“THAM ÁI” QUA LĂNG KÍNH PHẬT GIÁO
Trí Giải
Theo quan điểm của Phật giáo “hạnh phúc” là sự
đoạn trừ tâm tham ái, để hiểu rõ vấn đề này, người viết xin chia sẻ quý vị quan
điểm này như sau:
Chúng
ta đang sống trong cõi Ta-bà như mảnh vườn hoang luôn bị chế ngự bởi dục vọng
khổ đau, bệnh tật, sầu hận, chết chóc… Con người bao giờ cũng muốn vươn lên từ
đời sống thấp hèn để tìm một cái gì đó cao đẹp và an lạc hơn đằng sau bức tường
đầy sự hấp dẫn của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà con người cảm nhận
qua tri giác hay còn gọi là tham ái.
Tham
ái là gì? Chữ “ái” là sự yêu mến (taṇhā), sự thèm khát, chữ ái ở đây là chỉ cho
lòng ham muốn qua cảm thọ, ái chính là nguồn gốc của sự sinh tử luân hồi. Có
sáu ái xứ: ái sắc, ái thính, ái hương, ái vị, ái xúc, ái pháp. Ái nói cho đủ là
ái dục sự ham muốn của con người. Ngũ dục này làm cho con người dong ruổi mãi
để tìm cầu, khiến cho tâm hồn không có điểm dừng nghỉ, như mặt hồ nước gợn sóng
lăn tăn mãi không bao giờ phẳng lặng. Trong cuộc sống vô thường đầy huyễn mộng
không có gì bền chắc, chúng ta mau thức tỉnh tu tâm để tìm ra con đường giải
thoát:
tâm quán niệm kiếp vô thường Thân
người giả tạm giống hạt sương Kiếp
người chỉ sống trong hơi thở Tu
mau kẻo trễ, tỉnh mộng trường (Trí Giải)
Hạnh
phúc đến với những ai có niềm tin vững chắc rằng có cái gì đó hướng thiện để
cho cuộc sống có ý nghĩa. Con đường hướng thiện ấy chính là quay về với đạo
Phật, là con đường đưa đến hạnh phúc cho chúng ta ngay trong kiếp sống hiện
tại, mang lại hạnh phúc cho mình và cho người. Đó là mục đích chính của đạo
Phật hướng dẫn cho chúng ta tiêu diệt tham ái để đạt đến Niết bàn thực tại:
người tham ái thật thâm sâu Bao
năm dong ruổi mãi tìm cầu Mang
nặng nghiệp trần nơi tâm thức Luân
hồi lục đạo chịu khổ đau (Trí Giải)
Muốn
đạt được hạnh phúc chân thật miên viễn đòi hỏi chúng ta phải có sự hành trì
thâm hậu, phải có ý thức quán chiếu rằng mọi sự vật, hiện tượng (các Pháp) là
do duyên giả hợp thành, chúng ta càng bám víu vào thì càng đau khổ:
trụ, hoại, không… bởi do duyên Nên
đừng trói buộc sinh não phiền Có
hợp, có tan, thành chân lý Sống
kiếp vô thường vẫn an nhiên (Trí Giải)
Chúng
ta cần thực tập quán chiếu biết đủ (thiểu dục tri túc) thì tâm hồn mới an lạc,
phải luôn ý thức rằng tiền tài vật chất chỉ là phương tiện sống, không phải là
mục đích vĩ đại của tâm hồn. Cái chúng ta cần đó là một tâm hồn luôn nhẹ nhàng
và an lạc không bị trói buộc vào trần cảnh:
đi giữa chốn hồng trần Tiền
tài, danh vọng phù vân ở đời Ví
như sóng biển ngoài khơi Hôn
vào bãi cát, hợp rồi lại tan Bao
năm gói mỏi lang thang Nay
dừng chân nghỉ nhẹ nhàng an vui (Trí Giải)
Vấn
đề tìm cầu sự giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống hiện tại là mục đích của
tối thượng của đạo Phật, là suối nguồn hạnh phúc cho hành giả tu tập. Theo quan
điểm của Phật giáo, hạnh phúc không phải nhiều tiền, nhiều bạc, ngọc ngà châu
báu. Hạnh phúc không phải đặt chân vào chốn lâu đài lộng lẫy kiêu sa, hay cung
vàng điện ngọc. Những thứ vật chất giả tạm, phù du này đức Phật và Phật Hoàng
Trần Nhân Tông đã từ bỏ những thứ đó như bỏ một đôi dép rách để đi tìm một cuộc
sống hạnh phúc nơi tự tâm. Bởi vì những thứ ngũ dục tham ái đó là tác nhân
khiến tâm của con người quay cuồng, không biết dừng nghỉ và tạo thêm nhiều khổ
đau. Hạnh phúc đối với những ai biết quay về với chánh Đạo và thực hành theo
giáo lý của đức Phật để tìm lại nguồn hạnh phúc chân thật cho chính mình.
Từ
xưa đến nay, chúng ta cứ mãi đi tìm nguồn hạnh phúc bên ngoài giả tạm mà quên
đi nguồn hạnh phúc tự tâm, quên đi trong mình vốn có nguồn năng lượng hạnh phúc
chân thật – đó là Phật tính! Bởi do ham muốn, do vô minh nên mới chìm đắm trong
bong tối của sinh tử luân hồi, trải qua bao nhiêu kiếp sống. Tâm hồn chúng ta
phải trôi dạt trong biển khổ sinh tử mênh mông vô tận như con tàu lênh đênh
trên biển cả đại dương bị sóng gió ba đào nhấn chìm không bến bờ nương tựa.
Ngày
hôm nay, chúng ta được làm thân người và gặp được Phật Pháp chính là phước
duyên. Nếu kiếp này chúng ta sống buông trôi theo số phận, sống không định
hướng cho tương lai, không biết tu tập trau dồi thân tâm, tạo nghiệp ác thì ắt
hẳn phải chịu sinh tử. Một khi mất thân người rồi khó tìm lại được, làm
được thân người đã khó, giữ được thân người lại càng khó hơn.
Chúng
ta đến với đạo Phật không phải bằng niềm tin mù quáng, không nên Thần thánh hóa
đức Phật. Chúng ta đến với đạo Phật bằng con mắt chánh kiến (trí tuệ) để “tri”
và “hành”. Không phải để cầu khẩn van xin, ban phước hay cứu tai họa. Nếu chúng
ta đến với đạo Phật mà không hành thì chúng ta vẫn bị nhấn chìm trong khổ đau.
Đức Phật ra đời mục đích “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”. Ngài thị
hiện ra đời chỉ dẫn chúng sinh con đường tu tập để giác ngộ giải thoát, Ngài
không cứu một ai bằng sự cầu nguyện, cứu rỗi linh hồn. Ngài để lại linh dược
(Giáo lý) cho chúng ta chữa căn bệnh phiền não. Chúng ta áp dụng tu tập thì
chúng ta sẽ thấy linh nghiệm và sự mầu nhiệm trong lời dạy của Ngài:
Đức
Phật dạy các đệ tử: “Các ngươi phải cố gắng tu hành để tự giải thoát, ta chỉ là
người hướng dẫn mà thôi. Trong công việc chiến thắng mọi trở lực trên đường
tiến triển để đi đến đích, chỉ có các ngươi là người có công hơn cả”. Đức Phật
cũng dạy: “Ta như thầy thuốc hay, biết bệnh cho thuốc, uống hay không uống, lỗi
ấy không phải tại thầy. Ta như vị chỉ đường, dạy con đường phải, nghe mà không
đi, lỗi ấy không phải tại người chỉ đường”.
mình là vị cứu tinh Tự
mình nương tựa vào mình tốt thay Nào
ai cứu được mình đây? Tự
mình điều phục hàng ngày cho chuyên Thành
ra điểm tựa khó tìm”. (Pháp Cú 160)
Con
đường tự lực được Đức Phật dạy như sau: “Này các Tỳ kheo, hãy tự mình thắp
lên ngọn đuốc của chính mình, thắp lên với chánh pháp, đừng thắp lên với một
pháp nào khác. Hãy tự mình làm chỗ nương tựa của chính mình, nương tựa với
chánh pháp, đừng nương tựa với một pháp nào khác”. Tinh thần tự lực mang
tính triệt để nhân bản này là một đặc tính của đạo Phật mang lại hạnh phúc cho
chính bản thân của chúng ta. Hạnh phúc này rất đơn giản mà ai cũng có thể đạt được
hạnh phúc đó, miễn là chúng ta phải đi đúng hướng mà đức Phật đã vạch ra.
Đức
Phật dạy rằng: “Này chư tỳ kheo, chân lý cao siêu về sự chấm dứt khổ đau
(dukkha) tức diệt đế là thế nào? Đó là sự chấm dứt ái dục mà không để lại dấu
vết, sự từ bỏ ái dục, sự khước từ ái dục, sự giải thoát ra khỏi ái dục, sự xa
lìa ái dục, này chư tỳ kheo đây là chân lý cao siêu về sự chấm dứt khổ đau”.
Hạnh
phúc trong Phật giáo là sự từ bỏ tâm tham ái chấp trước không bám víu vào các
pháp, thì ở trong đau khổ vẫn thấy an vui hạnh phúc, ở trong cảnh giới Ta-bà
ngũ trước ác thế này quanh ta toàn ngũ dục quyến rũ, chúng ta không vướng mắt
vào nó:
phúc là tự tại giữa khổ đau Giải
thoát là ung dung trong ràng buộc”
Hoặc là:
khoácáo nâu sầm dứt trần duyên, Tình
nhiều oan trái lắm lụy phiền. Bao
người tham ái, sầu đau khổ Đường
trần mở lối, vui cảnh thiền”.
Và:
Vẫnbiết kiếp người là ảo mộng Duyên
sinh giả hợp, có rồi không Dù
cho thế sự nhiều trắc trở Bền
tâm, vững chí, sống thong dong! (Trí Giải)
Chúng
ta luôn phải biết quý trọng trong những phút giây hiện tại, vận dụng phương
pháp thích hợp và cụ thể để quán chiếu tu tập đoạn trừ tâm tham ái,
Quán
bất tịnh, cách quán như sau: “Hãy quán sát thân này, từ bàn chân trở lên,
trên từ đảnh tóc trở xuống, bao bọc bởi da và chứa đầy bất tịnh sai biệt. Trong
thân này, đây là tóc, lông, răng, móng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim,
gan, hoành cách mô, lá lách, phổi ruột, bao tử, phân, mật, đàm, máu, mủ, mồ
hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, máu mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Đây
là nhân, đây là duyên”…
Về
hộ trì các căn, nội dung như sau: “Hãy sống hộ trì các căn. Sau khi mắt thấy
sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, chớ có nắm giữ
tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không
được chế ngự khiến tham ái ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên hãy thực hành
nguyên nhân chế ngự các căn ấy. Đây là nhân, đây là duyên”
Về
phòng hộ tam nghiệp, nguyên tác chỉ rõ: “Với thân được phòng hộ, với lời nói
được phòng hộ, với tâm được phòng hộ, với niệm được an trú, với các căn được
chế ngự, trong khi ấy, tham pháp sẽ không chinh phục”. Có rất nhiều phương
pháp tu tập để đoạn trừ tâm tham ái, tiếp theo chúng ta tu tập trên “Tam pháp
ấn”: (Vô thường, Khổ, Vô ngã)
Thấy
rõ sự thật của “khổ đau” để diệt trừ tâm “tham ái”
Chúng
ta nhìn nhận: “Cuộc đời là bể khổ triền miên”. Sự thật cuộc đời này vốn dĩ
không có khổ đau hay hạnh phúc, mà sở dĩ cuộc đời nói khổ đau hay hạnh phúc là
do tâm của con người tạo ra. Như một tấm vải trắng, nếu ta đeo kiếng đen thấy
tấm vải hoàn toàn màu đen, nếu chúng ta đeo kiếng màu trắng sẽ thấy tấm vải
hoàn toàn màu trắng thì sự thật chân lý cuộc đời cũng vậy! Nguyên nhân chính là
do con người chấp ngã “ta”: xác thân ngũ uẩn này của ta, tài sản của ta, địa vị
danh vọng của ta…con người bám víu vào đó rồi dong ruổi tìm cầu, cầu có rồi lại
sinh tâm tham, muốn có thêm suốt đời tìm kiếm hạnh phúc nơi những thứ giả tạo
ấy. Chúng ta càng bám víu chấp thủ vào ngũ dục thế gian thì càng tạo ra chướng
ngại trên con đường tu tập. Chúng ta hãy suy ngẫm thử xem nỗi khổ đau của thân
ngũ uẩn như thế nào? Để từ đó chúng ta tu tập xóa bỏ cái “ta” không còn bám víu
vào những thứ ngũ dục giả tạo ấy thì tâm của chúng ta mới trở nên an lạc và
giải thoát được những thứ ràng buộc kia.
Khổ
là một sự thật hiển nhiên, không ai phủ nhận điều ấy. Hễ ai dấn thân vào chốn
hồng trần tự hào cho rằng: “Cuộc đời mình chưa trải qua đau khổ”? Thật ra từ
lúc mở mắt chào đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, chúng ta gặp biết bao nhiêu
là nỗi trái ngang, vui buồn lẫn lộn, vinh nhục ngậm ngùi, đôi lúc chan chứa
nước mắt hằng đêm trên gối chiếc. Khi nhìn thấy nỗi khổ đau của cuộc đời trong
Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu (Nguyễn Gia Thiều) thi cảm rằng:
tạo hóa đành hanh quá ngán Chết
đuối người trên cạn mà chơi Lò cừ
nung nấu sự đời Bức
tranh vân cẩu vẽ người tan thương” (câu 73-76)
Thân
con người giống như chiếc bèo trôi dạt lênh đênh trên dòng sông (vô thường),
không biết trôi dạt về đâu? Con người không nắm được định mệnh của mình ra đi
lúc nào, kiếp người quả thật vui ít khổ nhiều, có ai vui trọn kiếp mà không khổ
bao giờ? Con người thường chấp bám vào những hạnh phúc giả tạm mưu cầu danh lợi
địa vị, công danh, bằng những phương thức thủ đoạn đê hèn, chiếm đoạt tài sản
kẻ khác, lừa gạt, tham nhũng, mua quan bán chức,…để tìm có đồng tiền sống
thỏa mãn dục vọng đê hèn, nuôi dưỡng cái thân ngũ uẩn này. Ngày ngày trau chuốt
giữ gìn nó, tìm không biết bao nhiêu thứ để phục vụ cho tấm thân giả tạm rồi
cho rằng đó là hạnh phúc ở đời, là tiền bạc, là giàu sang, là ăn ngon, mặc đẹp.
Chính những thứ hạnh phúc giả tạm này là cái gông cùm để trói buộc tâm chúng
sinh, là cái ách nô lệ đè lên vai của nhân thế. Dưới ánh mắt của phàm phu đã bị
che mờ bởi những thứ ngũ dục ấy. Vì thế tâm bị vô minh phiền não che lấp nên
hằng ngày đã tạo vô số nghiệp ác, đánh mất chân tâm, bởi vậy mới kết nối chuỗi
dài trôi lăn sinh tử luân hồi từ kiếp này đến kiếp khác.
nghĩ thân của tôi Là
phàm phu mê muội Tăng
mộ phần phiền não Chấp
chặt sự tái sinh” (Trưởng
Lão Tăng Kệ 575)
Do
đó từ thực tại khổ đau, con người biết nhìn nhận nó để chuyển hóa tâm hồn, xóa
bỏ lòng tham ích kỷ, xóa bỏ cái bản ngã, lòng tham muốn ganh tỵ, đố kỵ…thoát ra
khỏi mảnh đất tâm của mình, bởi do sợi dây phiền não trói chặt chúng ta. Chúng
ta hãy nương tựa vào chính mình, nương tựa vào ngọn đèn chánh Pháp, nhẹ nhàng
thoát ra khỏi cuộc đời đau khổ trầm luân thể hiện chân lý sống cho chính mình,
như đóa sen khẳng định sức sống mãnh liệt của nó, để rồi vươn lên từ chốn bùn
nhơ tỏa ngát hương, tô điểm trần gian thêm đẹp, làm cho đời mang vẻ tôn nghiêm
sen tinh khiết chốn bùn nhơ Thoát
lên mặt nước tự bao giờ Tỏa
hương thơm ngát chân thiện mỹ Tô
điểm trần gian đẹp nên thơ (Trí Giải)
Chúng
ta muốn trở thành đóa hoa hiện thể để tô điểm trần gian thì hãy giống như đóa
sen kia vượt ra khỏi chốn bùn nhơ! Tâm của chúng ta thoát ra khỏi sự ràng buộc
của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) và đoạn trừ tất cả tâm phiền não tham
sân si, mạn, nghi, ác kiến…và điều kiện tất yếu là chúng ta thấy được chân lý
của khổ là một sự thật? Đức Phật dạy: “Sinh, lão, bệnh, tử khổ, ái biệt ly khổ,
cầu bất đắc khổ, oán tắng hoại khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ”. Nhưng đức Phật không
phải chỉ ra sự thật của cái khổ để rồi chúng ta bi quan yếm thế, chán nản cuộc
đời. Đức Phật chỉ rõ chúng ta chân lý sực thật của khổ đau (Khổ đế), Ngài chỉ
rõ cho chúng ta nguyên nhân của khổ (Tập đế) và phương pháp diệt trừ khổ (Diệt
đế) vào cảnh giới an lạc hạnh phúc Niết bàn là (Đạo đế). Cho nên trong khổ đau
đức Phật chỉ cho chúng ta lối thoát, không phải chỉ khổ để rồi chỉ biết than
thở chán nản.
Vậy
nguyên nhân của khổ chính là tham ái, dục vọng của con người gây ra, khiến con
người bám víu vào thân ngũ uẩn cho là của “ta”. Chúng ta quên rằng trong xác
thân này từng sát na biến đổi liên tục của định luật vô thường, chúng ta càng
bám víu sẽ càng khổ đau. Hãy quán chiếu cái thân ngũ uẩn này: sức khỏe, tri
thức trong kiếp sống hiện tại nếu như ta sinh ra lục căn (tai, mắt, mũi, lưỡi,
thân, ý) đi ngược lại với sự mong muốn của con người sẽ mang một nỗi khổ dằn
vặt suốt đời với đôi mắt lé, mù, mũi hểnh, miệng méo hoặc câm, ngọng, tai điếc,
thân lùn hoặc bị gù, ý bị thần kinh điên đảo. Nếu một người nào rơi vào một
trong sáu (lục căn bất cụ) cảm thấy héo hon sầu muộn và ý nghĩa cuộc đời dường
như đóng kín lại đối với họ. Hoặc có người thân hình xinh đẹp tướng hảo mỹ
miều, thông minh tài trí hơn người, hằng ngày trau chuốt bản thân, bằng mọi thứ
son phấn, quần áo trang sức…để hãnh diện với đời. Nhưng sự thật phũ phàng mang
đến khi gặp một cơn gió độc, hoặc bị tai nạn xe cộ làm bị què, hoặc bị chấn
thương thần kinh…đó là định mệnh! Chúng ta không thể nào làm chủ được cho nên
cái thân ngũ uẩn này đối với định luật vô thường rất mong manh như ngàn cân
treo sợi tóc, mới hôm qua còn vui cười gặp nhau đó, hôm nay đã mất rồi, hoặc
chỉ trong một tích tắt thiên tai động đất sóng thần mấy chục ngàn sinh mạng ra
đi về miền đất lạnh làm cho cảnh sinh ly tử biệt. Nhưng đó cũng là quy luật của
cuộc sống – có sinh ắt có tử! Ai sinh ra cũng một lần chết, không ai tránh khỏi
sự thật này, chỉ có điều sớm hay muộn mà thôi. Các pháp xưa nay theo lý duyên
sinh của vạn vật, phải trải qua 4 chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt hay thành, trụ,
hoại, không. Có sinh phải có tử, có tụ phải có tán, một ngày qua đi chúng ta
tiến gần đến với cái chết một ngày, sinh tử vô thường không hẹn một ai. Một
người đang giàu sang sống hạnh phúc trở nên tán gia bại sản, tù đày, tâm đau
khổ, tinh thần tán loạn điên đảo, mất trí trước sự mất mát lớn lao về tài sản
hoặc chứng kiến trước cảnh sinh ly tử biệt của người thân ra đi. Biết bao nhiêu
giọt lệ sầu rơi? Cũng có nhiều người bị những cú đấm tình cảm như trong hoàn
cảnh ái biệt ly khổ, bị người tình bỏ rơi, hay sinh ly tử biệt. Qủa đấm này đau
khổ biết chừng nào, hoặc oán tắng hội khổ, ghét nhau vẫn gặp mặt nhau hoài cũng
là nỗi khổ…
Đức
Phật dạy chúng ta thấy rõ sự thật của khổ, vô thường là để chúng ta nhìn nhận
nó để rồi làm chủ nó, giải quyết vấn đền sinh tử khổ đau. Tất cả khổ đau hiện
hữu là do chúng ta luôn ý niệm về cái “ta”, cho nên bất kỳ nơi nào có tham ái
nơi ấy có quan niệm về cái “ta” và sự đau khổ.
Bởi
vậy, hằng ngày chúng ta biết lắng đọng tâm tư quán chiếu về sự thật của khổ đau
để chúng ta can đảm trải nghiệm khổ đau. Nếu chúng ta không gặp khổ đau thì đức
Phật không thị hiện ra đời để độ sinh. Khi chúng ta gặp hoàn cảnh khổ đau dày
xéo thân tâm, chúng ta phải biết chánh niệm tỉnh giác để làm chủ khổ đau, đừng
bao giờ chùn chân và chán nản, bi quan trước gian nan khổ đau.
đau khổ lấy gì làm chất liệu Không
lang thang đâu biết gió mưa nhiều Không
gian nan lấy gì thi vị hóa Không
lầm than đâu biết chuyện con người”
Đức
Phật dạy sự thật khổ đau để chúng ta nổ lực tu tập giải thoát khổ đau, thay vì
luôn cam chịu số phận, định mệnh rồi chịu thua nó. Chúng ta phải nổ lực đến
cùng để chiến thắng nó. Con đường để thoát ra biển khổ trầm luân đòi hỏi chúng
ta phải biết rõ nguyên nhân của khổ là do tham ái sinh ra. Từ đó hãy xóa hết ý
niệm về cái “ta” thì cái tâm tham ái tự nhiên sẽ cắt đứt. Lúc bấy giờ hành giả
sẽ cảm nhận hạnh phúc chân thật vắng mặt khổ đau, chân lý sự thật của cuộc đời
phơi bày ra, cái hay của đạo Phật là bao giờ cũng có phương pháp để giải quyết
vấn đề không phải để cầu lạy van xin. Cuộc sống chúng ta đau khổ, thì đi tìm
nguyên nhân của khổ, để rồi diệt khổ, bấy giờ chúng ta sẽ hết khổ.
uẩn là gánh nặng Kẻ
gánh nặng là người Cấm
lấy gánh nặng lên Chính
là khổ ở đời Còn
đặt gánh nặng xuống Tức
an lạc ở đời Đặt
gánh nặng xuống rồi Không
mang thêm gánh khác Nếu
nhổ khát ái lên Tận
cùng đến gốc rễ Không
còn đói và khát Đã
giải thoát, tịnh lạc”
Chìa
khóa vạn năng đức Phật để lại cho chúng sinh mở cửa giải thoát sinh tử luân hồi
chính là giáo lý “Vô ngã”. Chúng ta hãy tu tập quán “Vô ngã” để diệt trừ tham
ái.
Tu
tập giáo lý “Vô ngã” đoạn trừ tâm tham ái
Đạo
Phật xuất hiện giữa cõi đời được xem như là nguồn sống và chân lý sống cho con
người, là linh dược để trị liệu tâm bệnh cho chúng sinh. Với sứ mạng thiêng
liêng cao cả ấy, đạo Phật đi vào đời và gắn liền với cuộc sống, đối diện với sự
thật của khổ đau để từ đó tìm ra những phương pháp linh diệu để diệt trừ khổ
đau, đem lại niềm hạnh phúc an lạc cho con người, xây dựng cuộc sống tốt đẹp,
xã hội văn minh lành mạnh, thế giới hòa bình. Tinh thần cao đẹp ấy đã thể hiện
trong suốt 49 năm hành trình thuyết Pháp độ sinh của đức Phật. Ngài đã chỉ ra
sự thật khổ đau và con đường diệt khổ.
Quả
thật cuộc sống của con người vui ít, khổ nhiều. Những thất vọng chán chường,
mâu thuẫn và những bi kịch thường diễn ra trên sân khấu của cuộc đời. Chúng ta
thấy rằng kiếp sống con người như phù du tạm bợ, ai sinh ra đời cũng phải một
lần sinh và lần tử. Định luật vô thường thật khắc nghiệt với loài người. Từ xưa
đến nay chưa có một bậc “Vĩ nhân” nào tìm ra phương pháp giải thoát cái chết
của kiếp người. Lành thay! Đức Phật xuất hiện giữa cõi đời như là một bước
ngoặt trọng đại cho nhân loại. Ngài tìm ra con đường giải thoát cho chính Ngài
và cho tha nhân. Ngài đã mở cánh cửa bất tử và vén bức màn vô minh để đưa chúng
sinh thoát khỏi đêm trường đầy khổ lụy.
Mọi người thường quan niệm rằng “chết là hết”, “chết trở về các bụi” vì thế họ
bi quan yểm thế, chán nản kiếp sống vô thường, và họ sống buông xuôi theo dòng
đời, đắm say vào ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) để cho thỏa mãn tâm dục
vọng của con người. Nhiều người bảo rằng: “Còn sống nên hưởng thụ chết rồi còn
đâu nữa để hưởng thụ”. Từ quan niệm sai lầm ấy con người tạo vô số điều ác: mưu
mô chước quỷ, thủ đoạn lường gạt, tham nhũng, buôn gian bán lận, giết người
cướp của, cờ bạc, rượu chè, hiếp dâm…tất cả những tội đó cũng chỉ để thỏa mãn
cái tâm dục vọng đê hèn. Những nghiệp ác này tích tụ vào tâm thức, sau khi chết
chẳng mang theo được gì, chỉ mang theo những thứ tội lỗi rồi trôi lăn trong sáu
nẻo luân hồi (thiên, nhân, a tu la, địa ngục, ngã quỷ, súc sinh) để trả quả
báo.
Nhưng
đức Phật bảo rằng chết không phải là hết, vì thế đức Phật đưa ra thuyết luân
hồi tái sinh, phụ thuộc vào nghiệp lực tạo tác của mỗi con người. Làm thiện thì
được sinh về cõi lành, làm ác bị đọa vào cảnh giới khổ đau (thuyết luân hồi,
nhân quả) của đạo Phật giúp cho con người biết trở về cách sống đạo đức nhân
bản, làm lành lánh dữ, giúp cho xã hội bình an, đời sống văn minh và tốt đẹp,
thế giới hòa bình. Nếu những ai thực hành theo lời dạy của Ngài sẽ thoát khỏi
khổ đau sinh tử luân hồi và chứng đắc cảnh giới Niết Bàn an lạc, đây là mục
tiêu tối hậu cho những người học Phật.
Giáo
lý của đức Phật có tám vạn bốn nghìn pháp môn tu được tóm thâu trong ba môn
học: Giới, Định, Tuệ nhưng cũng chỉ cùng một vị đó là vị giải thoát. Do vì
chúng sinh chấp “Ngã” cho nên đức Phật đã thuyết giáo lý “Vô ngã”. Vô ngã một
trong Tam pháp ấn (vô thường, khổ, vô ngã). Giáo lý vô ngã được xem như là chìa
khóa vạn năng để chúng ta tự mở cửa giải thoát, chính giáo lý Vô ngã giúp chúng
ta dập tắt ngọn lửa tham ái ẩn tàng trong tâm đang rạo rực bùng cháy hằng ngày.
Vô
ngã 無 我 (tiếng Sanskrit: anātman, tiếng Pāli: anattā), theo
quan điểm của đạo Phật cho rằng không một “ngã” (ātman) một cái gì đó tồn tại,
bất biến, nhất quán một cách độc lập nằm bên trong sự vật hiện tượng, mà các
pháp biến đổi theo bốn giai đoạn (sinh, trụ, dị, diệt) hoặc (thành, trụ, hoại
không). Đức Phật dạy chúng ta giáo lý Vô ngã để thấy rằng sự vô thường của các
sự vật hiện tượng, không có một cái ngã tồn tại, không có chủ tể, vì ngoại đạo
thường hay chấp thường chấp đoạn, Phật thuyết giáo lý vô thường. Ngoại đạo chấp
ngã, Phật thuyết vô ngã để thấy rằng bản chất của vạn pháp là do duyên sinh giả
hợp mà thành, hết duyên thì hoại, nó không có cái gì tồn tại để từ đó giúp hành
giả đoạn trừ tâm tham ái. Chúng sinh vì căn tánh, trí tuệ sáng suốt (Phật tính)
bị vô minh che lấp nên không thấy rõ chân lý của cuộc đời, của vạn pháp có sinh
ắt có diệt, các pháp vô thường cho là thường, các pháp vô ngã cho là ngã, từ đó
tâm vọng tưởng điên đảo chấp ngã thân của ta, nhà cửa tài sản của ta…để rồi ôm
ấp nắm giữ không buông, khi nhắm mắt xuôi tay thì sinh lòng tham đắm lưu luyến,
bị sinh tử luân hồi.
Trong
cuộc sống con người luôn nắm bắt ý niệm “tôi” và “của tôi” vì vậy con người
dong ruổi vật lộn với cuộc sống để tìm cầu, con người không ngừng tự gieo khổ
cho mình và cho người khác, biến cuộc đời thành bể khổ không lường. Cho nên đức
Phật thuyết giáo lý Vô ngã để xóa bỏ ý niệm về cái “ta”, là diệu dược chữa trị
tâm bệnh tham ái của chúng sinh, hầu mang lại hạnh phúc an lạc hơn khi con
người không còn quan niệm cái “ta” hiện hữu, thì lúc ấy lòng nhân ái chan hòa
vị tha vô lượng khởi lên.
Khái
niệm Vô ngã trong đạo Phật là để nhận chân sự vật hiện hữu do duyên sinh tạo
thành mà có rồi biến đổi vô thường hủy diệt. Nhưng thể tánh của sự vật lại chơn
thường, tâm cảnh thì có sinh có diệt, Phật tính thì bất sinh bất diệt. Cho nên
dùng “Trí tuệ bát nhã quán thân ngũ uẩn giai không độ tất cả khổ ách”. Nhờ giáo
lý Vô ngã mang đến đời sống tích cực diệt trừ tâm tham ái mang lại hạnh phúc an
lạc ngay trong đời này và xây dựng một cuộc sống chân thiện mỹ cho gia đình, xã
hội.
Chúng
ta thực hành giáo lý vô ngã sẽ xây dựng cuộc sống từ bi, bình đẳng, có nhân
quyền, công bằng trong cuộc sống, xã hội bình yên không có chiến tranh giữa các
quốc gia xảy ra, không có sự kỳ thị chủng tộc cộng đồng và tôn giáo, vì thế đức
Phật thiết lập giáo lý Vô ngã.
Ngày
nay, con người vì cái “ngã” đã chạy theo những tài sản vật chất, danh lợi địa
vị, quyền lợi quốc gia, chiếm đất đai những đất nước khác. Cũng vì mục đích
riêng cho quốc gia của mình, vì cái “ngã” lãnh đạo quốc gia, cai trị độc đảng,
độc tài, không có nhân quyền, tham nhũng quơ quét của dân tạo nên sự câm phẫn
trong lòng dân, “tức nước sẽ lở bờ” – đó là quy luật tất yếu, dân chúng biểu
tình, chiến tranh xảy ra thảm khốc, gieo rắc tai họa cho con người. Vì thế, sự
tai hại của cái “ngã” rất lớn và nghiêm trọng. Nếu quốc gia nào dùng chính sách
theo lý tưởng Vô ngã mọi người sống bình đẳng, có nhân quyền, làm việc với tinh
thần vô tư không cầu lợi, nghĩ lợi ích chung cho quốc gia hơn là cung phụng cho
cái “ngã” của mỗi cá nhân, thì quốc gia ấy sẽ bền vững được dân chúng tin
tưởng, thì chế độ ấy được tồn tại bền lâu.
Lịch
sử chứng minh cho chúng ta thấy rằng, quốc gia nào trên thế những người lãnh
đạo mang tư tưởng độc tài, độc đảng cai trị, không có nhân quyền, thì dân chúng
sẽ bạo loạn, chế độ sẽ sụp đổ, một minh chứng như nước Libya. Nguồn gốc dẫn đến
sự xung đột nguyên nhân chính là sự bảo thủ cố hữu (chấp ngã) của người lãnh
đạo quốc gia. Muốn giải quyết đoạn trừ nguyên nhân ấy đòi hỏi con người phải
thay đổi tư tưởng, sống trong tình thương, có lòng vị tha, biết lắng nghe sửa
đổi cái sai, cái bảo thủ của mình, tạo mối mật thiết với những quốc gia khác,
không tạo ra sự hiềm khích, ganh tỵ, kiêu căng, tham nhũng hối lộ, dẹp bỏ mọi
thành kiến giữa cá nhân và cá nhân, quốc gia này với quốc gia khác, biết lắng
nghe tôn trọng mọi ý kiến để sửa đổi tư duy hữu ngã. Những tư tưởng độc tài,
bảo thủ “chấp ngã”, đức Phật đã dạy mọi người từ bỏ cách đây hơn 2500 năm, tư
tưởng ấy không làm cho xã hội văn minh phát triển, chỉ đưa con người đi vào sự
nghèo nàn khổ đau. Cho nên hòa bình không thể dùng chiến tranh để giải quyết,
Đức Phật dạy rằng: “chiến tranh nào cũng đem đến sự khổ đau vô lượng vô biên,
chiến thắng sinh thù oán, bại trận sinh khổ đau. Cho nên phương pháp duy nhất
là đừng có chiến tranh để giải quyết xung đột, phải tìm mọi phương pháp hòa
bình để chấm dứt các bất đồng ý kiến và xung đột”. Như vậy: “Hòa bình là một
kết quả ý chí quyết liệt và cuộc đấu tranh kiên cường để tự thắng bản thân là
một vấn đề tự giáo dục, tự huấn luyện, dân chúng có thể yêu quý hòa bình như là
một báu vật cần thực hiện”.
Ngược
lại con người sống không có tình thương yêu lẫn nhau, cuộc sống chấp ngã trở
nên khổ đau phát sinh nhiều sự xung đột nội bộ như Nam Hàn và Bắc Hàn những
cuộc chiến tranh hiện nay như: Libya, Bờ Biển Ngà,…cũng phát sinh từ những
người lãnh đạo có tư tưởng theo chủ nghĩa bảo thủ, độc tài “chấp ngã”. Đất nước
không có nhân quyền, kinh tế nghèo nàn lạc hậu, giáo dục, văn hóa xã hội xuống
cấp nghiêm trọng, vì thế nên dân chúng dễ dàng đứng lên để lật đổ chế độ độc
tài. Đó là một tấm gương cho những quốc gia nào mang tư tưởng độc tài, độc
đảng, không tôn trọng nhân quyền, không biết lắng nghe sửa đổi cái sai của mình
tìm mọi cách để bảo vệ chế độ thì trước sau, sớm hay muộn chế độ ấy cũng bị sụp
đổ. Theo quan điểm của đạo Phật mọi người biết sống và làm việc theo tinh thần
“Vô ngã” đừng có lợi ích cá nhân, quốc gia có nhân quyền bình đẳng trong xã
hội, làm việc với tinh thần bình đẳng, biết lắng nghe tôn trọng mọi ý kiến đóng
góp xây dựng để sửa đổi đưa xã hội phát triển, thì chắc chắn rằng xã hội ấy,
quốc gia ấy được ấm no hạnh phúc, dân giàu nước mạnh. Còn sống trong tư tưởng
bảo thủ độc tài chỉ có mục đích duy nhất cung phụng cho mỗi bản “ngã” mỗi cá
nhân con người mà thôi, không bao giờ đưa xã hội phát triển văn minh.
Ngày
nay, chúng ta cũng thấy rằng: đạo đức vốn có của con người bị suy thoái toàn
diện, những giá trị nhân bản đạo đức làm người cũng không có như: giết người
cướp của, cờ bạc rượu chè, xì ke ma túy, hiếp dâm, tham nhũng,…giáo dục xuống
cấp, văn hóa đồi trụy…những tội lỗi này cũng vì phục vụ cho dục vọng đê hèn của
cái “Ngã”. Nguyên nhân chính cũng vì lòng tham ái mà ra, nhưng nhìn nhận khách
quan hơn do xã hội kinh tế nghèo nàn, chênh lệch giữa giàu và nghèo quá lớn,
những người có quyền có chức thì giàu sang tột bậc, nông dân thì đói khổ. Mặc
dù họ biết giết người cướp của là phạm tội tử hình, nhưng vì sự sống để bảo vệ
cái “ngã” họ vẫn làm. Nếu một quốc gia nào biết lo đời sống nông dân ấm no hạnh
phúc, sự chênh lệch giàu nghèo không có thì chắc chắn rằng quốc gia ấy sẽ không
có vấn đề tệ nạn xã hội, cướp của giết người…Thời cuộc, hoàn cảnh xã hội đầy
rẫy điều xấu làm cho đạo đức xã hội bị băng hoại, luân thường đạo lý bị đảo
lộn, con người chà đạp lên sự sống nhân phẩm của người khác để kiếm sống. Trước
một xã hội như thế thì phương pháp, diệu dược để trị liệu hữu hiệu nhất là con
người sống phải xóa bỏ bản “ngã”. Có cái nhìn sáng suốt (chánh kiến), hành động
đúng đắn trong công việc (chánh nghiệp), suy nghĩ đúng đắn (chánh tư duy), sống
một cách đúng đắn đạo đức làm người (chánh mạng). Nói chung, con người biết áp
dụng tu tập vào Bát chánh đạo và tuân thủ năm giới căn bản nền đạo đức làm
người trong xã hội (không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói
dối, không uống rượu) để tu tập diệt trừ ái dục của con người thì chắc chắn
rằng giá trị nhân bản đạo đức của người không bao giờ đánh mất. Như vậy mới
kiến tạo một xã hội có nền đạo đức văn hóa tốt đẹp, đưa cuộc sống con người trở
về chân thiện mỹ. Đó là một chân lý không phải những điều mang tính chất trừu
tượng siêu hình, phù phiếm. Do vậy chúng ta biết quay về với đạo Phật là quay
về cuộc sống chân thiện mỹ, quay về chính mình để tìm lại hạt minh châu (Phật
tính) từ lâu bị chôn vùi dưới dòng sông ái dục và cát bụi của vô minh, chúng ta
biết thức tỉnh tu tập để đoạn trừ cái “Ngã” đạt đến tinh thần “Vô ngã”, thì bấy
giờ chúng ta đang sống trong cảnh giới Niết bàn an lạc vô sanh bất diệt.
Trí Giải
n
Discussion about this post