3.7.
Chƣơng 4. TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT GIÁO MIỀN TRUNG 121
4.1. Tính chất 121
4.1.1. Tính chất dân tộc 121
4.1.2. Tính chất dân chủ 127
4.1.3. Tính chất quốc tế 133
4.2. Đặc điểm 138
4.2.1. Đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức hoạt động 138
4.2.2. Chặt chẽ trong các nội dung chấn hưng 141
4.2.3. Kết hợp chấn hưng Đạo pháp với công cuộc kháng chiến kiến quốc 145
4.2.4. Thể hiện những sắc thái chung và riêng so với hai miền Nam Bắc 150
4.3. Vai trò 158
4.3.1. Đối với Phật giáo Việt Nam 158
4.3.2. Đối với văn hoá Việt Nam 163
4.3.3. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc 168
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Với lịch sử gần 20 thế kỉ du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo với phương châm tùy thời, tùy quốc độ đã góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Chính sự gắn bó giữa Đạo pháp và dân tộc như vậy đã giúp cho Phật giáo ngày càng ăn sâu vào mạch sống văn hóa, vào trong đời sống tinh thần của người dân Việt. Có thể nói, Phật giáo đã hòa quyện cùng với quá trình đi lên của đất nước, góp phần hình thành dáng đứng văn hóa và nhân cách con người Việt Nam. Cũng chính do vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một” [185, tr. 29].
Vào đầu thế kỉ XX, Phật giáo Việt Nam do chịu sự tác động từ các chính sách cai trị của thực dân Pháp đã bộc lộ nhiều yếu tố bất cập. Một trong những câu hỏi lớn đặt ra cho các tăng ni, Phật tử lúc này là làm sao để có thể xây dựng được một đường lối phát triển Phật giáo đúng đắn, hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại cũng như góp thêm sức mạnh vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc? Nhằm tìm ra một hướng đi mới cho Phật giáo Việt Nam, các tăng ni, Phật tử với sự nhiệt huyết của mình đã cùng với những người mến mộ đạo Phật, các nhà trí thức đứng ra vận động chấn hưng, cải cách Phật giáo. Chính từ trong bối cảnh đó đã dẫn đến sự ra đời của phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam vào đầu những năm 30 của thế kỉ XX.
Tại miền Trung, phong trào chấn hưng Phật giáo diễn ra vào năm 1932 đã nhanh chóng hòa nhập và gắn bó với phong trào trong cả nước. Sự xuất hiện của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung nói riêng và cả nước nói chung không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà đó là một tất yếu lịch sử bởi nó được bắt nguồn từ những căn nguyên rất rõ nét như: Sự chi phối của bối cảnh quốc tế và thời đại, sự chuyển biến của tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta trong những thập niên đầu thế kỉ XX, sự khủng hoảng và suy yếu của chính bản thân tôn giáo này… Bằng nhiều hoạt động tích cực như: Nghiên cứu và lí giải hệ thống kinh sách, giáo lí Phật giáo; đổi mới nội dung, hình thức đào tạo tăng tài; xây dựng hệ thống tổ chức, tham gia nhập thế tích cực,… phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung không những đã tạo ra được một luồng sinh khí mới đối với sự phát triển của đạo Phật mà nó còn góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Do vậy, nghiên cứu về phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung không những là việc làm mang tính khoa học mà nó còn chứa đựng cả những giá trị thực tiễn sâu sắc.
– Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần tái hiện bức tranh tương đối đầy đủ và toàn diện về thực trạng Phật giáo Việt Nam cũng như miền Trung trong những thập niên đầu thế kỉ XX; về tính tất yếu của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung; về diễn biến cũng như các hoạt động chấn hưng Phật giáo tiêu biểu tại khu vực này. Từ đó, luận án sẽ rút ra đặc điểm, tính chất cũng như vai trò của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung.
– Về ý nghĩa thực tiễn, luận án góp phần bổ sung vào việc biên soạn lịch sử Phật giáo, lịch sử tư tưởng, tôn giáo Việt Nam giai đoạn cận hiện đại; góp thêm cứ liệu lịch sử cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các vấn đề về tôn giáo; rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình xây dựng đường lối hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai; giúp tăng ni, Phật tử hiểu được sự gắn bó giữa Đạo pháp và dân tộc trong quá trình đi lên của đất nước để từ đó tham gia nhập thế tích cực. Ngoài ra, nghiên cứu về quá trình chấn hưng Phật giáo miền Trung còn góp phần tri ân những người đã đứng ra vận động, tham gia và chèo lái phong trào.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam (1932 – 1951)” làm đề tài luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu của luận án là phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam (1932 – 1951).
– Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian, luận án giới hạn ở miền Trung, bao gồm các tỉnh từ Thanh Hoá đến Bình Thuận. Trong đó, luận án chú ý đến các địa phương có thể được xem là trọng tâm của phong trào như: Huế, Đà Nẵng… Tuy nhiên, để làm sáng tỏ một số nội dung khi cần thiết, luận án còn mở rộng phạm vi nghiên cứu sang phong trào chấn hưng Phật giáo tại hai miền Nam – Bắc và một số quốc gia ở khu vực châu Á.
+ Về thời gian, giới hạn từ năm 1932 với sự kiện thành lập Hội Nghiên cứu và Thực hành giáo lí Phật giáo (đến năm 1938, Hội đổi tên thành Hội Phật học An Nam) đến sự kiện thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam vào năm 19511.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
– Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm trình bày một cách có hệ thống và toàn diện về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung Việt Nam (1932 – 1951). Trên cơ sở đó, rút ra đặc điểm, tính chất và vai trò của phong trào.
– Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Thứ nhất, trình bày bối cảnh lịch sử và diễn biến phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam (1932 – 1951).
+ Thứ hai, phân tích và trình bày những nội dung cơ bản trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam (1932 – 1951).
+ Thứ ba, rút ra tính chất, đặc điểm và vai trò của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung Việt Nam (1932 – 1951).
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tƣ liệu
Luận án tập trung khai thác và sử dụng các nguồn tư liệu sau:
Một là, các tài liệu được hình thành từ phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung. Đó là các bản điều lệ và quy tắc của Hội Nghiên cứu và Thực hành giáo lí Phật giáo (1932), Hội Phật học Đà Thành (1935), Hội Phật học An Nam (1938), Hội Phật học Việt Nam (1946)…. Các tờ báo ra đời trong thời kì chấn hưng là Nguyệt san Viên Âm, Tam Bảo, Giải Thoát và Giác Ngộ.
Hai là, các tài liệu đương thời phản ánh về hoạt động chấn hưng Phật giáo miền Trung. Nguồn tư liệu này tập trung chủ yếu vào các tờ báo trong và ngoài Phật giáo như: Đuốc Tuệ, Tiếng Chuông Sớm, Phương Tiện, Bồ Đề bán Nguyệt san… ra đời trong phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc; Pháp Âm, Từ Bi Âm, Duy Tâm Phật học, Bát Nhã âm, Ánh sáng Phật pháp, Từ Quang… ra đời trong phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam; Đông Pháp Thời báo, Trung Lập, Tràng An, Phụ nữ Tân văn, Cứu Quốc…
1 Trên thực tế, phong trào chấn hưng Phật giáo còn kéo dài ở giai đoạn sau đó. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án chúng tôi chọn sự kiện thống nhất Phật giáo toàn quốc vào năm 1951 làm giới hạn cuối. Bởi sau khi Tổng hội Phật giáo Việt Nam ra đời, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam bước sang một hướng phát triển mới.
Ba là, các nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đề cập đến tình hình tôn giáo thời kì chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Nguồn tư liệu này tập trung chủ yếu ở Văn kiện Đảng tập 1 đến 8 và một số văn bản báo cáo lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
Bốn là, các công trình, các bài viết về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam nói chung và miền Trung nói riêng.
Ngoài ra, nhằm làm sáng tỏ hơn vấn đề cần nghiên cứu, luận án còn tiếp cận các công trình chuyên khảo về Phật giáo, các công trình mang tính lí luận về tôn giáo và Phật giáo ở Việt Nam qua các thời kì, các công trình về tiểu sử các vị danh tăng trong giai đoạn chấn hưng, các bài viết được đăng tải trên các website…
* Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luận án sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra, luận án còn vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu khác như: điền dã, sưu tầm, so sánh, đối chiếu, phân tích… để xử lí tư liệu trước khi tái hiện bức tranh toàn cảnh về phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung.
5. Đóng góp của luận án
Thứ nhất, luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung giai đoạn 1932 – 1951. Qua đó, góp phần phục dựng lại bức tranh lịch sử về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung cũng như Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn này.
Thứ hai, thông qua việc làm rõ bối cảnh lịch sử dẫn đến sự hình thành phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung, luận án sẽ đi sâu vào phân tích các nội dung cụ thể của nó như: Xây dựng hệ thống tổ chức, xây dựng đoàn thể thanh thiếu niên các cấp, đào tạo tăng tài, đổi mới cách thức thờ tự và nghi lễ… Từ đó, rút ra đặc điểm, tính chất cũng như vai trò của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung.
Thứ ba, xây dựng hệ thống tư liệu có giá trị tham khảo liên quan đến phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Từ đó, luận án là tài liệu xã hội hóa phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập các chuyên đề liên quan, đặc biệt là đối với tăng ni sinh tại các trường trung cấp, cao đẳng, các Học viện Phật giáo cũng như những ai quan tâm đến vấn đề này.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần cung cấp những dữ liệu mang tính lịch sử về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung trong giai đoạn 1932 – 1951, cùng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các vấn đề về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (5 trang), danh mục công trình nghiên cứu (2 trang), tài liệu tham khảo (15 trang), nội dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu (14 trang).
Chương 2: Quá trình hình thành phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung (33 trang).
Chương 3: Nội dung phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung (68 trang).
Chương 4: Tính chất, đặc điểm và vai trò của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung (55 trang).
Discussion about this post