những đệ tử
nổi tiếng của Huệ Năng gồm có: Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744),
Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713) trước tác tập Chứng Đạo Ca,
Thanh Nguyền Hành Tư (660-740), Nam Dương Huệ Trung sau này là
Quốc sư (?-775).
Ngoài
tông chánh thống kể trên còn có vài tông phái Thiền khác
nhưng không phát triển được bao lâu và đã suy tàn. Đó là
thiền phái Ngưu Đầu do Pháp Dung (594-657) sáng lập. Pháp Dung
được coi như là đệ tử của Tứ tổ Đạo Tín, trụ trì
tại núi Ngưu Đầu (có tài liệu khác ghi Pháp Dung là đệ
tử của tổ Hoàng Nhẫn). Ngoài ra có tông Tứ Xuyên mà đại
diện là sư (Wu-hsiang) và sư (Wu-chu).
Cuộc
đời và pháp môn Mã Tổ
Sư
họ Mã, sanh năm 709 tại Hán Châu gần biên giới Tây Tạng.
Từ hồi còn nhỏ sư đã xuất gia với hòa thượng Đường
(Ch’u-chi) (665-732), hòa thượng Đường vốn là đệ tử của
(Chih-shen) (609-702) nguyên là một đệ tử của Ngũ tổ Hoàng
Nhẫn.
Trong
một tài liệu Tông Mật (Tsung-mi) có ghi là Mã Tổ theo học
hòa thượng Kim có pháp danh là (Wu-hsiang), người Đại Hàn
(684-762) mà cũng là đệ tử của hòa thượng Đường. Hai
hòa thượng Đường và Kim đều là những vị Thiền sư nổi
tiếng thời đó. Hòa thượng Kim dạy pháp 3 câu là: không
nhớ (no-remembering), không nghĩ (no-thought), không quên (no-forgetting)
liên quan tới giới, định, huệ của các kinh Phật. Mục đích
của “ba không” là không nhớ những quá khứ, không lo nghĩ
về tương lai để chuyên chú tu tập. Do đó nên tác giả Cheng
Chien cho rằng có lẽ Mã Tổ chịu nhiều ảnh hưởng của
phái thiền Tứ Xuyên của hoà thượng Kim hơn là của thiền
sư Hoài Nhượng sau này.
Năm
738 Mã Tổ thọ giới tỳ kheo với luật sư Viên ở Du Châu
và sau đó đã dời Tứ Xuyên đến vùng Trung của Trung Hoa.
Khoảng năm 738 đến 742 sư tới Hoành Nhạc ? (Heng-yueh) và
chuyên tu thiền định theo thiền Bắc phái, vì sư thường
hay nhắc tới kinh Lăng Già vốn được áp dụng tại Bắc
phái, thay vì theo kinh Kim Cang thường được nhắc tới tại
Nam phái. Vấn đề đó không được ghi rõ ràng lắm.
Khi
ở Hoành Nhạc thì Mã tổ có gặp và theo học thiền sư Hoài
Nhượng trong 10 năm. Sau khi rời Hoài Nhượng khoảng năm 750
thì sư du phương để tiếp tục tu tập và giáo hóa. Đó là
thời mà Trung Hoa có nhiều xáo trộn trong xã hội vì có loạn
An Lộc Sơn và nhà Đường bắt đầu suy đồi. Vào khoảng
năm 776-779 Mã Tổ đến Kiến Dương, kế dời đến núi Cung
Đông Nam Dương cho đến khi sư tịch năm 788. Tại đó học
giả các nơi tụ hội về rất đông. Số đệ tử ngộ đạo
lên đến 139 người – có tài liệu ghi 84 người – hơn tất
cả những thiền sư khác.
Dòng
thiền của Mã Tổ sau này được gọi là phái Hồng Châu,
là nơi mà Mã Tổ và các đệ tử truyền bá. Pháp môn này
được các đệ tử truyền bá khắp Trung Hoa trong thế kỷ
thứ 9. Mã Tổ cùng với Thạch Đầu Hy Thiên thời đó là
hai vị đã đem lại cho Thiền tông Trung Hoa sự phát triển
lớn mạnh đời Đường.
Mối
liên quan giữa Mã Tổ và Thạch Đầu rất là đặc biệt.
Không có tài liệu nào ghi việc gặp mặt của hai vị đó
nhưng họ rất quý trọng nhau. Nhiều tăng đã theo học cả
hai vị. Nhiều khi vị này lại giới thiệu đệ tử của mình
qua tham vấn vị kia. Có thể nói là Thiền tông đã bước
qua giai đoạn mới trong giai đoạn này, có tính cách cởi mở
và trực tiếp. Những phương pháp giảng dạy như quát, đánh,
những câu hỏi như bí hiểm là do ảnh hưởng của Mã Tổ.
Có thể nói rằng kể từ thế kỷ thứ chín cho đến nay các
vị đại thiền sư đều là đệ tử tinh thần của Mã Tổ
và Thạch Đầu.
Căn
bản của pháp môn Mã Tổ là thuyết Như Lai Tạng (tathagatagarbha).
Thuyết này đã được nêu lên trong nhiều kinh điển, đặc
biệt là kinh Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai Xuất Hiện. Thuyết Như
Lai Tạng cũng có được nói đến trong kinh Lăng Già.
Theo
thuyết Như Lai Tạng thì tất cả các chúng sinh đều có Chân
Tâm (True Mind) mà vốn xưa nay sáng suốt, thanh tịnh nhưng thường
bị vọng tưởng che lấp. Tuy cái Chân Tâm hoặc Phật tánh
(Buddha nature) đó ngoài sự nghĩ lường và không có dấu vết
gì, nhưng tùy duyên có thể biểu hiện thành mọi thứ. Cái
đặc tính năng động đó của Chân Tâm rất là quan trọng
đối với Mã Tổ vì sư cho rằng việc chứng ngộ là do nhận
được những biểu hiện đó. Đạo không phải là những nguyên
tắc siêu hình trừu tượng, mà những lời nói, ý nghĩ và
hành động của mình đều là sự biểu hiện của Chân Tâm.
Sự thật thưòng có mặt trong tất cả mọi thứ – là tất
cả mọi thứ – mọi thứ đây có nghĩa là mọi pháp, chỉ
vì chúng ta chìm đắm trong si mê nên không nhận ra điều đó.
Chúng
sanh không biết trở về nguồn nên chỉ biết chạy theo danh
và tướng, do đó vọng tưởng khởi lên và tạo ra muôn nghiệp.
Vì vậy mê là mê cái bản tâm, và ngộ chỉ là ngộ cái bản
tâm.
Vì
Chân Tâm thì ai cũng có cho nên nói không phải tu mà được,
cũng có nghĩa là không có thứ lớp. Tuy vậy vì chúng sanh
quá si mê nên phải nói có nhiều pháp tu. Vọng tưởng nói
đây là tâm phân biệt tốt và xấu, đúng và sai, phàm và
thánh; vọng tưởng là những ý nghĩ hai bên, tạo ra những
kiến chấp và coi đó là thật. Vì vậy thay vì lo diệt vọng
thì chỉ cần thấy bản chất của chúng là không. Tu là buông
xả những thói quen tạo mọi thành kiến và để cho cái bản
thể tự biểu hiện.
Câu
mà Mã Tổ thường chỉ rõ pháp tu đó là : “Tâm bình thường
là Đạo”. Tâm bình thường là tâm không chấp những điều
như là tốt và xấu, đúng và sai, thường và vô thường,
phàm và thánh; đó là cái tâm không chấp, cũng không xả.
Câu chuyện sau đây giữa Nam Tuyền (747-834) và Triệu Châu
(778-897) chỉ rõ về nghĩa “Tâm bình thường”:
Triệu
Châu hỏi Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?”
Nam
Tuyền đáp: “Tâm bình thường là đạo”
–
Lại có thể nhằm tiến đến chăng?
–
Nghĩ nhằm tiến đến là trái.
–
Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?
–
Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác,
không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi,
ví như hư không, thênh thang rỗng rang, đâu thể gắng nói
phải quấy?
(trích
từ Trung Hoa chư thiền đức hành trạng, của H.T. Thích Thanh
Từ)
Pháp
môn của Mã Tổ được coi thuộc truyền thống “đốn ngộ”,
tức là khác với “tiệm ngộ”. Nhưng trong khi công việc
tu tập hàng ngày thì vẫn phải có sự giảng giải, chỉ dẫn
nên không sao tránh khỏi việc dẫn dắt đệ tử từng bước.
Các tài liệu không ghi rõ sự hướng dẫn tu tập ra sao nhưng
theo các ngữ lục của các đệ tử thời sau này thì vẫn
có sự thờ phụng, tụng kinh, học hỏi, giới luật và ngồi
thiền. Chỉ sau khi các đệ tử đã có trình độ căn bản
thì mới áp dụng pháp chỉ thẳng của Thiền tông. Trong ngữ
lục của Mã Tổ cũng có nói tới các kinh điển như Lăng
Già, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa … Các
thiền sư chỉ nhấn mạnh đến việc đừng quá chấp chặt
vào kinh điển rồi có những quan điểm sai lạc mà rất thịnh
hành ở nhà Đường thời đó.
Pháp
môn Thiền tông đều được căn cứ từ các kinh điển. Thí
dụ như lời giảng “tức tâm tức Phật” cũng được thấy
trong đoạn sau đây ở kinh Hoa Nghiêm:
“Cũng
vậy, trí huệ của Như Lai vô lượng, vô ngại có thể lợi
ích khắp tất cả chúng sanh, đầy đủ trong thân chúng sanh.
Chỉ vì hàng phàm phu vọng tưởng chấp trước nên chẳng
biết, chẳng hay, chẳng được lợi ích.
Bấy
giờ đức Như Lai do trí nhãn thanh tịnh, vô ngại xem khắp
pháp giới tất cả chúng sanh mà nói rằng: Lạ thay, lạ thay!
Tại sao các chúng sanh này có đủ trí huệ Như Lai, mà ngu
si mê lầm chẳng hay, chẳng thấy. Ta nên đem thánh đạo này
dạy cho họ lìa hẳn vọng tưởng chấp trước. Từ trong thân,
họ thấy được trí huệ Như Lai quảng đại, như Phật không
khác.” (Phẩm Như Lai xuất hiện, Kinh Hoa Nghiêm, tập 3, trang
408)
và
trong đoạn khác:
“Như
tâm, Phật cũng vậy
Như
Phật, chúng sanh đồng
Phải
biết Phật cùng tâm
Thể
tánh đều vô tận”
(Phẩm
Dạ Ma Cung, tập 1, trang 661)
Câu
“Phi tâm, phi Phật” cũng thấy trong kinh:
“Chúng
sanh vọng phân biệt,
Là
Phật, là thế giới,
Người
liễu đạt pháp tánh
Không
Phật, không thế giới”
(Phẩm
Đâu Suất kệ tán, tập 2, trang 74)
và
về câu “chẳng mắc danh tự”:
“
Vì Bồ Tát này nghĩ rằng: Tôi phải quán sát tất cả các
pháp như huyễn, chư Phật như bóng, Bồ Tát hạnh như giấc
mơ, Phật thuyết pháp như vang. Tất cả thế giới như hóa
…”
(Phẩm
Thập hạnh, tập 1, trang 686)
(Những
đoạn trích này đều từ bản dịch kinh Hoa Nghiêm của hoà
thượng Thích Trí Tịnh)
Như
vậy những lời giảng dạy của Thiền tông không có sai khác
với kinh điển nhưng chỉ khác biệt về cách trình bày và
áp dụng trong việc tu tập cũng như đời sống hàng ngày.
Các thiền sư giảng dạy một cách tự do, không câu nệ mà
mục đích là giúp cho đệ tử vượt khỏi vọng tưởng và
đạt tới giải thoát. Vì vậy những lời nói rất là sống
động, mạnh mẽ, đi thẳng vào tâm can đệ tử. Các ngài
không dùng những lý thuyết trừu tượng hoặc mỹ từ, như
vậy các đệ tử có thể tập trung tâm trí trực tiếp vào
việc thấm nhuần trí huệ vô biên của đức Phật.
Truyền
thống thiền viện
Theo
truyền thống của đức Phật, những bài pháp thường là
phương tiện tùy theo trường hợp để dẫn dắt đệ tử
qua những chướng ngại để vượt qua những đám mây vô minh
tới ánh mặt trời trí huệ. Vì vậy không cần một hệ thống
cố định trong việc giáo hóa mà chỉ chú trọng việc thực
hành và kinh nghiệm. Truyền thống này cũng được áp dụng
trong việc truyền bá Thiền tông. Không như các tông phái khác
thường dùng một học thuyết cố định để giáo hóa, các
thiền sư từ thời Mã Tổ trở đi đều tùy căn cơ đệ tử
mà dùng những phương pháp khác nhau để giảng dạy. Như thiền
sư Lâm Tế có nói: “Sơn tăng chẳng có một pháp cho người,
chỉ là trị bệnh mở trói”. Pháp môn Thiền tông chỉ có
thể hiểu được trong sự liên hệ giữa thầy và đệ tử,
và chính cái đặc tính linh động đó đã làm cho Thiền tông
có sức mạnh. Cho nên muốn hiểu Thiền tông thì cần biết
rõ bối cảnh xã hội, văn hóa, nhất là cơ chế hoạt động
của Thiền tông lúc đó. Điều mà các học giả phương Tây
thường mắc phải là hay suy nghĩ theo hoàn cảnh hiện tại
mà tìm hiểu các pháp môn Thiền cho nên có nhiều hiểu biết
sai lạc.
Việc
tổ chức thiền viện ở thế kỷ thứ tám và chín thì không
có nhiều tài liệu ghi chép. Chỉ sau khi thiền sư Bá Trượng
Hoài Hải (724-814) soạn ra bộ quy tắc trong nhà thiền, gọi
là “Bá Trượng thanh quy” thì việc tổ chức các thiền
viện được ấn định rõ ràng và được áp dụng mọi nơi.
Có thể nói rằng từ lúc đó Thiền tông đã có một tổ
chức khác với các tông phái khác trong Phật giáo. Một điểm
đặc biệt là theo giới luật của Tiểu thừa và Đại thừa
thì các tăng không được phép trồng trọt, nhưng Bá Trượng
lại bắt buộc các tăng phải trồng trọt để thiền viện
được tự túc về lương thực. Phần vì lúc đó số tăng
rất đông cho nên không thể chỉ trông chờ bá tánh cung cấp
được. Việc tổ chức chư tăng rất chu đáo, chỉ rõ từng
chi tiết trong việc ăn, ở, tu tập, công tác cùng những kỷ
luật rất nghiêm nghị. Các tăng có quyền đi đến bất cứ
thiền viện nào để tham vấn, học hỏi. Có biết rõ về
bối cảnh sinh hoạt đó thì mới hiểu được cách giảng
dạy đặc thù của các thiền sư.
Tông
Mật luận về phái Thiền Hồng Châu
Tông
Mật Khuê Phong (780-841), người Quảng Châu tỉnh Tứ Xuyên.
Năm 25 tuổi Tông Mật theo học thiền sư Đạo Viên thuộc
Thiền tông. Sau đó sư rời đi miền Trung năm 812 và là đệ
tử sư Trừng Quán, vị tổ thứ 4 tông Hoa Nghiêm. Sư viết
rất nhiều tác phẩm về kinh và luận. Sư là tổ thứ
5 tông Hoa Nghiêm và cũng là thiền sư của Thiền tông cho nên
những bài viết của sư bao gồm cả hai tông. Tài liệu về
Thiền tông thuộc thế kỷ thứ 8 thường căn cứ theo sách
của Tôn Mật. Tác phẩm chính thường được nhắc tới là:
“Thiền Nguyên Chư Thuyên Đô Tập”
Tông
Mật viết: “Pháp môn của Mã Tổ- cũng được gọi là phái
Hồng Châu là nơi Mã Tổ, Bá Truợng đặt thiền viện- dạy
rằng tất cả các pháp đều là đạo, là biểu hiện của
Phật tánh, như vậy việc tu tập là để cho tâm được biểu
hiện một cách tự nhiên.
Tự
tánh của muôn pháp thì không hình tướng, không động, không
thể diễn tả bằng cách nào được, không phàm không thánh,
không nhân không quả, không thiện không ác. Nhưng khi nó biểu
hiện thì có nhiều thứ, là phàm là thánh, có hình có tướng
… Cái mà đã tạo ra nói năng, động tác, tham, sân, từ bi,
nhẫn nhục, thiện, ác, khổ, vui … chính là Phật tánh của
chúng sanh. Đó là bản Phật, và ngoài cái đó ra không có
Phật nào khác. Cho nên không thể khởi tâm để tu Đạo được.
Đạo là tâm, không thể đem tâm để tu tâm. Không đoạn,
không tu, chỉ cần tự tại, đó là giải thoát. Tánh như hư
không, không tăng không giảm. Đâu cần phải làm cho nó đầy
đủ. Chỉ tùy thời, tùy nơi ngưng tạo nghiệp. Đây
tức là chân ngộ, chân tu, chân chứng.”
Nhưng
nếu chỉ quá chú trọng về khía cạnh năng động của Phật
tánh thì có thể sẽ bỏ sót phần bản thể. Khi Chân tâm
biểu hiện ra do duyên cảnh thì nó vẫn có cái chức năng
cố hữu của nó, đó là điều mà có thể phái Hồng Châu
sơ sót chăng.
Tông
Mật viết: “Bản chất của Chân Tâm có hai chức năng: đó
là chức năng cố hữu của bản thể và chức năng tùy duyên
mà biểu hiện. Có thể ví như tấm gương. Thể chất của
cái gương coi như bản chất của tự tánh, cái tính sáng chiếu
của gương là chức năng của cái gương. Những hình ảnh
phản chiếu trong gương là chức năng tùy duyên biểu hiện.
Hình ảnh hiện ra trong gương thì có nhiều nhưng tính sáng
chiếu thì không thay đổi. Cái hằng biết của tâm là cái
chức năng của tự tánh, còn cái khả năng nói năng , phân
biệt, hành động … là tùy duyên mà có. Như vậy, khi phái
Hồng Châu chỉ nhấn mạnh về khả năng biết nói năng v..v..
thì đã bỏ sót cái chức năng cố hữu của tự tánh.”
Vì
phái Hồng Châu cho rằng “cái bản chất của tâm không thể
chỉ tới được, mà chỉ khi cái khả năng nói năng… biểu
hiện thì mới thấy được Phật tánh”. Tông Mật cho rằng
đó là sự thiếu sót. Dù rằng thể và dụng đều là những
khía cạnh của một thực tại, nhưng cùng lúc chúng khác nhau
về phương diện quy ước. Tông Mật viết: “Bây giờ phái
Hồng Châu nói rằng sân và si, giới và định đều là Phật
tánh. Vì họ chú trọng về chức năng nên không phân biệt
vô minh và giác ngộ. Ví như khi gió ngưng, sau khi ngộ rồi
thì những vọng tưởng tự ngừng giống như sóng tự lặng.
Thân và tâm sẽ thể hiện định và huệ, như vậy hành giả
sẽ lần lần được giải thoát … Phái Hồng Châu thường
cho rằng tham, sân, từ bi và phước báo cũng đều là Phật
tánh, như vậy đâu có gì sai khác? Như vậy cũng như cho rằng
tánh ướt của nước không có thay đổi, nhưng họ không thấy
rằng có sự khác biệt lớn giữa con tầu đang đi trên
mặt nước và con tầu đang chìm xuống đáy. Như vậy phái
này đã gần kề đốn ngộ nhưng không đạt tới được,
về việc tiệm tu cũng bị hiểu lầm.”
Tác
giả cho rằng có thể nói là đứng về phương diện cứu
cánh thì muôn pháp đều là sự thể hiện của Chân Tâm và
vô minh và giác ngộ đều cùng từ một gốc mà ra, nhưng đứng
về phương diện quy ước thì thật có sự khác biệt lớn
lao giữa vô minh và giác ngộ, chánh và tà, và luật nhân quả
vẫn rành rành. Chỉ đứng về một phương diện và nhận
xét về muôn pháp thì chỉ có cái nhìn lệch lạc, không thấy
được sự hòa hợp của toàn thể. Điều đó là sự chướng
ngại cho sự tu hành khi biết rằng không có có gì phải tu,
nhưng thực tế cần phải có sự tu hành. Chính sự chướng
ngại đó đã là động lực để sau này Thiền tông phải
vận dụng để giải quyết theo thực tế. Tông Mật cho rằng
điểm thiếu sót của phái Hồng Châu là quá chú trọng về
phương diện cứu cánh mà không chú ý tới điều thực tế
quy ước.
Nhưng
tác giả cũng không biết chắc là những chỉ trích của Tông
Mật là nhắm vào Mã Tổ hay là vào những đệ tử sau này
đã hiểu lầm ý của Mã Tổ. Thực ra trong nhiều đoạn ghi
lại pháp môn của những thiền sư phái Hồng Châu cũng có
nhiều sai lạc, nhưng cũng có nhiều đoạn ghi nhiều thiền
sư phái đó có giải thích rõ ràng giống như những chỉ trích
của Tông Mật. Như vậy chúng ta chỉ có thể đoán rằng nhiều
đệ tử ghi lại những lời của các thiền sư không đúng
hẳn và họ đã áp dụng một cách sai lạc. Nhiều thiền sư
cuối đời Đường đã than phiền là nhiều thầy đã đi lầm
đường. (Ghi chú: xin coi Lâm Tế ngữ lục để thấy rõ tổ
mắng nhiếc không tiếc lời về những sai lầm của những
“lão trọc” ) Dầu sao những chỉ trích của Tông Mật cũng
giúp ích cho chúng ta lưu ý và hiểu rõ hơn về các pháp môn
của các thiền sư. Tác giả kết luận trong phần dẫn nhập
là: dầu các câu như “không gì không phải là Đạo”, “không
có vọng tưởng để trừ” rất hấp dẫn về lý, và đúng
với tông môn cứu cánh của tổ Bồ Đề Đạt Ma nhưng cũng
cần phải thấy rõ những thọ cảm bất thường, những suy
tư mông lung cần phải giải quyết.
Phần 2: Ngữ
lục của Mã Tổ
Phần
này trong cuốn sách rất dài, ghi những câu chuyện theo những
tài liệu được truyền lại khi Mã Tổ giảng dạy các đệ
tử. Nhiều cuốn sách của các tác giả khác cũng đã dịch
như vậy, nên chỉ xin trích sau đây một vài bài thôi.
Một
hôm Sư dạy chúng:
–
Các ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức
là tâm Phật. Tổ Đạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp
Thượng thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại
dẫn kinh Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi
điên đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có,
nên kinh Lăng-già nói: “Phật nói tâm là chủ, cửa không là
cửa pháp.” (Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàm
người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng
có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện
chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có
tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều
là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm
không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các
ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không
có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh
ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng
sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm
mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,
đâu còn có việc gì.
Các
ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Đương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Đất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Một
hôm Sư dạy chúng:
–
Đạo không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm?
– Có tâm sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm.
Nếu muốn hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo.
Sao gọi là tâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi,
không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh
nói: “Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền,
là hạnh Bồ-tát.” Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm,
ứng cơ tiếp vật đều là đạo. Đạo tức là pháp giới,
cho đến diệu dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới.
Nếu chẳng phải vậy, tại sao nói “pháp môn tâm địa”, tại
sao nói “vô tận đăng”? Tất cả pháp đều là pháp của tâm,
tất cả tên đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm
sanh, tâm là cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: “Biết tâm đạt
cội nguồn nên hiệu là Sa-môn.” Tên đồng, nghĩa đồng, tất
cả pháp đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu
ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập
pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,
lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp
trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,
toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại
của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu
mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà
bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói
đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu
các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,
dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn
là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,
thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu
chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật
pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân
như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy
là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: “Chỗ
chỗ nơi nơi đều có Phật.” Phật là năng nhân, có trí tuệ
khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng
sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v… tình chấp
phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không
gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý
đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không
diệt. Đại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất
triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,
hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như
trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc
chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của
vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,
nên nói: “Như không chẳng chỗ nương.” Nghĩa tâm sanh diệt,
nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật
tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh
văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu
đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,
dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.
Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm
mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ
chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không
trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền
trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp
tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi
tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp
đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh
huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng
thông.
*
Một
đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư
hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí
Tạng thưa:- Nên cúng dường.
Hoài
Hải thưa:- Nên tu hành.
Phổ
Nguyện phủi áo ra đi.
Sư
bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện
vượt ngoài sự vật.
*
Có
vị Tăng hỏi:
–
Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư
từ Ấn Độ sang?
Sư
đáp:
–
Hôm nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến
hỏi Trí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
Trí
Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăng
đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí
Tạng hỏi:
–
Hôm nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư
huynh Hải.
Tăng
đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Đến chỗ ấy tôi cũng
chẳng hội.
Tăng
trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu
hắc.
*
Huệ
Hải đến tham vấn Mã Tổ.
Mã
Tổ hỏi:- Từ đâu đến?
Huệ
Hải thưa:- Ở Việt Châu chùa Đại Vân đến.
–
Đến đây tính cầu việc gì?
–
Đến cầu Phật pháp.
–
Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái
gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?
Huệ
Hải lễ bái, thưa:- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ
Hải?
–
Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất
cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu
bên ngoài.
Ngay
câu này, Huệ Hải tự nhận bản tâm không do hiểu biết,
vui mừng lễ tạ.
*
Lúc
còn tại gia, Huệ Tạng chuyên nghề săn bắn, không thích gặp
các nhà tu. Một hôm, nhân đuổi bầy nai chạy qua trước am
Mã Tổ, gặp Mã Tổ đứng trước.
Huệ
Tạng hỏi:- Hòa thượng thấy bầy nai chạy qua đây chăng?
Mã
Tổ hỏi lại:- Chú là người gì?
–
Thợ săn.
–
Chú bắn giỏi không?
–
Bắn giỏi.
–
Một mũi tên chú bắn được mấy con?
–
Một mũi bắn được một con.
–
Chú bắn không giỏi.
–
Hòa thượng bắn giỏi không?
–
Bắn giỏi.
–
Một mũi tên Hòa thượng bắn được mấy con?
–
Một mũi tên bắn được một bầy.
–
Sanh mạng chúng nó, đâu nên bắn một bầy.
–
Chú đã biết như thế, sao không tự bắn?
–
Nếu dạy tôi bắn tức không có chỗ hạ thủ.
–
Chú này phiền não vô minh nhiều kiếp, ngày nay chóng dứt.
Ngay
khi đó, Huệ Tạng ném cung bẻ tên, tự lấy dao cạo tóc,
theo Mã Tổ xuất gia.
Một
hôm, Huệ Tạng làm việc ở nhà trù, Mã Tổ xuống hỏi:
–
Làm việc gì?
Huệ
Tạng thưa:- Chăn trâu.
–
Làm sao chăn?
–
Một khi vào cỏ, bèn nắm mũi kéo lại.
–
Con thật là chăn trâu.
*
Có
vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Mã
Tổ đáp:- Vì vỗ con nít khóc.
–
Con nít nín rồi thì thế nào?
–
Phi tâm phi Phật.
–
Người trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
–
Nói với y là “phi vật”.
–
Khi chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
– Hãy dạy y thể hội đại đạo
*
(Những
đoạn dịch trong phần 2 trích từ “Trung Hoa chư thiền đức
hành trạng” của HT Thích Thanh Từ)
Phần 3: Các
đệ tử của Mã Tổ
Phần
này ghi ngữ lục của một số đệ tử của Mã Tổ. Những
ngữ lục này bằng tiếng Việt có thể được tham khảo trong
các cuốn “Trung Hoa chư thiền đức hành trạng” của HT
Thích Thanh Từ.
–
Hsi-t’ang Chih-tsang – Tây Đường Trí Tạng (734-814)
–
Pai-chang Huai-hai – Bá Trượng Hoài Hải
–
Nan-ch’uan P’u-yuan – Nam Tuyền Phổ Nguyện (747-834)
–
Ta-chu Hui-hai – Đại Châu Huệ Hải
–
Shi-kung Hui-tsang – Thạch Củng Huệ Tạng
–
Ma-ku Pao-ch’e – Ma Cốc Bảo Triệt
–
Ta-mei Fa-ch’ang – Đại Mai Pháp Thường
–
Fen-chou Wu-yeh – Phần Châu Vô Nghiệp (761-823)
–
Wu-tai Yin-feng – Đặng Ẩn Phong ?
–
Hung-chou Shui-lao – Hằng Châu Thiên Long
–
Layman P’ang-yun – cư sĩ Bàng Uẩn (?-808)
–
Kuei-tsung Chih-ch’ang – Quy Tông Trí Thường
Đến
đây là hết phần tóm lược cuốn sách của tỳ kheo Cheng
Chien.
*
Ghi
chú:
1.
Cuốn sách Sun Face Buddha không giới thiệu nhiều về
tác giả nên không rõ tác giả tu hành theo pháp môn nào. Chỉ
biết là tác giả đã thọ giới tỳ kheo tại Sri Lanka năm
1983. Theo cuốn sách này và cuốn thứ hai là “Manifestation
of the Tathagata” (Phẩm Như Lai xuất hiện) trích trong kinh Hoa
Nghiêm thì tác giả chuyên về tông Hoa Nghiêm.
2.
Tác giả trình bày nhiều về Tông Mật Khuê Phong, vị tổ
thứ năm của tông Hoa Nghiêm, đặc biệt là tác phẩm “Thiền
Nguyên Chư Thuyên Đô Tập”. Tông Mật theo học các thiền
sư Đạo Viên, Kinh Nam Trương, Thần Chiếu, khoảng 7 năm, sau
đó là đệ tử của Trừng Quán, vị tổ thứ tư tông Hoa
Nghiêm. Tông Mật thông thạo “ba tạng giáo điển, phối hợp
cả giáo lý gồm Kinh, Luật, Luận và Thiền” (trích “Nguồn
Thiền giảng giải” của HT Thích Thanh Từ). Tác giả Cheng
Chien đã trích dẫn trong cuốn sách trên những điểm Tông
Mật chỉ trích Thiền Tông. Tông Mật chỉ rõ đường lối
tu Thiền theo ý kiến của sư: Thiền Giáo song tu, Biết
vọng là tu, Vọng niệm hết sạch là tu thành công …
3.
Tông Mật cùng thời với tổ Lâm Tế, đầu thế kỷ thứ
chín. Pháp môn thiền của Tông Mật không theo đường lối
tu hành của tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lục tổ Huệ Năng, cho đến
Lâm Tế. Vấn đề không phải là so sánh pháp môn nào hay hoặc
dở, vì tùy căn cơ mỗi người, nhưng là để phân biệt cho
rõ ràng. Pháp môn Thiền của một vị tổ Hoa Nghiêm tông đề
ra không giống pháp môn của các vị tổ Thiền tông thì cũng
là điều tự nhiên.
Discussion about this post