LẤY KHỔ LÀM THẦY
Pháp Sư Tịnh Không
Mời xem Tịnh Hạnh phẩm thứ mười
một, kệ tụng đoạn lớn thứ sáu, đoạn nhỏ thứ ba: “Sở ngộ nhân vật”.
Xin xem bài kệ thứ mười lăm: “Kiến khổ hạnh nhân, đương nguyện chúng
sanh, y ư khổ hạnh, chí cứu cánh xứ”.
Phật
pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu
như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai
học. Nhưng Thế Tôn năm xưa còn tại thế, đối với người tu khổ hạnh,
chữ hạnh này đọc thanh thứ tư, đọc là “hêng”, đó là động từ, tức là
đặc biệt tán thán tu khổ hạnh. Vậy có mâu thuẫn với những gì Phật
nói không? Xin thưa với quý vị là không mâu thuẫn. Nếu như chỉ thấy từ
bên ngoài thì dường như là mâu thuẫn với pháp Phật nói, nhưng trên
thực tế là bổ sung cho nhau. Khổ, lìa khổ được vui. Khổ là gì vậy?
Tam đồ khổ, lục đạo khổ. Lục đạo, nói cõi người, chúng ta hiện nay ở
cõi người, mọi điều nghe thấy đều cho rằng đây là cảnh giới hiện
lượng, đây là sự thật. Bạn nói cõi trời, cõi trời vui. Nói địa
ngục, ngạ quỷ khổ. Họ nói, chúng tôi chưa nhìn thấy, rất khó thể
hội. Nhưng Phật pháp nói cho bạn biết chân tướng của vũ trụ nhân sinh.
Ngài nói cho bạn mười pháp giới, nói cho bạn nghe quá khứ, hiện tại,
vị lai; nói rõ chân tướng của vũ trụ, vậy đã biến thành Phật pháp
cao sâu, không phải là cái mà người sơ học hoặc người tri thức nông
cạn có thể lĩnh hội được. Vậy tại sao Phật lại tán thán khổ hạnh?
Mỗi người đều biết, bản thân chúng ta tập khí nghiệp chướng rất
nặng, có ai mà không hy vọng mình tiêu nghiệp chướng, tăng trí tuệ?
Điều này mọi người nhắc đến thì không có ai mà không mong muốn. Nhưng
quý vị nên biết rằng, bằng lòng trải qua đời sống gian khổ thì nghiệp
chướng tiêu nhanh nhất, tiêu triệt để nhất. Điều này không khó hiểu,
chỉ trách bản thân chúng ta trong đời sống thường ngày sơ ý, lãng quên
mất đi sự việc này.
Thế
Tôn trong cõi trời người, trong ngoài tam giới, quả thực đã chứng
được phước báo cứu cánh viên mãn. Chúng ta ở trong kinh đại thừa đọc
thấy, tướng hảo của Phật nói không hết. Thông thường trong kinh đại
thừa chúng ta xem thấy, Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ
đẹp. Vô lượng là cách nói khái quát, không ai có thể nói rõ ràng hết
được. Nhưng ở trong kinh giáo quả thật có nói rõ ràng tường tận: “Vi
trần tướng hải thân”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói càng rõ ràng hơn, phía
trước chúng ta học rồi, tướng hảo bằng số vi trần của mười cái Liên
Hoa Tạng. Thông thường chúng ta xem thấy ở trong kinh là hằng hà sa số.
Đây là nói nhân gian, nói đại thế giới, nói toàn bộ vũ trụ. Chúng ta
thường nói tận hư không khắp pháp giới. Cái báo thân đó chính là
tướng hảo bằng số vi trần của mười thế giới Liên Hoa Tạng. Chúng ta
không cách gì thể hội, hằng hà sa số đã không cách gì thể hội,
tướng hảo bằng số vi trần trong thế giới lại càng vô phương thể hội.
Hiện nay là tướng hảo bằng số vi trần của mười cái thế giới Hoa Tạng.
Tại
sao Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện trong thế gian này của chúng ta vậy? Trong
cái thế giới này còn phải tu khổ hạnh. Từ khi thành đạo, 30 tuổi thị
hiện thành đạo dưới cội Bồ-đề, độ cho năm tỳ kheo tại vườn Lộc Uyển,
tăng đoàn được xây dựng, trải qua đời sống như thế nào vậy? Ngày ăn một
bữa, tối ngủ gốc cây, ba y một bát, đây là người khổ hạnh. Phật tại
sao phải làm vậy? Trước đây khi chúng tôi mới học Phật, mới xuất gia,
nghi hoặc cũng rất nhiều. Lão hoà thượng dạy cho chúng tôi không nói
rõ ràng, chỉ giảng cho chúng tôi, Thế Tôn ra đời vào thời đó, Ấn Độ
quả đúng là đất nước của tôn giáo, môn phái tôn giáo rất nhiều,
trong kinh Phật nói đó đều là môn phái nổi tiếng, có đến 96 môn phái;
Người tu hành của mỗi tôn giáo đều tu khổ hạnh, cho nên nếu như Phật
không thị hiện khổ hạnh, thì nhất định bị đại chúng xã hội chỉ
trích, chê bai. [Mọi người] sẽ nói, anh xem phái này của họ không tu
khổ hạnh, bọn họ muốn hưởng thụ, cho nên Phật cần phải thị hiện
giống như những tôn giáo khác, còn khổ hạnh hơn cả họ nữa, như vậy
mới có thể hấp dẫn đại chúng xã hội tôn kính, tín ngưỡng, đến tiếp
nhận giáo hóa của Phật Đà.
Cách
nói này cũng không phải không có đạo lý. Nhưng cách nói này vẫn rất
nông cạn, là dựa vào tình hình xã hội thời đó để luận thuyết. Nhưng
trên thực tế cử chỉ ngôn hạnh của Phật, cái gọi là có mật nghĩa,
tức là có ý nghĩa rất sâu ở trong đó. Quả đúng là lấy mình làm
gương giáo hóa chúng sanh. Cái mật ý này là gì vậy? Mật ý là bảo
với chúng ta rằng, tam đồ khổ, lục đạo khổ, mười pháp giới khổ, đó
đều không phải thật. Trong kinh Bát Nhã nói: “Phàm sở hữu tướng, giai
thị hư vọng”. Phàm sở hữu tướng bao gồm cả mười pháp giới, gồm cả
khắp pháp giới hư không giới, mười pháp giới trong tất cả cõi nước
chư Phật. Cái phạm vi này bao lớn? Tại sao phải nói đến những cõi
nước chư Phật khác vậy? Vì tất cả cõi nước chư Phật đều có quan hệ
với chúng ta. Có quan hệ gì vậy? Có lúc chúng ta sẽ di dân đến nơi đó.
Đến khi nào di dân vậy? Cái thế giới này hoại rồi. Trong kinh Phật nói
với chúng ta rất rõ ràng, cái đại thiên thế giới này có thành, trụ, hoại,
không, bốn trung kiếp. Trong bốn trung kiếp này có một trung kiếp có thể
cư trú được, ba kiếp khác đều không thể ở được, chỉ có trụ kiếp là
ở được. Thế giới thành, vào lúc này không thể ở được, lúc vừa mới
thành thì không thể ở. Hoại không ở được, cái thế giới này hoại rồi.
Rất nhiều tôn giáo của chúng ta nói đến ngày tận thế. Thế giới hoại
rồi, thế giới không thể ở được. Không, đương nhiên là không thể ở. Nhưng
ở trong mỗi trung kiếp có 20 tiểu kiếp, thời gian rất dài. Chúng ta
biết người tu thiền định, tu đến sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ
thiền, thậm chí là gồm cả tứ không thiên, thọ mạng đều phải lấy
kiếp để tính. Cái kiếp này là đại kiếp. Cái thế giới này hoại rồi,
không rồi, nhưng thọ mạng của họ vẫn chưa hết. Bạn xem, người cõi
trời phi tưởng phi phi tưởng xứ thọ mạng tám vạn đại kiếp. Bạn biết
cái đó bao lâu không? Tám vạn đại kiếp là thế giới Ta Bà chúng ta thành,
trụ, hoại, không tám vạn lần. Ở trong một đại kiếp có một lần thành
trụ hoại không. Bạn nói thử, thọ mạng đó của họ bao lâu? Và họ đến
đâu vậy? Cái thế giới này của chúng ta hoại rồi, trong kinh Phật thường
nói, họ sẽ di dời đến thế giới khác, đến cõi Phật khác. Chúng ta ở
đây hoại không, ở nơi đó đang thành trụ, có thể di dời đến nơi đó. Ở
trong tam đồ: ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, thọ mạng của họ cũng
dùng kiếp để tính. Quả báo của họ đến đâu để thọ vậy? Cái thế giới
này hoại rồi, thì họ cũng đến thế giới khác. Bạn đã hiểu được,
khắp pháp giới hư không giới, vô lượng vô biên cõi nước chư Phật quan hệ
với chúng ta mật thiết biết bao.
Những
cõi nước này đều là khu vực giáo hóa của Phật Bồ-tát. Ở nơi nào
chúng sanh có cảm, Phật Bồ-tát liền đến thị hiện. Nên dùng thân gì
độ được liền dùng thân ấy. Ở phần trước chúng ta vừa mới học qua,
đại sư Thanh Lương khai thị cho chúng ta, chư Phật Như lai ứng hóa trong
thế gian có mười loại ân đức. Đây là nêu ra đại cương, nói tường tận
thì nói không hết. Cho nên làm người không thể không biết ơn. Tri ân báo
ân. Trong kinh nói hay vô cùng: “Người không biết ơn thì gặp nhiều tai
ương”. Trong kinh văn nói “Hoạnh tử” là không biết ơn, sau khi chết rồi
chắc chắn đọa địa ngục. Không phải ngạ quỷ, súc sanh, mà chắc chắn
đọa địa ngục. Cho nên vong ơn bộ nghĩa, cái tội này rất nặng. Khổ
hạnh, đặc biệt là sẵn sàng bằng lòng sống đời sống nghèo mà trong
sạch, công đức đó là vô lượng. Công đức từ đâu mà có vậy? Vì tất cả
chúng sanh tạo nên tấm gương, cái công đức này lớn lắm. Bạn xem, có
chúng sanh nào muốn chịu khổ không? Không có. Con người tại sao tạo
tội nghiệp vậy? Chính là sợ khổ. Họ muốn lìa khổ được vui, nhưng họ
không hiểu được đạo lý, cũng không hiểu được phương pháp. Giống như
cái xã hội này có một số thanh thiếu niên, chúng ta ở bên cạnh thấy là
họ tìm vui trong khổ. Sao gọi là tìm vui trong khổ vậy? Tìm kích
thích, hút thuốc phiện, chích ma túy. Tại sao vậy? Họ cho rằng đây
là vui. Cái vui đó chỉ là vô cùng ngắn ngủi. Được một chút vui ngắn
ngủi đó, bạn phải trả cái giá biết bao đau khổ. Đây là điều vô cùng
rõ ràng, vừa nói ra mọi người đều biết.
Chúng
ta ở trong đời này, niệm niệm chẳng phải mong cầu lìa khổ được vui
hay sao? Tìm đủ mọi cách để đạt được danh vọng lợi dưỡng, để đạt
được năm dục sáu trần, chẳng phải là mong đạt được sự hưởng thụ
này hay sao? Thực tế mà nói, không khác gì so với những người trẻ
tuổi vô tri hút thuốc phiện kia. Tâm của bạn bất thiện, hành vi bất
thiện, thủ đoạn phương pháp bất thiện, làm tất cả những việc hại
người lợi mình. Trước mắt mặc dù đạt được một chút lợi nhỏ, cho
dù bạn đoạt được vương vị trong thế gian, cũng là do số mạng của bạn
có. Số mạng bạn không có, bạn đoạt cũng không được. Trong số mạng
có, hà tất phải đoạt? Số mạng có thì chắc chắn không mất. Đó là
thiện căn phước đức tu tích trong quá khứ của bạn, thì đời này dĩ
nhiên bạn đạt được quả báo thôi. Bạn không biết, không hiểu được chân
tướng sự thật, dốc sức dùng mưu kế của bạn, dùng thủ đoạn không
bình thường giành được. Giành được thế nào? Vẫn là trong số mạng
có mà. Phước số mạng có đã bị tổn giảm bớt, hao hụt rồi! Người
Trung Quốc nói rất nhiều, trong số mạng của bạn có phước báo mười đời
làm vua, thì trong nhà bạn nhất định xuất hiện mười hoàng đế, kế
thừa từng đời. Trong nhà bạn có phước báo 100 vị đế vương, đó là
bản thân tổ tiên có tích phước lớn, thì chắc chắn có 100 con cháu
kế thừa, bạn phải tin như vậy. Nhưng bạn dùng thủ đoạn không đúng đắn
để đoạt lấy vương vị, dùng thủ đoạn không đúng đắn để bóc lột nhân
dân, thì phước báo 100 đời đó của bạn có thể chỉ còn lại 10 đời, bị
tổn hao rồi! Đây là sự thật, không phải giả. Hoặc giả có, đây cũng
là sự thật không phải giả. Cái phước báo trước mắt này của bạn
không ở đời này, mà vào đời sau kiếp sau. Nhưng mà bạn ở trong đời
này dùng thủ đoạn không đúng đắn đoạt lấy thì cũng đều đến cả. Vốn
dĩ đời sau kiếp sau sẽ được phước báo lớn, hiện nay đoạt được thì
biến thành phước báo nhỏ. Tức là bạn đem phước báo của mình đưa lên trước
rồi, vẫn là phước báo của mình, nhưng hưởng thụ trước mất rồi. Ở
trong luật nhân quả nói: “Lộc tận nhân vong”. Bạn có phước mấy trăm
năm, khi bạn hưởng trước thì một đời là hưởng hết ngay. Hưởng hết
rồi, bạn còn tạo tác rất nhiều tội nghiệp. Những người bạn hại
kia, người ta sẽ trả thù. Số tài sản mà bạn đoạt lấy này, thời
gian đã đến họ muốn đến đòi nợ. Bạn nói thử, phiền phức của bạn
lớn hay nhỏ? Cho nên nhìn sự việc thật không phải đơn giản như vậy.
Hôm
qua ở đây chúng ta có vị đồng tu, cũng là người làm công quả lâu năm
của đạo tràng chúng ta. Hôm qua đến thăm tôi. Có oan thân trái chủ dựa
vào người anh ta, anh rất đau khổ. Oan thân trái chủ bảo với anh ấy
rằng, đời trước vị oan thân trái chủ này bị anh giết hại. Anh ấy
hoàn toàn không phải bịa chuyện để lừa dối tôi, các bạn rất nhiều
người đều nhìn thấy. Anh ấy cũng không phải người hay thích bịa đặt
chuyện. Vị oan gia này là đến đòi mạng, nhưng anh ấy đời này học
Phật rất nhiều năm, tâm địa rất lương thiện. Con quỷ này cũng rất
hiếm có, thấy anh ấy như vậy nên không nhẫn tâm ra tay. Vấn đề hiện nay
là nó ở trong thân anh ấy, nó ra không được. Sự việc này trước đây
chúng tôi cũng đã từng gặp mấy lần rồi. Chúng tôi biết rõ, sau khi
vào rồi họ ra không được, rất muốn tu hành. Đến hỏi tôi, mong tôi
giới thiệu một nơi để họ đi tu hành. Tôi giới thiệu họ đến núi Đông
Thiên Mục, họ rất hoan hỷ. [Chuyện này] không phải giả. Oan có đầu, nợ
có chủ. Một người ở trong đời này làm người ở thế gian này, bất kể
bạn ở thân phận nào, bất kể ở địa vị nào, bất kể sống cuộc sống
như thế nào, cũng phải thật thà, dứt khoát không được hại chúng
sanh. Không phải nói là không được hại người, mà súc sanh cũng không
được hại, cũng không nên phá hoại môi trường tự nhiên.
Kinh
Hoa Nghiêm phần trước chúng ta đã học, có thần núi, thần đất, thần
sông, thần biển, thần cây, thần thảo mộc, thần mùa màng v.v… Chúng ta
học rất nhiều rồi. Núi sông đất đai, những cỏ cây rừng rậm này có
chủ không vậy? Có. Quỷ thần đang làm chủ. Nếu chúng ta dùng cái cây
gỗ này, trong giới kinh Phật dạy người xuất gia, người xuất gia ở nơi
sơn dã, nếu muốn đốn mấy cây gỗ để làm thảo am thì cũng được, nhưng
phải làm thế nào vậy? Trước đó ba hôm, bạn đã chọn những cây nào
rồi thì bạn phải cúng tế họ, cúng tế thần cây. Cúng dường, tụng
kinh, trì chú, tiến hành đàm phán với thần cây, tôi bất đắc dĩ phải
cất ngôi thảo am tại đây để tu hành, nên cần vật liệu này, xin họ
dời nhà. Quí vị phải hiểu rằng, thần cây không phải cái cây đó đã
thành thần, mà do quỷ thần nương tựa vào cái cây này cho là nhà của
họ, họ ở trong đó. Xin họ dời nhà, đây là như pháp. Không đắc tội
với họ, họ nhất định sẽ đi. Chúng tôi hiểu được đạo lý này, cho nên
mấy năm trước, ba năm trước, chúng tôi đã mua một giáo đường tại
Toowomba Úc Châu, mấy ngôi nhà cạnh đó cũng mua luôn. Có một ngôi nhà
rất cũ kỹ, chúng tôi liền phá ra sửa lại. Ngay cửa có hai cây đại thụ,
chúng tôi cũng trước đó ba ngày cúng tế thần cây này. Sau khi cúng tế
xong, trong đồng tu chúng tôi có một đồng tu tối đến nằm mộng thấy
thần cây đến tìm. Nói rằng những người xuất gia chúng tôi đây, sau này
cúng tế xin họ dời nhà thì phải làm sớm hơn trước đó bảy ngày. Họ
nói thời gian ba ngày quá ngắn, họ vẫn phải dọn nhà thôi, nhưng rất
gấp gáp, yêu cầu chúng tôi bảy ngày. Chúng tôi nghe xong những thông tin
này, nghĩ là rất có đạo lý. Tại sao vậy? Tập khí của người Úc
Châu, tất cả mọi động tác đều vô cùng chậm chạp. Không giống như
người chúng ta bên này, làm việc coi trọng hiệu suất, động tác đều
rất nhanh. Người Úc Châu quả thật giống như con gấu túi vậy, họ không
coi trọng hiệu suất. Quả thật là bất kể làm việc gì cũng đều chậm
chạp! Bạn giao tế với họ phải thật nhẫn nại. Cho nên quỷ thần ở Úc
Châu, thần cây cũng giống như người Úc vậy, nói ba ngày không được, phải
bảy ngày, chúng tôi liền hiểu ngay. Sau này, đương nhiên hiện nay chúng tôi
ở Úc Châu, việc xây dựng cũng thường xảy ra. Sau này nếu cần những
vật liệu này, thì chúng tôi biết rồi, trước đó bảy ngày phải cúng
tế họ. Chuyện này không hề giả dối.
Nhà
Phật không bái quỷ thần. Bái ở đây không phải giống như trong tôn giáo,
đem quỷ thần xem như thượng đế, xem như là chủ tể, nhà Phật là không
như vậy. Ở trong nhà Phật lạy quỷ thần, quỷ thần là chúng sanh, quỷ
thần là bạn của chúng ta, hai bên chúng ta sống chung với nhau cũng cần
qua lại tôn trọng lễ nghĩa. Họ không phải chủ tể. Điều này so với ý
nghĩa của tôn giáo khác nhau rất xa. Cho nên chúng ta làm những việc
Phật sự siêu độ này là để khuyên họ, chúng ta hãy cùng nhau cộng tu.
Mục tiêu của Tịnh Tông chúng ta là cầu sanh Tịnh-độ, chúng ta cộng tu,
cùng nhau phát nguyện cầu sanh Tịnh-độ.
Tịnh-độ
có hay không? Thế Tôn ở thế giới này của chúng ta đã giới thiệu cho
chúng ta, đặc biệt đối với người căn tánh trung hạ mà nói là có,
chắc chắn có. Bạn chấp trước có, bạn mới có thể vãng sanh. Nếu như
bạn chấp trước nó không có thì bạn không thể vãng sanh. Nếu như Phật
đối với người căn tánh bậc thượng thượng mà nói, là nói khác so
với chúng ta rồi. Thượng thượng căn thì Phật nói như thế nào vậy?
Tịnh-độ có hay không? Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Tịnh-độ có, thế
giới Cực-lạc có, Phật A Di Đà có. Tại sao có vậy? Là tâm hiện thức
biến của chính bạn, không lìa tâm thức, đây gọi là chân tánh. Sao gọi
là người căn tánh thượng thượng vậy? Phân biệt, chấp trước buông xả
rồi, gọi là người căn tánh thượng thượng. Phân biệt, chấp trước chưa
buông xả là người căn tánh trung hạ. Người căn tánh trung hạ vãng sanh
Tịnh-độ mang theo nghiệp vãng sanh. Pháp môn này rất đặc thù. Cho nên
Ngẫu Ích đại sư, ngài là người siêu việt, thị hiện cho chúng ta thấy,
làm nên tấm gương cho chúng ta thấy, quy y pháp môn Tịnh-độ, đã lấy biệt
hiệu là Tây Hữu Đạo Nhân. Tây là tây phương, Hữu là hữu trong hữu vô,
là trực tiếp rõ ràng dạy cho chúng ta Tây Phương có thật, gọi là Tây
Hữu Đạo Nhân. Bạn thấy ngài chú giải Kinh Di Đà (Di Đà yếu giải),
phân lượng của chú giải không nhiều. Trong phần lời tựa ngài viết
rất rõ ràng là bảy ngày viết xong. Cận đại pháp sư Viên Anh có Giảng
Nghĩa, pháp sư Bảo Tĩnh có Thân Văn Ký đều là chú giải của Yếu
giải. Chúng tôi trước đây cũng đã giảng tường tận. Lão cư sĩ Lưu Thừa
Phó đã viết ra một bản giảng ký từ trong băng ghi âm.
Quyển
sách Yếu Giải này được đại sư Ấn Quang tán thán hết mức. Ở trong Văn
Sao, Ấn tổ nói: “Cho dù là cổ Phật tái lai chú giải cho kinh A Di Đà
cũng không thể vượt hơn quyển Yếu Giải này. Đây là tán thán đến
cùng tột, không cách gì tán dương hơn nữa. Năm xưa, pháp sư Diễn Bồi
đem vấn đề này đến hỏi tôi. Tôi là người tu Tịnh-độ Di Đà, ông là
người tu Tịnh-độ Di Lặc. Ông cầu vãng sanh về nội viện Đâu Suất. Ông
hỏi tôi: “Lời của Ấn Tổ nói như vậy có phải là hơi quá hay không?”.
Đây cũng là vị đại pháp sư giảng kinh. Tôi liền bảo với ông ấy, lời
Ấn Tổ nói không hề quá tí nào cả! Nói quả thật, lời ngài nói là
hoàn toàn chính xác. Hiện nay chúng ta biết, Ấn Quang đại sư là
Bồ-tát Đại Thế Chí của thế giới Tây Phương tái lai. Bồ-tát Đại Thế
Chí tán thán về ngài như vậy, thì người này là ai vậy? Nhưng Ngẫu
Ích đại sư, cả đời ngài không tiết lộ thân phận. Chúng ta nhìn thấy
Bồ-tát đại Thế Chí đã tán thán như vậy, ở trong tưởng tượng của
chúng ta, nếu như ngài không phải là Phật A Di Đà tái lai, thì chắc
chắn là Bồ-tát Quán Thế Âm tái lai mới có thể chú giải hay và thấu
triệt như vậy. Văn tự không nhiều, từng câu từng chữ quả thật là ý
của Phật A Di Đà, là ý của Phật Thích Ca Mâu Ni, đâu phải người bình
thường mà có thể nói ra được như vậy. Ngẫu Ích đại sư, bạn thấy khiêm
tốn như vậy, cũng được xem là khổ hạnh tăng. Ngài vì chúng ta mà thị
hiện, làm nên tấm gương cho chúng sanh thời mạt pháp chúng ta thấy.
Ngài trì giới niệm Phật. Ngẫu Ích đại sư vào đương thời, mọi người
cũng thường xưng ngài là luật sư, ngài đối với giới luật hạ công phu
rất sâu. Giống Hoằng Nhất đại sư những năm đầu Dân Quốc. Hoằng Nhất
đại sư trong giới luật cũng đã hạ công phu rất sâu. Đây đều là làm
cho chúng ta thấy.
Trì
giới niệm Phật, bạn mới thật sự có thể vãng sanh. Phật dạy mọi người, người căn tánh trung hạ nghiêng
về mặt sự tướng, người căn tánh thượng thượng nghiêng về mặt lý
tánh. Nhưng tánh tướng nhất như, lý sự không hai. Đây là điều mà chúng
ta cần phải hiểu. Lý tuy hiểu rõ, nhưng sự không được hủy bỏ. Nếu như
chấp trước vào lý mà bỏ sự, thì đó là sai lầm lớn rồi, còn không
bằng một người không rõ lý nhưng chuyên tâm chú trọng về mặt sự
tướng, cõi phàm thánh đồng cư họ thật sự có phần. Nếu như chấp
trước vào lý, hủy bỏ tu sự, thì cõi phàm thánh đồng cư cũng không
có phần. Bạn biết về lý hoàn toàn không thấu triệt. Thấu triệt là
kiến tánh rồi, đến khi đó thật sự vấn đề gì cũng giải quyết được.
Lý chỉ hiểu rõ một số, không thấu đáo, vậy thì vô ích. Lý phải
đến khi nào mới thấu đáo vậy? Thấu đáo rồi lại phải như thế nào
nữa? Điều này không thể không biết. Tại sao vậy? Bạn thường hay hồi
quan phản chiếu, khám nghiệm chính mình, ta rốt cuộc đã thấu đáo hay
chưa? Thật sự thấu rồi, thì một nghe ngàn ngộ, một ngộ tất cả
ngộ. Đến lúc nào bạn thật sự khai ngộ rồi, lúc đó giống như
đại sư Huệ Năng tổ thứ sáu Thiền tông vậy, tất cả mọi kinh điển bạn
thảy đều thông hết.
Chúng
ta biết đại sư Huệ Năng không biết chữ, chưa từng học qua kinh giáo.
Bạn thử xem, Tỳ kheo ni Vô Tận Tạng thọ trì kinh Niết Bàn mấy chục
năm, ngày ngày đọc tụng, đọc tụng rất thuộc, nhưng không khai ngộ. Bà
thỉnh giáo ngài Huệ Năng, lúc đó đại sư huệ Năng vẫn còn tướng tại
gia, chưa có thị hiện tướng xuất gia, tỳ kheo ni kia là người xuất
gia. Đại sư Lục tổ Huệ Năng ở Hoàng Mai chỉ là anh chàng giã gạo
dưới nhà bếp. Chúng ta hiện nay nói, ông ấy làm công quả, không phải
người xuất gia. Nhưng tổ sư truyền y bát cho ngài. Tỳ kheo ni Vô Tận
Tạng hoàn toàn không biết, chỉ cảm thấy người này rất hiểu Phật
pháp, nói ra rất có đạo lý, nên cảm phục năm vóc sát đất, liền đem
kinh Niết Bàn ra thỉnh giáo ngài. Đại sư Huệ Năng bèn bảo cô, cô đọc
đi, đọc cho tôi nghe. Cô đọc, sau khi đọc xong, thì đại sư Huệ Năng
giảng giải cho cô, cô liền khai ngộ. Nếu như bạn có năng lực này, là
chứng minh bạn đã thật sự khai ngộ. Tất cả pháp thế xuất thế gian,
không có gì mà không thông đạt. Nếu như chưa đến trình độ này, thì
thật thà niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, phải tin rằng Tịnh-độ có thật,
trong đời này bạn mới không đến nỗi luống qua.
Những
tướng lành vãng sanh, ở trong đời này tôi đã thấy qua mấy người rồi.
Đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, lâm chung không hề bị bệnh, biết rõ giờ
đi. Hôm kia còn có một lão cư sĩ đến từ phương bắc, kể với tôi rằng
chồng của bà vãng sanh, 78 tuổi biết rõ giờ đi, không hề bị bệnh, nói
đi liền đi ngay, chính mắt bà nhìn thấy. Bây giờ tín tâm phát sinh
rồi, bảo với tôi bà còn một số việc chưa buông xả được. Tôi bảo với
bà, buông xả đi, tất cả thế xuất thế gian này toàn là giả. Một
người có thể vãng sanh được hay không, mấu chốt là họ có buông xả
được hay không? Quả như thật sự buông xả, thì niệm Phật chắc chắn
vãng sanh. Bà nói ngày đó chồng bà vãng sanh, lại còn kéo bà theo,
nói với bà là nhìn thấy hai bên đường toàn là hoa sen. Chồng bà nói
với bà nhưng bà không thấy, chồng bà nhìn thấy. Khoảng chừng sau một
vài giờ ông ấy liền vãng sanh. Chúng tôi tận mắt trông thấy, chính tai
mình nghe chuyện này rất nhiều, không phải là giả, cho nên chúng ta
đối với tất cả kinh luận triển khai còn có nghi hoặc. Vẫn chưa thể
thông đạt hiểu rõ là chưa ngộ. Thông thường nói ngộ là tiểu ngộ,
không phải đại triệt đại ngộ. Tiểu ngộ, đại ngộ đều vô ích. Tại sao
vậy? Không thể dứt sanh tử, không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi.
Người đại triệt đại ngộ có thể thoát khỏi lục đạo luân hồi đi về đâu
vậy? Đến pháp giới bốn thánh, không phải đến thế giới Cực-lạc, điều
này cần phải hiểu. Chúng ta ngày nay nói mỗi ngày có chỗ ngộ là
tiểu ngộ. Cổ đức thường nói, tích tiểu ngộ thành đại ngộ. Việc
chúng ta làm hiện nay là cái công phu này. Tích đại ngộ thành triệt
ngộ, đây không phải là việc dễ dàng. Trong một vạn người, có lẽ
cũng tìm không được một người. Cần phải làm.
Mấu
chốt của ngộ hay không, xin thưa với quí vị, khổ hạnh là nhân tố rất
quan trọng. Tại sao vậy? Người bằng lòng
cam chịu sống đời sống nghèo khổ thì dục vọng sẽ không còn. Trong
phiền não điều nghiêm trọng nhất là ái dục, cái thứ này khó đoạn.
Bằng lòng cam chịu sống đời sống nghèo khổ thì tập khí ái dục sẽ
nhạt bớt, đây là việc tốt. Cho nên Thế Tôn năm xưa còn tại thế đã
thị hiện cho chúng ta thấy. Bạn hãy thử xem thánh hiền thế gian, ở
Trung Quốc, bạn thấy Khổng Tử, thấy Mạnh Tử, bạn thấy Nhan Hồi – một
học trò của Khổng Tử, đây là người mà Phu Tử thường hay tán thán.
Nhan Hồi là một vị tăng khổ hạnh, ăn uống đạm bạc, trải qua đời sống
nghèo khổ nhất. Hiện nay trên thế gian này, một số ít, chứ không
nhiều, là người tu hành chân chánh. Họ ở trên núi, không xuống núi, ở
lều cỏ, tự mình trồng một ít rau xanh ở bên lều cỏ, ngày ăn một
bữa, đâu có thức ăn gì ngon đâu! Nhưng mà họ rất trường thọ, rất
khỏe mạnh.
Bạn
thấy cụ Hứa Triết ở Singapore, năm nay 106 tuổi. Lúc cụ 101 tuổi đến
chỗ tôi để làm lễ quy y. Ngày ăn một bữa, bà ăn rau sống, một chút
ít cơm, không có dầu, không có muối, không có đường, gia vị gì bà
cũng không ăn, rau sống bà luộc sơ qua, là sống được một ngày. Bà đã
sống mấy chục năm, thân thể vô cùng khỏe mạnh, thị hiện cho chúng ta
thấy. Nghe nói hai ngày nay bà đã đi Thượng Hải rồi. 106 tuổi vẫn
còn đi khắp nơi. Bạn thấy, bà cả đời chăm sóc hơn 20 người già. Trên
thực tế những người già đó đều mới bảy, tám mươi tuổi, bản thân bà
106 tuổi, chăm sóc người già bảy, tám mươi tuổi, chăm sóc hơn 20 người.
Cho nên chính bà nói với mọi người, bà là người thanh niên 106 tuổi.
Người
thế gian chúng ta vừa sợ cái này không đủ dinh dưỡng, lại sợ cái kia
không đủ dinh dưỡng, kết quả thế nào vậy? Kết quả thật sự thiếu
toàn bộ. Tại sao vậy? Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Bạn thường hay
nghĩ nó không đủ, thì nó làm sao đủ được! Như bà Hứa Triết, như Thế
Tôn và những đệ tử của ngài chẳng nghĩ gì cả. Chẳng nghĩ gì cả
mà cái gì cũng đủ cả, chẳng có vấn đề gì cả. Điều này chúng ta
không thể không biết. Cho nên thấy người khổ hạnh thì tự nhiên Bồ-tát
phát sinh ra đại nguyện, hy vọng vĩnh viễn nương vào khổ hạnh tự
hành hóa tha, đến chỗ cứu cánh. Chỗ cứu cách của chúng ta chính là
vãng sanh Tịnh-độ, đây là chỗ cứu cánh của chúng ta. Sau khi đến Tịnh-độ
rồi, chắc chắn một đời chứng vô thượng Bồ-đề, sẽ không có đời thứ hai
nữa, một đời thành tựu.
Tiếp
theo xin xem bài kệ thứ mười sáu phía sau: “Kiến tháo hạnh nhân,
đương nguyện chúng sanh, kiên trì chí hạnh, bất xả Phật đạo”.
Bài
kệ này cũng là ở trên đường, trước đây nói trì bát, trên đường có
thể gặp được người, đây là người như thế nào vậy? Là người kiên trì
giới luật, có phẩm hạnh, thông thường chúng ta nói nghiêm trì giới
luật. Trên đường nhìn thấy rồi, phát sinh đại nguyện: “Đương nguyện
chúng sanh, kiên trì chí hạnh”. Chí là chí hướng, hạnh là hành vi.
Bất xả Phật đạo, chí ở làm Phật. Hay nói cách khác, tâm của chúng ta,
lời nói của chúng ta, thân của chúng ta, thân ngữ ý nhất định phải
giống Phật. Tâm của Phật là thiền, lời nói của Phật là giáo, thân của
Phật là giới luật, cho nên thiền, giáo, giới chính là Phật đạo, từng
giây từng phút không được lơi lỏng. Người như vậy làm gì mà không
thành tựu? Không những thành tựu, hơn nữa chắc chắn là một đời
thành tựu, sẽ không đợi đến đời sau kiếp sau. Phàm là người còn mong
kéo đến đời sau kiếp sau, đều là người trong đời này chí nguyện tu
hành không kiên cố, mới đem ngày tháng của đời này hoang phí, thậm
chí là sống vô tích sự. Đây là một sự việc vô cùng đáng tiếc. Chúng
ta có muốn thành tựu trong đời này hay không? Bài kệ này là mấu
chốt.
Phần
trước dạy chúng ta phải nương vào khổ hạnh. Thế Tôn năm xưa trước khi
nhập diệt, giáo giới đệ tử, vì ngài A Nan có thỉnh giáo Phật Thích
Ca Mâu Ni là khi Phật còn trụ thế, mọi người chúng con tôn Phật làm
thầy, vậy sau khi Phật nhập bát Niết-bàn, chúng con lấy ai làm thầy
đây? Phật đã trả lời hai câu: “Lấy khổ làm thầy, lấy giới làm
thầy”. Chỉ cần bạn có thể không bỏ khổ hạnh, kiên trì giới luật,
thì không khác gì khi Phật còn tại thế. Cho nên Phật cả đời thị hiện
khổ hạnh cho chúng ta thấy. Dù cho quốc vương đại thần, trưởng giả cư
sĩ quy y cúng dường, Phật vẫn cứ trì bát, vẫn cứ ba y một bát. Cúng
dường vườn cây, tinh xá chỉ là dùng vào việc giảng kinh dạy học mà
thôi, quyết định không có lấy nó làm tài sản riêng của mình. Phật thật
sự đã xuất gia rồi. Người xuất gia nếu như còn có tài sản, vậy đâu
phải là xuất gia. Từ đó suy ra, bạn ra khỏi ngôi nhà nhỏ của bạn
(cái nhà đó của bạn, đất đai, nhà cửa của bạn không được lớn), ra
khỏi ngôi nhà nhỏ, vào ngôi nhà lớn, trụ trì một tự viện, thì cái
tự viện kia liền biến thành nhà của bạn. Diện tích đất, chánh điện
phòng ốc lớn hơn nhiều so với nhà của bạn rồi, bạn lại vào nhà
lớn rồi. Nhà nhỏ làm chướng ngại bạn liễu sanh tử, xuất tam giới,
thì nhà lớn càng khỏi phải nói nữa! Điểm này chúng ta cần thấy rõ,
tức là phải thấy rõ ràng.
Phật
Thích Ca Mâu Ni chính bản thân ngài làm như thế nào thì chúng ta phải
học tập theo ngài. Thời đó quốc vương đại thần, trưởng giả cư sĩ
cúng dường đủ thứ, nhưng Phật một mảy may cũng không nhận, chỉ là
mượn cái nơi này của họ, dùng cách nói hiện nay của chúng ta mà nói
là lập lớp dạy học. Bạn cung cấp một địa điểm, rất tốt, chúng tôi
liền làm ngay tại địa điểm này của bạn. Giảng xong rồi, cái giáo
trình này giảng xong rồi liền đi ngay, dứt khoát không có lưu luyến,
cho nên chúng ta ngày nay gọi nó là lập lớp dạy học thì mọi người sẽ
dễ hiểu. Có một số nơi Phật chỉ giảng một bộ kinh, chúng ta ngày nay
nói là một đơn vị. Có một số nơi Phật đã giảng gần mấy bộ kinh, như
vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, có lẽ là nơi giảng kinh nhiều nhất ở trong
những nơi được giảng, ngài đã giảng mười mấy bộ kinh tại nơi này. Tại
núi Linh Thứu, núi Linh Thứu không có phòng ốc, dưới gốc cây lớn,
các học trò vây quanh Phật Thích Ca Mâu Ni để nghe giảng, không có bàn
ghế, đều là ngồi dưới đất cả. Lập lớp dạy học như vậy, đó là thời
gian dài nhất trong cuộc đời Thế Tôn. Có tinh xá, có phòng ốc đó là
người khác cung cấp, cái đó rất ít. Phật không hề có mảy may lưu
luyến, ngài tùy duyên, sao cũng tốt, không có gì là không tốt. Ở trong
đây có đạo lý rất sâu! Ở trong kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Nếu chuyển
được cảnh thì đồng Như Lai”. Phật ở bất kỳ nơi nào, cảnh giới đó
đều là cảnh giới Phật. Ở nơi hoang vắng thì mọi người ngồi dưới đất,
Phật giảng kinh thuyết pháp tại nơi đó. Mùa đông có lạnh không vậy?
Mùa hạ có nóng không vậy? Ấn Độ, chúng ta biết là xứ nhiệt đới,
không có mùa đông, cho nên ba y một bát là đủ rồi. Có gặp mưa gió bão
bùng không vậy? Cái này chúng ta tin, Phật ở nơi đó dạy học, ngoài
những đại chúng, thính chúng mà mắt thường của chúng ta có thể nhìn
thấy này ra, còn có những dạng khác mà mắt thường chúng ta không nhìn
thấy, nhưng Tu-đà-hoàn trở lên đều có thể nhìn thấy. Tu-đà-hoàn là sơ
quả của tiểu thừa, công phu đoạn chứng của họ so với quả vị Bồ-tát
sơ tín mà trong kinh Hoa Nghiêm đại thừa nói là tương đồng. Lục thông
họ chứng được hai cái là thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Hay nói
cách khác, họ có thể nhìn thấy thiên long quỷ thần cũng vây quanh Phật
Thích Ca Mâu Ni để nghe kinh. Có nhiều thiên long quỷ thần như vậy, thì
chắc chắn mưa thuận gió hòa, hiện nay nói là khí hậu tốt nhất. Bất
kể Phật đến nơi đâu, đất đai sông núi bạn nhìn thấy đều là vô cùng
tốt lành, vô cùng hòa thuận, không có gió mưa, không có chướng ngại.
Điều này chúng ta có thể tưởng tượng được. Tại sao vậy? Những người
đến nghe kinh này đều là người thiện. Trong kinh nói là thiện nam tử,
thiện nữ nhân, họ không tạo tội nghiệp.
Không
chỉ là Phật nói với chúng ta tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, mà hiện
nay tiến sĩ Giang Bản Thắng của Nhật Bản đã làm thực nghiệm về
nước, để chúng ta từ trong phương pháp khoa học hiểu rõ, cảnh giới bên
ngoài đúng là tùy theo ý niệm của chúng ta mà chuyển đổi. Chúng ta
có ý niệm tốt, niệm thiện, thì đất đai núi sông tất cả vạn vật,
không có vật gì là không thiện. Nếu như ý niệm của chúng ta bất
thiện, vậy thì chẳng có thứ gì là thiện cả. Trước đây Phật đã nói,
hiện nay nhà khoa học chứng minh ra được, có thể không tin không? Đáng để
chúng ta tư duy thật kỹ. Những người tu hành này, người thật sự có
phẩm hạnh, tôi tin tưởng mục tiêu tu học của họ là phải trong một
đời này đạt được thành tựu. Thành tựu chính là Phật đạo. Phật đạo là
gì vậy? Chúng tôi trong các buổi giảng đã từng báo cáo với quí vị
rồi, buông xả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước liền thành Phật. Cho
dù vọng tưởng buông chưa được, nhưng phân biệt chấp trước buông được
rồi thì là Bồ-tát. Phân biệt cũng không cách gì buông xả, chấp trước
buông được rồi cũng hiếm có, chứng A-la-hán. Cho nên Phật, Bồ-tát, A-la-hán
do người tạo nên. Làm sao biết vậy? Trong kinh Hoa Nghiêm nói rất rõ
ràng: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như lai, nhưng do
vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Lời nói này nói rõ
ràng biết bao! Chỉ cần chúng ta đem vọng tưởng phân biệt chấp trước
vứt bỏ, buông xả, thì trí tuệ đức tướng Như lai hiện tiền, bạn liền
thành Phật ngay. Cho nên mấu chốt là bạn có buông xả được hay không?
Bạn
thật sự phát tâm tu, bạn có kiên trì chí hạnh hay không? Mấu chốt
ở kiên trì. Kiên là kiên quyết, trì là gìn giữ, không một giây
phút nào để bị mất. Chí, dùng cách nói hiện nay, là nguyện vọng
của bạn. Hạnh là hành vi của ba nghiệp. Chí tại Phật đạo. Phật đạo
là trí tuệ cứu cách viên mãn. Trí tuệ cứu cánh viên mãn không có
từ bên ngoài, mà tự tánh vốn đầy đủ. Tự tánh có được từ đâu vậy?
Tự tánh có được từ đại định. Cái danh từ đại định này, ở trong
kinh Lăng Nghiêm gọi là “Thủ Lăng Nghiêm đại định”. Thủ Lăng Nghiêm đại
định là tự tánh vốn định, không phải có từ bên ngoài. Bản tánh của
bạn vốn dĩ định, hiện tại cũng không hề động. Cái dao động hiện nay
là gì vậy? Cái dao động không phải tự tánh. Là gì vậy? Là vô minh,
là vọng tưởng, là phân biệt, là chấp trước, cái thứ này là động,
nó hoàn toàn không ở trạng thái tĩnh. Tập khí phiền não là động.
Tại sao vậy? Nó là từ vô minh biến hiện ra. Vô minh là động. Nhưng
minh, minh là bất động. Minh là chiếu, chiếu kiến, chiếu kiến là bất
động. Cũng giống như nước vậy, chúng ta đi du lịch, nhìn thấy mặt hồ
tĩnh lặng, ở sông không nhìn thấy hiện tượng này, hồ và ao đầm sẽ
thấy hiện tượng này. Hai tuần trước đây, tôi có một cơ duyên đến Lệ
Giang Vân Nam ở hai ngày. Ở Lệ Giang nhìn thấy hồ trong sạch không bị
ô nhiễm, mặt hồ bằng phẳng không có sóng giống như mặt gương vậy.
Núi Ngọc Long Tuyết soi bóng xuống mặt hồ giống như soi hình trong
gương vậy, trong vắt như gương. Chiếu kiến. Tâm của chúng ta vốn dĩ là
thanh tịnh, vốn dĩ là bình đẳng, vốn dĩ là giác ngộ, nói với quí
vị lần nữa, vốn dĩ là từ bi, xưa nay chưa hề dao động, chưa hề bị ô
nhiễm. Đó là chân tâm của chúng ta, đó chính là Phật đạo. Chúng ta ngày
nay tại sao biến ra như thế này vậy? Ở trong kinh Phật thường nói,
không giữ tự tánh. Vào lúc nào không giữ tự tánh vậy? Chính là hiện
tiền. Hiện tiền bạn có vọng niệm (vọng niệm chính là vọng tưởng),
bạn có phân biệt, bạn có chấp trước, bạn có phiền não, bạn có tập
khí. Đây thảy đều do không giữ tự tánh biến hiện ra vậy. Ở trong tự
tánh vốn dĩ không có những cái thứ này.
Phật
rất vất vả chỉ dạy chúng ta. Dạy điều gì vậy? Dạy chúng ta quay đầu.
Đúng như ở trong kinh Lăng Nghiêm nói, nói thật quá hay, đơn giản rõ
ràng, người tu hành làm sao thành Phật vậy? Một mấu chốt quan
trọng nhất là lấy tâm không sinh diệt làm tu nhân, vậy là thành công
ngay. Phàm phu tu hành tại sao không thể thành tựu vậy? Là họ
dùng tâm sanh diệt làm gốc tu nhân, cho nên tu vô lượng kiếp cũng không
thể thành tựu. Lời nói này nói quá rõ ràng, quá minh bạch. Đây
cũng tức là nói rõ, bạn tu hành, nếu bạn không có xả bỏ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, thế thì bạn tu vô lượng kiếp, ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, bạn cũng không thể thành tựu. Nếu như bạn dùng tâm
không sinh diệt làm nhân của bạn, nhân tu hành, thì trong đời này bạn
liền thành vô thượng Bồ-đề, bạn thành công rồi. Đây chính là điều mà
Giao Quang đại sư ở trong Lăng Nghiêm Chánh Mạch nêu ra. Tu hành kinh
Lăng Nghiêm, điều quan trọng nhất là bỏ thức dùng căn. Thức là gì
vậy? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là thức. Căn là gì vậy? Tánh
ở trong căn, lục căn gồm nhãn căn, tánh thấy ở trong nhãn căn, tánh
nghe ở trong nhĩ căn, tánh ngửi ở trong tỷ căn, tánh nếm ở trong
thiệt căn. Tánh không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nhưng thức
thì có. Cho nên, chúng ta ngày nay, nhìn chung người tu hành phàm phu,
dùng cái gì để thấy vậy? Dùng nhãn thức để thấy, dùng nhĩ thức
để nghe, dùng tỷ thức để ngửi, dùng thiệt thức để nếm, trong đây
liền có phân biệt, chấp trước. Nếu như xoay trở lại chúng ta dùng tánh
ở trong căn, dùng tánh toàn là chiếu kiến. Dùng tánh để thấy, thấy
bằng tánh thấy, dùng tánh nghe để nghe, dùng tánh ngửi để ngửi,
dùng tánh nếm để nếm, thì người này liền thành Phật ngay. Bạn thử
xem sự khác biệt giữa chúng sanh và Phật, trong Lăng Nghiêm nói quá rõ
ràng, quá minh bạch. Bạn có thể buông xả tâm ý thức; tâm là vọng
tưởng, ý là chấp trước, thức là phân biệt, đem tâm ý thức buông xả,
không dùng tâm ý thức, tức là không dùng vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Chỉ cần buông xả cái này thì cái dụng lục căn của bạn chính
là tánh, chính là kiến tánh. Tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm là tánh
không phải thức. Cảnh giới bên ngoài thay đổi, đúng là tất cả pháp
từ tâm tưởng sanh. Mắt bạn thấy sắc ở bên ngoài là gì vậy? Là sắc
tánh, không phải sắc trần. Nhãn thức thấy sắc trần, còn tánh thấy
thấy sắc tánh. Thấy sắc tánh, nghe thanh tánh bèn gọi là minh tâm
kiến tánh. Tông môn nói rất hay, kiến tánh thành Phật.
Phật
dạy mọi người, quả thật mà nói, chẳng hề che giấu. Cổ nhân Trung
Quốc chúng ta nói là dốc hết bầu tâm sự, không hề mảy may che giấu,
toàn bộ trao hết cho bạn. Bạn có muốn tiếp nhận hay không? Bạn có
thể hội được hay không? Bạn thật sự nghe hiểu, thể hội được rồi, ý
niệm vừa chuyển, thì phàm phu liền thành Phật. Cho nên phàm thánh quả
thực chỉ trong khoảng một niệm. Chuyển không được, đây chính là nói tập
khí quá nặng, phiền não quá sâu. Nhưng những lời chỉ giáo này, chúng
ta nghe rồi, học rồi, giống như tia chớp vậy. Tuy là rất ngắn ngủi,
đây là một niệm sáng tánh, sáng tánh thoạt hiện, giống như tia chớp
vậy. Hiếm có! Xưa nay chưa từng lóe sáng bao giờ, bây giờ lóe sáng
được một lần, hy vọng về sau sáng được nhiều lần, dần dần dày thêm,
từ lóe sáng biến thành thường sáng, bạn đã thành tựu rồi. Làm thế
nào mới có thể giúp mình nâng cao? Đem lóe sáng nâng lên thành thường
sáng. Kiên trì chí hạnh, điều này rất quan trọng. Nói rõ thêm cho
bạn một chút, kiên trì khổ hạnh, kiên trì trì giới, bạn không bắt
tay từ chỗ này thì cái kiên trì đó của bạn là hữu danh vô thực.
Bắt đầu từ chỗ nào vậy?
Hiện
nay tôi khuyên đồng tu bắt đầu từ Đệ Tử Quy, bắt đầu từ Cảm Ứng
Thiên, bắt đầu từ Thập Thiện Nghiệp, cơ sở của ba nhà Nho, Thích,
Đạo. Bạn không bắt đầu từ chỗ này thì làm không được. Chỗ bắt đầu
phải dễ dàng nhất, không nên quá khó. Từ dễ đến khó, từ cạn đến
sâu, tuần tự tiệm tiến, vậy là thành công ngay. Cho nên tóm lại phải
hiểu được cái gốc của Nho Thích Đạo. Ba cái này là cái gốc của Nho
Thích Đạo, bản thân nhất định phải làm tốt thì bạn mới đi dạy người
khác.
Có
một số người mới nghe rất hoan hỷ, nhưng nghe được một tháng, hai
tháng, họ bèn thoái tâm. Một năm, hai năm thì họ không đến nữa. Người
xưa bảo là học Phật một năm thì Phật ở trước mắt, học Phật hai năm thì
Phật ở trên trời, học Phật ba năm thì Phật hóa hành mây khói, không còn
nữa, trở thành kẻ sành đời. Hiện tượng này trong xã hội ngày nay là
vô cùng phổ biến, là hiện tượng thường thấy. Làm thế nào đây? Hồi quang
phản chiếu. Tổ tiên chỉ dạy chúng ta: “Làm không thành công thì phải
xem lại mình”. Tại sao những người nghe này lại bỏ đi mất vậy? Vừa
mới nghe mấy ngày thì hoan hỷ quá chừng, thấy cảm động đến rơi lệ,
dần dần thì bỏ đi hết là bản thân ta chưa làm được. Tại sao thời xưa
vua Nghiêu, vua Thuấn, những người họ dạy đó, cả đời cũng không bỏ
đi, hằng ngày đi theo, hằng ngày không bỏ vậy? Phật Thích Ca Mâu Ni dạy
học, đệ tử thường theo có đến 1255 người, cả đời cũng không rời bỏ,
đều không hề bỏ đi. Nguyên nhân gì vậy? Bản thân đã làm được rồi. Cho
nên ngày nay dạy học, điều đầu tiên bản thân bạn phải nhận biết, là
chúng sanh bản tánh vốn thiện, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Trước tiên bạn phải nhận biết điểm này. Bạn không được nói họ không
có thiện căn, họ không có phước báo. Nghe được mấy ngày thì không
đến nữa, không có thiện căn. Sai rồi! Bạn suốt đời sẽ không thành công.
Bạn làm sao trách người ta được? Bạn phải nghĩ bản thân mình tu chưa
được tốt, bản thân mình giảng chưa được hay, cho nên khiến người ta bỏ
đi.
Một
bộ kinh, cùng là một bộ kinh, ví dụ một bộ kinh Di Đà, giảng một lần
đương nhiên rất mới mẻ, hai lần, ba lần còn nghe được, tám lần, mười
lần thì không nghe nữa. Tại sao vậy? Tôi đã nghe rồi, tôi nghe thuộc cả
rồi, tôi không cần nghe nữa. Tại sao khi Phật Bồ-tát đến giảng, chúng
sanh vẫn không bỏ đi vậy? Nguyên nhân gì vậy? Bạn phải hiểu rằng, Phật
Bồ-tát giảng kinh lần nào cũng khác nhau, có người nghe. Bạn giảng
kinh thì lần nào cũng giống nhau, nghe qua một lần, còn muốn nghe lần
thứ hai không? Tại sao họ giảng lần nào cũng khác nhau vậy? Vì công
phu tu hành của họ mỗi ngày một nâng cao, phiền não của họ mỗi ngày
giảm bớt, trí tuệ ngày càng tăng trưởng, cho nên cái họ giảng không
giống nhau. Đó chính là lần nào cũng có người nghe, hấp dẫn được mọi
người, vậy là thành công rồi. Cho nên bạn phải xoay lại tự hỏi mình,
bạn không nên trách người khác rằng họ không có thiện căn, họ không
có phước báo, thảy đều sai rồi! Chính mình sai mà không biết sai ở
chỗ nào, chỉ biết đi trách người khác. Phật nói rất hay, chưa độ
được mình làm sao độ người. Bạn muốn dạy người khác, thì trước tiên
phải dạy mình cho tốt. Cho nên làm thầy khó lắm! Tại sao thời xưa
làm thầy, được mọi người tôn trọng như vậy? Đạo lý ở chỗ này. Thầy
giáo là người tu hành. Tu cái gì vậy? Sửa đổi những sai lầm trong
hành vi, ngôn ngữ, tư tưởng của mình, sửa đổi mỗi ngày, sám hối mỗi
ngày. Cho nên cái có trong người họ là một bộ kinh, đời đời luôn
mới, sâu cạn đều được, có thể nói dài, có thể nói ngắn, không có gì
mà không tuyệt vời. Đạo lý là ở chỗ này. Bản thân bạn không thật
sự tu hành.
Tu
hành không có gì khác là đoạn phiền não, không yêu cầu tăng trí tuệ.
Phiền não dứt rồi trí tuệ tự nhiên sẽ mở. Đạo lý là ở chỗ này.
Cho nên Phật pháp quả thật là người hiểu thì không khó, người khó
thì không hiểu. Bạn cảm thấy rất khó là bạn không hiểu. Nếu khi bạn
hiểu rồi thì không khó. Tập khí trong đời sống thường ngày của chúng
ta phải sửa đổi, tập khí trong công việc, tập khí đối nhân tiếp vật
nhất định phải sửa đổi. Chung sống với người nhất định phải biết hằng
thuận chúng sanh, là giống như Phật Bồ-tát vậy, hằng thuận chúng sanh
trong lục đạo. Ở trong lục đạo càng xuống dưới thì tùy thuận sẽ
càng khó. Khó làm mà làm được, khó nhẫn mà nhẫn được. Tùy thuận
ở trên thì dễ. Tại sao vậy? Họ thiện nhiều ác ít. Tùy thuận ở
dưới, ác nhiều thiện ít. Không tùy thuận làm sao được? Bạn không tùy
thuận, họ thật sự sẽ bỏ đi ngay. Cho nên tùy thuận là đức hạnh. Tùy
thuận người thế gian chúng ta gọi là chiều theo. Không nên lấy tiêu
chuẩn của mình làm tiêu chuẩn, nhất định phải lấy tiêu chuẩn của
chúng sanh, lấy tiêu chuẩn của họ làm tiêu chuẩn, họ sẽ dễ dàng
tiếp nhận, tiếp nhận làm bạn, làm bạn tốt. Bản thân bạn hành đúng
đắn, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều có thể tương ưng với
tánh đức, lâu ngày rồi, tự nhiên cảm hóa được họ, họ giác ngộ thôi.
Giác ngộ họ tự nhiên sẽ quay đầu, không ai mà không quay đầu. Họ vẫn
chưa quay đầu, thì phải biết rằng ta làm chưa đủ, sức cảm hóa của ta
chưa sâu, nên họ vẫn chưa thể hội được, vẫn chưa tỉnh ngộ ra. Ta còn
phải tiếp tục cố gắng nỗ lực, sửa đổi mỗi ngày, sửa đổi từng
giờ. Vì bản thân cũng là vì chúng sanh. Nói quả thật, Bồ-tát phát
tâm vì bản thân thì ít, mà vì chúng sanh thì nhiều. Dũng mãnh tinh
tấn như vậy, nếu ta không cố gắng sửa đổi, thì chúng sanh sẽ thêm một
ngày mê hoặc, thêm một ngày tạo nghiệp, thêm một ngày thọ khổ. Bồ-tát
làm sao nhẫn tâm nhìn thấy nhiều chúng sanh như vậy đọa vào tam đồ
thọ khổ báo? Làm thế nào cứu họ đây? Chỉ có tự mình làm tấm gương
tốt để cảm hóa họ. Ngoài cách ấy ra, thì không còn cách nào khác cả!
Nói họ không nghe, nhất định phải tạo nên tấm gương.
Có
khi chúng ta cũng từ trong các bà đồng kia nhận được một chút tin
tức, cõi ngạ quỷ, địa ngục, nghe nói Bồ-tát Quan Thế Âm thường hay
đến. Chúng ta nghe xong thì hoan hỷ, tin tưởng không nghi ngờ. Đến làm
gì vậy? Đến làm tấm gương tốt của người tu hành. Ở cõi quỷ hiện
thân cõi quỷ, ở địa ngục hiện thân địa ngục, ở súc sanh hiện thân
súc sanh mới có thể giáo hóa được họ. Cho nên nhất định phải hiện
thân cùng loại, đồng ngôn ngữ, bạn mới có thể giúp họ, mới có thể
giúp họ dần dần hướng lên trên. Sự việc này không thể gấp gáp được.
Nâng lên đến cảnh giới của kinh Lăng Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm, lúc này
không phải trời người, còn cao hơn cả trời người nữa. Cho nên đại kinh
đại luận này, đại sư Thanh Lương nói rất hay, Hoa Nghiêm có mười loại
đương cơ, trong đó có một loại là phàm phu. Phàm phu như thế nào vậy?
Đại tâm phàm phu. Sao gọi là đại tâm? Nhìn thấy người khác thọ khổ,
trong lòng rất đau khổ, liền nghĩ phải giúp đỡ họ. Tuy là bản thân
mình lực bất tòng tâm, nhưng cái tâm đó thật sự có thừa. Loại người
này là đại tâm phàm phu. Họ nghe được, họ thể hội được, tiếp nhận
được. Tiếp nhận chính là y giáo phụng hành, chí nguyện vĩnh viễn
không thay đổi. Bất kể là thuận cảnh, tôi thường nói thuận cảnh không
hề tham luyến, nghịch cảnh không hề tức giận. Cả đời tùy duyên chứ
không phan duyên.
Tùy
duyên, không có chỗ nào mà không tốt, không có việc gì mà chẳng tốt,
người nào cũng đều tốt cả, đây là tùy duyên. Tại sao vậy? Họ không
có phân biệt, họ không có chấp trước, cho nên họ có thể làm được. Tại
sao chúng ta ở trong môi trường, đặc biệt là trong môi trường nhân sự,
muốn kén chọn từng tí? Đó đều là phân biệt, đều là chấp trước.
Cái tập khí này vô lượng kiếp đến nay đã hình thành lâu đời, cho nên
tùy lúc tùy nơi tự nhiên nó liền khởi hiện hành, khiến mình không
cách gì khống chế được. Đây chính là cái gọi là tập khí phiền não.
Làm sao đây? Không có cách gì khác, giác liền thay đổi. Thường xuyên
giác ngộ, từng giờ giác ngộ, từng ngày giác ngộ.
Đại
đức xưa dùng bảng công và tội, bạn thử nghĩ có đạo lý hay không?
Liên Trì đại sư có dùng bảng công và tội. Hiện nay ở trong Toàn Tập
có. Danh tự của nó không gọi là bảng công và tội, gọi là Tự Tri Lục.
Ngài mỗi ngày dùng mấy điều này để phản tỉnh, cũng có mấy chục
điều. Khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, trong một ngày này có
thiện có ác. Thiện ác đều phải ghi chép lại. Sau đó so sánh, ta hôm
nay là thiện nhiều hay là ác nhiều? Dùng phương pháp này để kiên trì
chí nguyện. Phương pháp tuy vụng về, nhưng rất hiệu quả, đặc biệt là
đối với người sơ học, đặc biệt là đối với người hiện đại. Cho nên
pháp thế xuất thế gian, nếu thật sự muốn học tập có thành tựu,
thì không thể được chần chờ qua loa, vậy thì không thể thành tựu.
Phải nghiêm túc, phải kiên trì. Phương hướng, mục tiêu không được mảy
may lệch lạc.
Bản
thân chánh, tự nhiên người khác sẽ chánh. Thậm chí là không cần nghĩ
đến người khác, nhìn thấy người khác có lỗi, lập tức kiểm điểm
lại mình, ta có hay không? Có thì sửa đổi, không thì khích lệ. Ta
hành được chánh, thì sẽ ảnh hưởng người khác. Ta hành không được
chánh, cũng sẽ ảnh hưởng người khác, người khác cũng không chánh.
Cho nên vua Thang có một câu danh ngôn: “Thiên hạ có tội, tội tại nơi
trẫm”. Ngạn ngữ Trung Quốc nói là: “Xà trên không ngay, xà dưới lệch”.
Tại sao bá tánh phạm tội vậy? Tại sao bất thiện vậy? Bản thân hoàng
thượng đã có vấn đề. Cổ thánh tiên vương, cái này có khác gì so
với Phật Bồ-tát đâu? Há chẳng phải là Bồ-tát Quán Thế Âm đã nói:
“Cần dùng thân quốc vương để độ, tức hiện thân quốc vương đến thuyết
pháp”, phải vậy không? Đúng vậy. Cần dùng thân tể quan để độ, liền
hiện thân tể quan đến thuyết pháp. Tể quan chính là chúng ta hiện nay
nói người lãnh đạo của các cấp chính phủ, tỉnh trưởng, thị trưởng,
huyện trưởng, trấn trưởng, xã trưởng, lý trưởng, đều là tể quan.
Bạn phải hành cho chánh thì lão bá tánh sẽ chánh. Bạn hành không
chánh, lão bá tánh sẽ đi đường tà thôi, đây là đạo lý chắc chắn. Chúng
ta bất kể là ở thân phận nào, bất kể là ở cương vị nào, thảy đều
phải hành Bồ-tát đạo, thảy đều hành Phật đạo. Bạn ở trong gia đình,
ở địa vị gia trưởng, gia trưởng của bạn chánh, thì người nhà bạn
không có ai không chánh. Người nhà có bất chánh, thì gia trưởng này
của ta làm chưa tốt. Giám đốc công ty cửa hàng là người lãnh đạo.
Nếu họ chánh thì mọi nhân viên đều chánh. Bản thân họ không chánh,
nhân viên đương nhiên đi đường tà thôi.
Cái
gì là chánh? Tam giáo Nho Thích Đạo đều là chánh, đều đáng học
theo. Nho gia coi trọng sự tướng, nói luân lý, nặng về luân lý. Ở trong
đạo giáo nặng về đạo đức. Phật pháp nói trung đạo, trung đạo đệ nhất
nghĩa đế. Nếu như chúng ta hiểu rõ những đạo lý này, cố gắng nỗ lực
kiên trì chí nguyện của mình. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền
não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành, đây là đại nguyện từ xưa đến nay của
tất cả chư Phật Bồ-tát mười phương thế giới. Sau khi nguyện thành, nhất
định dùng sự hành trì của mình để giúp đỡ chúng sanh, phổ độ chúng
sanh, không bỏ Phật đạo.
Hôm nay thời gian đã hết, bài
kệ này chúng ta chỉ học đến đây thôi. A Di Đà Phật!
Lấy Khổ Làm Thầy
(Trích từ Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm kinh, phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh
Không.
Giảng tại: Hiệp hội giáo dục
Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Tháng 5/2006
Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ, Viên Đạt
cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
Discussion about this post