ÔNG CHỦ FACEBOOK
“HÀNH BỒ TÁT HẠNH”
Thích Tâm Hạnh
Chàng trai chủ nhân của mạng xã hội
Facebook 26 tuổi này đã làm cả thế giới chú ý tới không chỉ vì trí tuệ và tài
năng trẻ phục vụ số đông của anh, mà anh còn là hiện tượng của sự dấn thân vào
những công việc khó làm –hiến tài sản làm từ thiện– ở độ tuổi và sự nghiệp đang
phất. Phật giáo xem sự dấn thân như thế là bồ-tát hạnh, là công hạnh vì lý
tưởng lợi tha của người Phật tử Đại thừa. Nhìn một Phật giáo phi hình thức,
người Phật tử có thể thấy được vai trò đích thực của tư tưởng Phật giáo không
nằm ở tôn giáo, mà nằm ở hành động. Tôi xin thông qua nhân vật Zuckerberg để
làm sáng tỏ tư tưởng này của Phật giáo.
Việc xem tỷ phú Zuckerberg “phát
bồ-đề tâm, hành bồ-tát hạnh” nghe ra có vẻ khó chấp nhận đối với người Phật tử,
bởi những khái niệm này vừa là thuật ngữ vừa là lý tưởng của Phật giáo Đại thừa
lại được gán cho một chàng trai người Mỹ gốc Do Thái. Nhưng kỳ thật, ‘bồ-đề
tâm’ cũng như ‘bồ-tát hạnh’ không mang một ý nghĩa tín ngưỡng tôn giáo gì cả.
Nó biểu đạt một lối sống của người đi tìm kiếm hạnh phúc thông qua sự nghiệp
tạo dựng hạnh phúc cho người khác.
Bồ-đề tâm phát xuất từ chữ ‘bodhicitta’,
là một thuật ngữ của Phật giáo Đại thừa. ‘Bồ-đề’ là phiên âm của chữ ‘bodhi’
(tiếng Pali/Sanskrit), nghĩa là ‘giác’, ‘giác ngộ’, ‘tuệ giác’, tức là hiểu
biết các pháp một cách rốt ráo, không có chấp thủ. Bodhi là
quả vị giác ngộ tối thượng mà đức Phật đã chứng đắc dưới gốc cây Assattha mà
sau đó cây này được gọi là cây Bodhi (Bồ-đề). Bồ-đề tâm (bodhicitta) do
đó có thể được hiểu là tâm giác ngộ. Đối với chư Phật, nó là thực tại; còn đối
với chúng sanh, nó cần phải được phát huy, cho nên được gọi là ‘phát tâm
bồ-đề’. Người phát tâm bồ-đề cần hiểu rõ rằng bồ-đề sẵn có trong mỗi chúng sanh
và sẽ hiện rõ khi màn vô minh được vén lên. Điều này muốn nói đến tánh giác
trong mỗi chúng sanh. Trong văn học Phật giáo Nguyên thủy (Pali), từ tương
đương của bồ-đề tâm có lẽ là ‘pabhassara citta’, nghĩa là ‘tâm sáng
chói’. Kinh Tăng Chi chép: “Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng
chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào” (A.i, 9). Như vậy,
phát tâm bồ-đề có thể được hiểu là hướng tâm đến sự thanh tịnh sáng chói vốn có
(của tâm), và cũng tức là hướng tâm đến sự giác ngộ bồ-đề (bodhi).
Với ý nghĩa Bồ-đề như vậy thì tỷ phú
Zuckerberg phát bồ-đề tâm như thế nào? Trước hết chúng ta cần xác định rằng
Phật giáo chỉ quan tâm đến con người và tâm người, mà không có một sự phân biệt
nào liên quan đến giai cấp, sắc tộc, tôn giáo, v.v. Và hành động hay nghiệp (karma)
được xem là chủ trương của Phật giáo với mục đích là làm thanh tịnh ba nghiệp
thân, khẩu, ý (việc làm, lời nói, ý nghĩ). Đây là con đường đưa đến sự đoạn tận
tham, sân, si, thành tựu quả vị bồ-đề. Nói cách khác, quả vị bồ-đề có thể chứng
đắc nếu hành trì đúng pháp (tức là làm thanh tịnh ba nghiệp, đoạn tận tham,
sân, si), mà không tùy thuộc vào một quan điểm hay danh xưng nào. Trung
Bộ Kinh, số 126, nói rằng “dù có nguyện vọng hay không, việc hành trì Phạm
hạnh một cách chánh đáng thời đạt được quả vị.” Với chủ trương hành động như
thế, tỷ phú Zuckerberg cũng có thể không ngoại lệ, và có lẽ đang đi trên đạo lộ
ấy.
Như đã nói, chướng ngại của bồ-đề
chính là vô minh và các cấu uế từ bên ngoài vào, được hiển thị qua thân, khẩu,
ý. Và Zuckerberg dường như đang thăng hoa cuộc sống khi từng bước vén màn vô
minh và buông bỏ các cấu uế ngoại lai ngang qua những việc làm của mình. Quả
thực, mức độ hạnh phúc hay khổ đau của con người tùy thuộc ít hay nhiều vô minh
và cấu uế ngoại lai ấy.[1] Càng ít vô minh (tức trí tuệ càng nhiều) chừng
nào thì người ta càng dễ dàng buông bỏ những cấu uế ngoại lai chừng ấy, và
ngược lại.
Có thể Zuckerberg không hề biết hay
nghĩ đến danh xưng ‘bồ-đề’ hay ‘chánh giác’ gì cả, nhưng những thăng hoa hạnh
phúc trên đạo lộ buông bỏ của anh (mà người Phật tử gọi là đạo lộ đưa đến
bồ-đề) thì không thể phủ nhận. Việc Zuckerberg dấn thân làm từ thiện là một
biểu hiện của sự buông bỏ như thế, và đặc biệt là tìm thấy hạnh phúc thông qua
việc xây dựng hạnh phúc cho người khác. Như vậy là anh đã phát bồ-đề
tâm và hành bồ-tát hạnh (nói theo ngôn ngữ Phật học)
trong ý nghĩa đích thực của nó mà không cần một danh xưng nào hết. Tuy nhiên,
con đường đạt đến đích bồ-đề theo Phật giáo Đại thừa là một hành trình dài và
đòi hỏi một tâm vị tha và kiên định, những yếu tố mà hiện tại ít nhiều anh đang
có.
Khái niệm “Bồ-tát hạnh” có nguồn gốc
từ văn học Phật giáo Nguyên thủy, được minh họa rõ nét nhất qua tập Bổn
Sanh (Jātaka –Chuyện Tiền Thân Đức Phật). “Bồ-tát” trong thời
kỳ văn học này là danh xưng được sử dụng chỉ cho đức Phật trong nhiều kiếp
trước, “khi Ngài chưa thành Phật, còn là Bồ-tát”. Qua đó, Bồ-tát được thấy đã
sống trong nhiều kiếp dưới nhiều hình thức khác nhau, không chỉ làm người mà
còn làm chim, làm thú… Điều đáng quan tâm là, dù ở trong sanh loại nào, Ngài
đều thể hiện một tính cách thông minh, năng động và sáng tạo trong cách ứng xử
để bảo vệ chân lý và lợi ích cho số đông. Có nhiều mẩu chuyện cho thấy Ngài đã
hy sinh thân mạng của mình vì sự bình an và hạnh phúc của đồng loại. Tất cả
những việc làm này của Ngài được gọi là “bồ-tát hạnh” có đủ trí tuệ và từ bi,
và là tấm gương đạo đức gần gũi với con người. Khái niệm “bồ-đề tâm” chưa xuất
hiện trong thời kỳ văn học này.
Trong Phật giáo của thời kỳ sau,
bồ-tát hạnh được ứng dụng một cách linh hoạt như là tư tưởng quan trọng của Đại
thừa. Người Phật tử Đại thừa hành bồ-tát hạnh dường như muốn noi theo những
việc làm mà chính đức Phật đã làm khi Ngài còn là Bồ-tát, chứ không phải noi
theo những giáo pháp được Ngài thuyết giảng sau khi Ngài thành Phật. Họ nhận
thức rằng đức Phật đã từng luân chuyển trong thế giới luân hồi như bao nhiêu
chúng sanh khác, nhưng nhờ những công hạnh như thế Ngài mới chứng được quả vị
Bồ-đề. Trên cơ sở đó, ai cũng có khả năng thành tựu bồ-đề nếu họ thực hành
bồ-tát hạnh như Ngài.[2] Người Phật tử Đại thừa hành bồ-tát hạnh luôn luôn
tâm niệm như vậy.
Tuy bồ-đề là lý tưởng, là đích đến
của bồ-tát hạnh, nhưng trên thực tế, chỉ có hành động mới thật sự được quan tâm
và là nội dung hai đặc tính của bồ-tát hạnh, đó là từ bi và trí
tuệ. Những đặc tính này chắc chắn không phải không có trong Zuckerberg.
Với quan điểm hành động như thế,
việc Zuckerberg hành bồ-tát hạnh là điều có thể nhận thức được. Nếu bồ-tát hạnh
được thực thi chỉ vì mục đích thiết thực là cứu khổ, ban vui mà không vì một
học thuyết hay giáo lý nào từ kinh điển, thì bồ-tát hạnh là những hình thái từ
thiện chân chính được thấy trong thế giới chúng ta, và nó
không bị hạn cuộc trong một học thuyết tôn giáo nào. Mặc dù lòng trắc ẩn và
tình người là động cơ ban đầu cho hành động của họ, nó có thể dần dần trở thành
một lý tưởng nếu được un đúc và tích tập lâu dài. Quả thật, có người đã quên
mình hay hy sinh mình để giúp người khác. Lý tưởng như thế có thể chăng đang ở
trong một mức độ nào đó của bồ-đề tâm mà một Phật tử hành bồ-tát hạnh đang thực
hành? Chúng ta cần đặt qua một bên các quan điểm tín ngưỡng để nhận ra những
giá trị đích thực của việc giúp đời cứu người mà Zuckerberg và nhiều người khác
đã dấn thân.
Sống trên đời, dù trong hình thức nào,
ai cũng mong cầu và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng vì quan niệm về hạnh phúc không
giống nhau nên con người có những khuynh hướng tìm cầu hạnh phúc khác nhau:
hoặc vật chất, hoặc tinh thần, hoặc cả hai. Tuy nhiên, do hạnh phúc là một
trạng thái thuộc tâm hay tâm lý, nên khó có một định nghĩa hạnh phúc thỏa đáng.
Phật giáo không trực tiếp định nghĩa hạnh phúc, mà chỉ xác định rằng khi nào
không có khổ thì khi đó có hạnh phúc. Đó là lý do Phật giáo nhằm chỉ ra sự thật
khổ mà con người đối diện, rồi chỉ ra nguyên nhân của nó để đoạn trừ.
Nguyên nhân của khổ được nói chính
là “tham ái”, đưa đến chấp thủ: cái này ‘là của tôi’, ‘là tôi’, ‘là tự ngã của
tôi’. Để đoạn trừ tham ái và chấp thủ ấy, phương pháp thường được Phật giáo Đại
thừa nhiệt tình khích lệ là hãy sống buông bỏ vì hạnh phúc của người khác, hãy
hy sinh lợi ích của riêng mình cho đến chỗ vô ngã (chỉ còn hành động hy sinh mà
không thấy có mình trong đó). Phật giáo Nguyên thủy cũng cho rằng làm lợi ích
cho mình là làm lợi ích cho người khác, và ngược lại. Kinh Tương
Ưng (S.v,168) dạy: “Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo,
là hộ trì người khác. Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.” Phật
giáo cho rằng không có một cái gì tồn tại độc lập trong cái thế giới duyên sinh
này.
Hạnh phúc thực chất là tất cả những
gì trong thế giới xung quanh ta. Một nỗi buồn nào đó bỗng nhiên ập đến khiến
cho tất cả những niềm vui đang có vụt biến mất.
Giàu có thôi vẫn không đem lại hạnh
phúc. Liệu tầng lớp giàu có ở Trung Quốc có an lòng không khi đối diện với
thống kê rằng người dân Trung Quốc không kính trọng họ? Theo Lu Xueyi, nhà
nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, các nhà triệu phú nước này có
“cảm giác bất an” là “do xu hướng của xã hội vừa ghét vừa ghen tị với những
người giàu.” Đây thật ra chỉ là đánh giá bề ngoài. Vấn đề căn để là ở chỗ “Họ
có chánh mạng không (cách làm giàu)?” và “Họ có lòng trắc ẩn đối với tầng lớp
nghèo khổ không?” Nói cách khác, trong mắt người dân, cách làm giàu và cách sử
dụng đồng tiền của họ là không đáng được kính trọng. Thật là không ổn khi tìm
thấy hạnh phúc của mình trên khổ đau của người khác. Nếu họ có hạnh phúc thì ắt
hẳn đó là những thứ hạnh phúc vị kỷ, đê tiện và tạm bợ; còn sự bất an thì lại
quá rõ ràng khi họ luôn mang trong mình tâm trạng rằng thế giới xung quanh đang
rình rập. Tự đặt mình biệt lập với con người và thế giới xung quanh, người ta
càng cảm thấy hoảng hốt và bi thảm khi kết thúc cuộc đời bằng nhận thức rằng
tất cả (những gì ‘của tôi’, ‘là tôi’) đều trở thành của ‘thiên hạ’. Sống một
cuộc sống bất an thì chết cũng chẳng lành.
Zuckerberg đã làm giàu bằng chính
công sức và trí tuệ của anh (chánh mạng), đồng thời sẵn sàng mở lòng san sẻ
những gì anh có cho người khác; cả hai mặt, anh đều đáng được tôn kính.
Anh hẳn đã hơn người trong việc tìm
cầu hạnh phúc. Hạnh phúc của anh không dừng lại ở sự giàu sang và hưởng thụ;
hạnh phúc của anh không dừng lại ở tuổi trẻ tài cao; hạnh phúc của anh không
dừng lại ở đứa con cưng Facebook; hạnh phúc của anh không dừng lại ở danh tiếng
trọng vọng; và có lẽ hạnh phúc của anh cũng không dừng lại ở công tác từ thiện.
Nhưng anh có tất cả. Và tất cả đã tạo ra cho anh một hạnh phúc bao la, không
biên giới.
Có lẽ đối với anh thế giới này là
một thực thể duyên sinh nên anh đã và đang tìm cách kết nối thành một mối tương
quan sinh tồn, điển hình được thấy qua mạng xã hội Facebook mà anh làm chủ,
cũng như qua công tác từ thiện mà anh đã dấn thân. Nếu nhìn được như vậy, anh
đúng là đang thực hành bồ-tát hạnh, và lấy con người và thế giới này làm môi
trường tốt để nuôi dưỡng cho mình một hạnh phúc cao cả.[3)
Không phải vô cớ mà chàng trai 26
tuổi Zuckerberg được tạp chí Time (Mỹ) ưu tiên dành cho danh
hiệu “Nhân vật của năm 2010” dù tên tuổi của anh được truy cập trên xa
lộ thông tin online thua xa Julian Assange, chủ trang Wikileaks, người đã làm
xáo trộn ngoại giao quốc tế. Điều này cho thấy cái thiện được tôn vinh. Đáng
nói là danh hiệu đó của anh được hầu hết cư dân mạng tán đồng và hết lòng
ngưỡng mộ. Hạnh phúc chân thật đang chào đón những ai sống với tâm từ bi và trí
tuệ như ông chủ Facebook này.
(Văn hóa Phật giáo, số 137)
Discussion about this post