NỮ GIỚI CHÂU MỸ
ĐANG THAY ĐỔI PHẬT GIÁO NHƯ THẾ NÀO
Rita M. Gross (*) – TN.Tịnh Quang chuyển dịch
Nữ giới Mỹ
đang đưa Phật
giáo bước ra khỏi chế độ phụ hệ (tộc trưởng) của quá khứ, tham gia tự tin
vào các lãnh vực như là các
học viên, giáo sư,
và các nhà lãnh đạo. Công việc này chưa phải là kết thúc, Tiến
sĩ Rita M. Gross, một trong
những nhà tư tưởng nữ quyền hàng đầu của Phật giáo
nói, nhưng vai trò của phụ
nữ Phật giáo Mỹ là
chưa từng có
và họ có
thể tiếp tục thay
đổi Phật giáo.
Sự đa dạng tuyệt đối của
các hình thái
thực hành Phật giáo ở Bắc Mỹ khiến nó không đơn giản để
khái quát về các vấn đề của phụ nữ trong Phật giáo. Mỗi đơn vị của
Phật giáo được đại diện ở Bắc Mỹ, Đông Nam Á, Việt Nam, Tây Tạng, Hàn
Quốc, Trung Quốc, và nhiều
tông phái Phật giáo Nhật Bản, tất cả đã xuất hiện ở đây. Một số hình thức của Phật giáo Châu Á, đặc biệt
là Nhật Bản và Trung Quốc, đã được cắm vào ở Bắc Mỹ trãi qua bốn hoặc năm thế hệ. Nhiều Phật tử của các dân tộc khác đã đến gần đây, sau khi chính sách nhập cư thay đổi từ năm 1960 tạo điều kiện
thuận lợi cho việc nhập cư từ châu Á.
Ngoài ra, một số lượng
đáng kể của cư
dân Bắc Mỹ vốn không phải là Phật giáo đã cải đạo và theo Phật giáo từ cuối những năm 1960. Ban đầu, những những người gốc Mỹ này đã biểu hiện khuynh hướng chống
lại truyền thống và sự bất mãn đối với tôn giáo và văn hóa của người Âu-Mỹ, và có sự hưởng ứng
với các bậc
thầy châu Á-những người bắt đầu tiếp cận
với quần
chúng phương Tây. Bây giờ, vào đầu thế kỷ 21, những người cải đạo theo
Phật giáo từ các nhóm dân tộc không có truyền
thống kết hợp với Phật giáo đã trở thành một phần của cảnh quan tôn giáo Mỹ. Sự phát triển này thêm
phức tạp hơn nữa đối
với Phật tử Bắc Mỹ, vì quan niệm của họ về Phật giáo thì hoàn toàn khác biệt với cộng đồng Phật
tử truyền thống.
Nhiều người quan sát về Phật tử nhập cư và cho rằng , bao nhiêu thế hệ họ đã
sống ở Bắc Mỹ
thì không phải là vấn đề, Phật giáo là một lực
lượng bảo thủ, thúc đẩy sự liên kết và những lễ hội của nền văn hóa châu Á
và tổ tiên của họ. Thông thường, họ bày tỏ chút ít sự không
hài lòng với Phật giáo như họ đã tiếp nhận được nó, và có
sự thích thú trong tình trạng Phật giáo “Mỹ hóa.”
Với người cải đạo-trở thành một
Phật tử gốc Mỹ là một phần bảo vệ đối với họ (Phật tử Á châu) nhằm
chống lại các giá trị truyền thống của Mỹ. Tuy nhiên, sự thay đổi (hay thích ứng
với nền văn hoá mới) thì đánh mất lòng trung thành với
các hình thức văn hóa châu Á, và thường thấy qua các
hình thức truyền thống bao bọc Phật
giáo hết
sức vụng về. Các hình thức của Phật giáo để lại phía sau một di sản tôn giáo với sự hiếu kỳ của người
khác, thông thường những người bản xứ sẽ không ngần
ngại để mang lại một tinh thần tương tự về việc khám phá đối với bản
sắc tôn giáo mới của họ. Những người trở thành Phật tử đã làm điều đó, phát triển phương pháp tiếp cận tư tưởng
Phật giáo và thực hành là
đặc trưng đối với người phương Tây. Vì lý do này, chứ không phải vì dân tộc tính của họ,
thuật ngữ “American Buddhism” được sử dụng để mô tả Phật giáo của người gốc Mỹ.
Trong suốt lịch sử lâu
dài của nó, Phật giáo đã vượt qua biên giới văn hóa và đưa vào hình thái đặc
biệt
tùy theo mỗi văn hóa. Những thể thức Phật giáo mới đã
được phát triển bởi người dân bản địa-những người đã
trở thành người Phật tử, không phải bởi các du khách và những nhà
truyền giáo mang giáo lý Phật giáo vào một ngôi nhà mới. Trong cùng một cách,
đó là thực
chất mà cuối cùng “Phật giáo châu Mỹ” sẽ phát triển, và rằng những Phật
tử
gốc Mỹ sẽ đóng một vai trò lớn trong sự phát triển này. Vào đầu
thế kỷ 21, “Mỹ hoá” Phật giáo là một chủ đề gây tranh cãi. Những các nhà quan sát đồng ý rằng Mỹ hoá sẽ bao gồm các vai trò khác nhau đối với phụ nữ hơn là với truyền
thống Phật giáo, và nữ
giới bản địa sẽ đóng một vai trò lớn trong sự phát
triển này.
Để hiểu những gì đang bị
đe dọa đối với nữ
giới Phật giáo Mỹ, đó là cần thiết để hiểu một số tính năng
quan trọng của truyền thống Phật giáo. Đầu tiên, không khác gì tất
cả các tôn giáo chính trên thế giới, Phật giáo có lịch sử nam giới thống trị.
Theo truyền thống, những
sự khảo sát về thiền và triết học mà nhiều người nghiên cứu tại các trung tâm của Phật giáo được thực hành gần như độc
quyền của nam giới. Mặc dù theo văn bản truyền thống, Đức Phật đã bắt đầu kết nạp họ vào tổ chức tổ chức song song với sự thành lập tu
viện của nữ giới
trong đó thiền và triết học có thể được nghiên cứu mạnh
mẽ; tuy nhiên, họ
chỉ được hỗ trợ rất ít,
không có uy tín, và đã chết trong phần lớn sự quên lãng của
thế giới Phật giáo. Cũng
thế, những người được tôn trọng và vinh danh
trong cộng đồng Phật giáo hầu như luôn luôn là những người đàn ông.
Thứ hai, ngoại trừ Nhật
Bản, tất cả các xã hội Phật giáo truyền thống được đánh dấu bởi sự bố trí đặc chia tu viện mạnh mẽ. Phật giáo bắt đầu như là một tôn giáo của những người thoát ly
thế tục, và không bao giờ bị mất hương vị hoặc các nhu cầu và những giá
trị đi kèm với sự lựa chọn là bỏ lại sự nghiệp, gia đình và xã hội thế tục về phía
sau. Những
phụ nữ xuất gia, thường được gọi là “nun”
trong văn học phương Tây, và được tìm thấy trong hầu
hết trong
nhiều tông phái của Phật giáo, nhưng, như đã nói, họ gần như không được
hỗ trợ tốt cũng không có uy tín như đối với nam
giới
xuất gia, thường được gọi là “monk” trong
văn học phương Tây. Một đứa con trai làm tu sĩ mang
lại vinh dự lớn cho gia đình, trong khi một cô gái xuất gia để trở thành một nữ tu mang lại chút ít uy tín cho gia đình, hoặc thậm chí gia đình có thể xấu hổ vì điều này.
Thêm nữa, các
môn thiền định và triết học liên quan với Phật giáo đã được thực hành gần như
độc quyền trong các tu viện, đó là lý do tại sao họ được thực tập hầu
như chỉ xuyên
qua những người đàn ông. Phần lớn, những người Phật tử, cư sĩ nam và nữ đã không có được thời gian hay khuynh hướng để theo đuổi thiền định và triết học với bất kỳ phạm vi khả dĩ. Tuy
nhiên, ở các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là sự thực
hành các
công đức để tích tập nghiệp tốt cho sự tái sinh tiếp
theo, và thực hành đạo đức khác nhau đều được
phát triển xuyên
qua những người Phật
tử.
Đến nay, những người Mỹ trong
cương vị là Phật tử, họ cũng có công việc và
gia đình, và đã cố gắng để theo đuổi những ngành tốn nhiều thời gian nghiên
cứu và thực hành, khởi đầu triệt để nhất của họ là từ các
mô hình châu Á. Đối với các
Phật tử gốc Mỹ, Phật giáo là sự nghiên cứu và thực hành của họ, phần lớn họ đã bỏ qua khía cạnh khác của Phật giáo phát triển
ở châu Á.
Sư khởi hành ấn tượng khác là cách thức mà nữ giới tham gia vào Phật giáo Mỹ. Một số nhà
bình luận Phật giáo cho rằng các mô hình cung ứng sự tham gia bình đẳng của nữ giới là nghiệp vụ đặc
biệt của
Phật giáo phươngTây.
Nữ giới và nam giới Phật giáo có được nhiệm vụ này, và những nhóm Phật giáo Mỹ thực sự hoàn toàn khác nhau từ các đối tác châu Á của mình về sự biểu hiện, đặc trưng là sự hoạt động tích cực của nữ giới tại các trung tâm thiền
định và các diễn đàn khác của Phật Giáo. Một số nhà quan sát
cho rằng điều này là sự khác biệt đáng chú ý nhất giữa các trung tâm thiền Phật
giáo Châu Á và Mỹ. Tuyên bố này có nghĩa là không chỉ để thu hút sự chú ý đến
sự hiện diện của phụ nữ mà còn kèm theo lòng trung thành mà
người Mỹ đã sao chép hầu hết các khía cạnh khác của một trung tâm thiền định
truyền thống. Hình tượng là như nhau và thực hành thiền định đều giống nhau, thông
thường các nghi
lễ được cất lên trong ngôn ngữ châu Á,
và, trong nhiều trường hợp, họ mặc áo choàng châu Á
trong khi thiền định. Nhưng nữ giới thực tập bên cạnh nam giới hơn là bị cô lập trong một trung tâm thiền của nữ giới đang thiếu tiền và không
có uy tín.
Không còn nghi ngờ gì nữa,
sự hiện diện mạnh mẽ của nữ giới trong sự thay đổi Phật giáo còn thiếu một cái gì đó với thời gian đến của Phật giáo ở Bắc Mỹ. Mặc dù
Phật tử đã có mặt ở Bắc Mỹ trước năm 1960 và năm 1970, những thập kỷ qua đã thấy nhiều sự di dân của nhiều giảng viên Phật tử châu
Á và số lượng lớn của
Phật Tử Âu-Mỹ cải đạo theo Phật giáo. Những năm này cũng đánh dấu sự xuất hiện của
làn sóng thứ hai của chủ nghĩa nữ quyền. Hầu hết, nữ giới bị thu hút bởi Phật giáo không phải
đóng một vai trò phụ, vai
trò hỗ trợ để nam giới nghiên cứu và tu tập trong
khi nam
giới đã có được sự phục vụ riêng.
Những phụ nữ này khẳng định rằng nếu nghiên cứu và thực hành tốt cho nam giới, thì điều này cũng sẽ tốt cho nữ giới, và họ đã lập những kỷ
luật này một
cách nhiệt tình. Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên,
thời gian may mắn đã
đến, đã mãi mãi thay đổi bộ mặt của Phật Giáo châu Mỹ, và hẳn có thể có một tác động tốt về
Phật giáo trên toàn thế giới.
Ban đầu Nữ giới Phật
giáo Mỹ
dường như gặp phải nghịch lý cho họ. Một mặt, các giáo lý căn bản là vượt thoát giới tính và bình đẳng giới tính, và nhiều người đã tìm thấy việc thực hành thiền định
không chỉ là
không chấp thủ vào giới tính nhưng là sự giải phóng mãnh liệt. Đối với phong trào phụ
nữ quyền năm 1960 và năm 1970, Phật giáo và chủ nghĩa nữ quyền dường như là
đồng minh, vì lý do chính đáng.
Mặt khác, các hình thái biểu hiện thông qua những giáo lý
và thực tiễn đã được chuyển giao cho nam giới thống trị thì không khác gì các tôn giáo khác. Các giáo viên và các
nhà lãnh đạo khác, hầu hết là những người đàn ông. Tiếng nói của đàn ông phủ đầy trong
các nghi thức, ít nhất đã được dịch sang tiếng Anh. Và, mặc dù các giáo lý
căn bản là
không chấp vào giới tính và bình
đẳng giới tính, khám phá sâu
hơn vào các văn bản truyền thống cho thấy tư tưởng ác cảm cũng có xu
hướng mạnh để ủng hộ người đàn ông hơn là đàn bà trong các vấn đề nghiên cứu và thực hành. Nhiều phụ nữ
gặp phải sự
chỉ trích và tẩy chay vì đã chỉ ra những thực tế
này. Họ được cho biết rằng Phật Pháp là vượt ra ngoài
giới tính, và nữ giới đã có cảm tính bị chia rẽ quá
mức khi họ đã bị lấn áp qua những
câu chuyện kỳ
thị hoặc sự thống trị của nam giới.
Đầu tiên, các vấn đề đụng phải nữ giới
Mỹ, có thể được chia thành hai điểm chính chính của sự quan tâm. Họ phải đối
mặt với vấn đề của việc tìm kiếm theo cách của họ trong một truyền thống, và phần lớn, đã không được quan tâm đặc biệt với sự tham gia của nữ giới trong hầu hết các tổ chức có giá trị- của thế
giới nghiên cứu và thực hành. Và các nữ giới đã cải đạo từ truyền thống của họ phải đối mặt với vấn đề về sự nỗ lực để hòa nhập và khát vọng chủ nghĩa bình
đẳng như truyền thống của họ, với mong muốn của họ là tham
gia đầy đủ trong thế giới nghiên cứu và thực hành.
Hầu hết nữ giới
gốc Mỹ này bắt đầu thực hành thiền định và nghiên cứu giáo lý Phật
giáo trong những năm 1960 và năm 1970 có thể không trực tiếp biết về lịch sử hay ý nghĩa hoạt động của mình hoặc các thái độ truyền
thống đối với nữ giới. Mặc dù giới tính có sự rõ nét ở quê hương châu Á, các bậc thầy Phật
giáo khi
đến giảng dạy ở Bắc Mỹ đã không có sự cư xử khác biệt với sinh viên nữ khác với sinh viên nam.
Những giảng viên
này làm việc với thiền sinh nữ phần lớn họ không có sự định kiến là một trong các khía cạnh đáng chú ý của câu chuyện
này. Khi được hỏi tại sao họ không áp
dụng các định mức tập
tục của Phật giáo châu Á và họ nghĩ như thế nào về
giới tính ở Bắc Mỹ, họ đã đưa ra hai lý do. Trước tiên, các thiền sinh nữ muốn hiểu biết giáo lý, và
rằng một học sinh yêu cầu được dạy là yêu cầu quan trọng nhất. Thứ hai, nữ giới tham gia cùng với người nam giới trong các buổi sinh
Phật giáo, họ cho rằng quy
tắc giới tính của người Mỹ khác biệt các quy tắc châu Á. Sự trùng hợp may mắn của chủ nghĩa nữ quyền và
sự xuất hiện của các
bậc thầy Phật giáo phải được ghi nhận một lần nữa, nếu những vị giảng viên này đã đến đây mười
hay hai mươi năm trước, trong những năm 1950, tình hình sẽ rất khác nhau.
Tuy nhiên, phụ nữ nhận
thấy sự phổ biến của đàn ông như các giáo viên và các chức năng khác có
thẩm quyền của Phật giáo, và tiếng nói của đàn ông được thể hiện trong hầu
hết các tâp
tục nghi lễ. Những người biết thêm
về lịch sử Phật giáo và giáo lý truyền thống gặp rắc rối bởi các giáo lý liên
quan đến vị
trí tâm linh nữ giới nằm dưới đàn ông và
không có khả năng để đạt được giải thoát cho đến khi họ được tái sinh trong cơ
thể của một người đàn ông. Tuy nhiên, cho đến khi họ đã được đào tạo đầy đủ
trong các lĩnh vực khác nhau của Phật giáo, nữ giới từ một vị
trí thấp
kém thách thức những quan điểm này hoặc khởi xướng sự thay đổi.
Nữ giới gốc Mỹ đã sử
dụng nhiều chiến lược tương tự để đối
phó với sự thống trị của nam giới Phật giáo cũng như các phụ nữ Kitô giáo
và Do Thái đã được sử dụng trong cuộc đấu tranh của họ. Các nhiệm vụ chủ yếu
hướng tới việc bao gồm
nghi thức phục vụ đối với giới tính và bình đẳng tính, để thúc đẩy phụ nữ vào vị trí lãnh đạo, và, cuối
cùng, phụ nữ phải trở
thành bình
đẳng hoàn toàn như các bậc thầy Phật giáo. Hai nhiệm vụ
trước đây được thực hiện sớm hơn và dễ dàng hơn trong nhiều cộng đồng. Cuối
cùng là khó khăn hơn, nhưng bây giờ, vào đầu thế kỷ 21, nhiều phụ nữ gốc Mỹ cũng đã trở
thành giáo sư-bậc thầy trong Phật giáo.
Mặc dù thiền định là kỷ
luật tôn giáo chính
được thực hành bởi các Phật tử gốc Mỹ, nghi thức tụng niệm là một phần quan trọng của nhiều cơ sở thiền định. Đây là trường hợp đặc
biệt đối
với việc thực hành Kim Cương thừa Tây Tạng và, với một
mức độ ít hơn, đối với Phật giáo thiền Nhật bản.
Nhiều cộng đồng Phật
tử gốc Mỹ tụng nghi thức của họ của họ trong ngôn ngữ
châu Á, nghĩa là sự tham cứu giới tính chưa rõ ràng với họ,
nhưng nhiều nhóm khác sử dụng tiếng Anh. Các bản dịch sớm nhất đã được xuất hiện trước sự nhượng
bộ của nam tính như
việc sử dụng tiếng Anh
được chấp nhận, và thường là bản dịch tiếng Anh nhiều nam tính hơn so với bản gốc châu Á. Những
từ không có giới tính cụ thể trong một ngôn ngữ châu Á được dịch
là “son” (con trai) hơn là “child” (con), hay
“man” (đàn ông-con người) hơn là “human” ( loài người-con người) và đại danh từ giống đực “he”
là luôn luôn được sử dụng để chỉ người hành thiền.
Trong tình trạng như vậy, các
bản dịch này đã dẫn
đến tình trạng gần như quy ước trong
một số nhóm. Những người phản đối đã chế nhạo và nói rằng, là Phật tử, họ cần phải “ở trên sự khờ khạo thế tục như thế, vấn đề không quan trọng, vì mọi người đều biết rằng các sự đề cập đều bao gồm phụ nữ.” Dần dần, hầu hết các lễ nghi đã được và đang
được thay đổi bắt đầu của thế kỷ 21.
Một vấn đề sâu sắc hơn
xuất hiện. Việc
xướng lên tên của tổ tiên dòng dõi từ thế
hệ của mình sau
tên Đức Phật hay một số bậc thầy khác
ở Trung ương là một phần quan trọng của nhiều tổ chức Phật giáo. Những việc xướng tụng như vậy để xác minh tính xác thực
của một dòng
truyền thừa và vị trí của mình trong việc truyền trao giáo
lý đi
từ nền tảng của Phật giáo. Các lịch đại truyền thừa, ngoài ít trường hợp
ngoại lệ, tất cả là đàn ông.
Nhiều nữ Phật tử có sự hiểu biết rất đau buồn vì sự thiếu vắng của
tổ tiên truyền
thừa nữ
giới và các vai trò kiểu mẫu, và họ đã nghiên cứu các văn bản Phật giáo đối với những đặc trưng này. Đã có các Tỳ Kheo Ni vĩ đại trong
lịch sử của Phật giáo, nhưng họ hiếm khi nổi bật trong
bộ nhớ của Phật giáo như các đối tác nam của họ. Một trong những nguồn phổ biến
nhất cho Phật
tử gốc Mỹ biết đến Trưởng lão Ni qua Tiểu b ộ kinh- Therigata
(“Các bài kệ của những nữ cao tuổi”). Những câu chuyện và những bài thơ ghi
lại những thành quả của thế hệ đầu tiên của phụ nữ Phật giáo, đệ tử trực tiếp của Đức Phật, những người đạt được cùng một trình độ giác ngộ như những đệ tử nam giới của Phật. Ít
nhất cũng
có một tổ chức Phật giáo thiền, tại trung tâm San
Francisco Zen, bắt đầu thực hiện bằng việc xướng lên tên
của những vị
trưởng lão Ni được ghi nhận trong Therigata, kết thúc buổi lễ với sự thừa nhận về “ tất
cả các nữ tổ tiên đã
bị bỏ quên”, vào những ngày lễ xen kẽ. Tuy nhiên, một
số thành viên nam của cộng đồng phản đối rằng những trưởng lão Ni không ở trong hệ thống trực
tiếp
thọ giáo từ đức Phật và giáo pháp của
cộng đồng này, mặc dù họ đã được xem là những đệ tử Phật đầy đủ trí tuệ , sự
truyền thừa
chủ yếu chỉ là một nam đệ tử, người đã trở thành tổ tiên trực tiếp của
tất cả các vị
thầy Zen. Tuy nhiên, hầu hết các thành viên của cộng đồng, tiếp tục coi việc
thiếu tổ tiên nữ như một sai lầm. Khi nghiên cứu tiếp tục, họ tìm thấy được nữ giới đạt được trình độ
giác ngộ và có nhiều kết quả cao từ những tài liệu lịch sử mà trước đây chưa
được biết đến.
Cối lõi hơn là những gì mà một
số Phật tử
gốc Mỹ có tư tưởng bình đẳng bắt đầu gọi sự kiện này là “vấn đề của giáo viên nam.” “Vấn đề” này có hai khía cạnh, một
trong số chúng giới hạn trong một thời gian cụ thể và sự tập hợp của các trường hợp, và nhiều căn nguyên khác. Việc đầu tiên được cân nhắc đến
một loạt các vụ bê bối tình dục đã bị phát hiện trong nhiều cộng đồng truyền
đạo vào những năm 1980. Một số giáo viên châu Á tham gia tự do trong
giấy phép đặc trưng của những
năm 1960 và 1970, tiến hành thường xuyên các vấn đề tình
dục với học sinh của mình. Trong một số trường hợp, hành vi này đã được hé lộ và đã bị phát hiện
bởi mọi người ở trong cộng đồng, nhưng một vài trường hợp khác, vấn đề này được
giữ bí mật. Mặc dù các giáo viên đã giữ bí mật, họ có ít nhiều
đối tác, bí mật làm
vấn đề trở nên cực kỳ mơ hồ trong thời gian dài. Vào những năm 1980, nhiều sự kiện đã được quan
tâm thay đổi, và nhiều phụ nữ bày tỏ sự phẫn nộ đối với nam giáo viên, họ cảm thấy bị lợi dụng. Cũng có sự thảo luận đáng kể về các phép tắc đạo đức của sự thân mật tình dục
giữa các đối tác quyền lực không đồng đều. Kết quả cuối cùng của cuộc khủng
hoảng này là gần như tất cả các tổ chức cộng
đồng
hiện thời đều có các hướng dẫn rõ ràng, không khuyến khích hoạt động tình
dục giữa giáo viên và học sinh, và có sự
ưu tiên ,bảo đảm an toàn cao đối với tình dục đối với nữ (và nam) sinh viên.
Cơ bản hơn “vấn đề
của giáo viên nam” liên quan sự thực hiện lâu đời của Phật giáo về việc hạn chế vai trò thuyết giảng, hầu như chỉ ưu ái cho nam giới. Một số nhà bình luận đã xác định sự thiếu vắng của nữ giáo viên, thuộc về lịch sử và trong hiện tại, như các vấn đề quan
trọng nhất đối với nữ giới
trong Phật giáo. Trên mặt lịch sử, sự thiếu vắng này dẫn tới
các vấn đề xảy ra với sự vắng mặt của nữ giới trong các nghi lễ truyền thừa, cũng như thiếu các vai trò kiểu mẫu và trí tuệ của những nữ hành giả đó là
sự mất tích từ giáo lý của truyền thống. Việc thực hành chỉ
có nam
giáo viên sẽ gửi đi một thông điệp mạnh mẽ rằng không khuyến
khích cho các môn sinh nữ. Tuyên bố một cách nghiêm túc rằng Phật pháp vượt ra ngoài giới tính là khó
khăn và
mâu thuẫn nếu như hầu hết tất cả những người thể
hiện và dạy Phật
pháp có cơ thể của giống đực.
May mắn thay, các giáo
viên nữ giới đang ngày càng trở nên
phổ biến trong các Phật tử gốc Mỹ. Phải cần nhiều năm cho
một sinh viên nghiên cứu thiền định và triết học Phật giáo để trở
thành đủ điều kiện để giảng dạy, và các sinh viên đầu tiên được ủy quyền của
các giáo viên châu Á của mình để dạy giáo pháp là nam giới. Tuy nhiên, đặc biệt
là giữa các thiền
sinh của Phật giáo Zen và thiền Vipassana (Nam tông), sau
nam giới, nữ giới
được phép giảng dạy tương đối sớm. Chỉ
có giữa các học viên Phật giáo Kim Cương Thừa Tây Tạng thì hầu
như không có nữ giáo viên được tìm thấy, nhưng hầu như cũng không
có nam
Phật tử được phép làm giáo viên. Nhiều nhà quan sát nhận
xét rằng
những hành giả của Phật giáo Tây Tạng là thuộc về thế hệ sau những hành giả của
thiền Zen và Vipassana trong việc đào tạo đầy đủ để trở thành giáo viên.Trong cuộc họp gần đây của các bậc thầy Phật giáo phương Tây, gần một nửa các giáo sư hiện
nay là nữ giới, dấu
hiệu phong phú cho
thấy rằng Phật giáo Mỹ thực sự có thể thực
hiện được
đầy đủ tiềm năng của nó để giải quyết một số khó khăn lâu dài
của Phật giáo.
Mặc dù nghiên cứu, thực
hành và giảng dạy là vị trí hàng đầu của sự quan tâm đối với nữ giới Phật
giáo, nhiều Phật
tử gốc
Mỹ thuộc về hành giả cũng có cuộc sống gia đình và
do đó
điều quan tâm duy nhất của họ là liên
quan đến một phần về cuộc sống của họ. Hoạt động này thể hiện những thách thức khác nhau đối với thiền sinh nữ: làm thế nào người ta có thể kết hợp chăm sóc trẻ em
với những
nhu cầu của thực hành và nghiên cứu? Theo truyền thống,
câu hỏi này không được
tán thành vì thực tế sự thực tập hầu hết đã được thực thi bởi đàn ông, những người phụ nữ thực hành nghiêm túc hầu như
luôn luôn là nữ tu, với ý nghĩa không có con.
Nhìn chung, các cộng đồng Phật giáo gốc Mỹ đã đáp ứng vấn đề hòa hợp việc chăm sóc con cái và việc thực tập mà không không bỏ rơi các bà mẹ một mình.
Thông thường,
những phật tử làm cha đảm nhận trách nhiệm chăm con cái đáng kể. Các trung tâm tu học thường cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em trong thời gian các chương trình hoạt động để cha
mẹ có thể tham gia đầy đủ hơn. Nhiều cha mẹ nhận thấy không đầy đủ các yêu cầu của họ và mong muốn được giúp đỡ và hỗ trợ nhiều hơn, nhưng dù
sao họ được khuyến khích để tiếp tục thực hành và nghiên cứu một cách nghiêm
trọng trong khi họ đang nuôi dạy con cái, thay vì chờ đợi cho các trẻ em lớn
lên trước khi trở lại thực tập tu học cho chính bản thân. Sự cố gắng này kết hợp việc nuôi
dạy trẻ em với các
nhu cầu của sự thực hành và nghiên cứu sâu hơn là một thử nghiệm Phật giáo trọng đại. Vào
đầu thế kỷ 21, điều
này vẫn còn để thấy được rằng thí nghiệm sẽ
tiến hành như thế nào và liệu nó sẽ tồn tại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Một vấn đề gặp phải khác bởi
các Phật
tử gốc Mỹ là những người có cuộc sống gia đình là
làm thế nào để nuôi dạy
trẻ em Phật
tử trong một nền văn hóa không phải Phật
giáo. Phật tử người Mỹ gốc Á cũng gặp phải vấn đề này, nhưng tình trạng của
họ là khác nhau. Ít
nhất con cái của những người gốc Á có
nhiều bà
con thân thích Phật tử và gắn liền với cộng đồng Phật giáo hơn.
Phật
tử gốc Mỹ thường sinh hoạt với những người không phải Phật
tử và hầu hết thân nhân của họ cũng không phải là Phật tử.
Hơn nữa họ
không có được sự trưởng thành như
những Phật tử
châu Á, Phật
tử gốc Mỹ có một ít tư tưởng về cách thể hiện sự tu tập của họ, mà không phải là làm thân với những đứa trẻ đặc biệt với con
cái của họ. Cộng đồng Phật giáo lớn hơn đôi khi có tài trợ cho trường học với mục
đích chủ
yếu dành cho con cái của họ, và nhiều trung tâm cố gắng kết hợp
một vài
cơ sở giáo dục Phật giáo
với việc chăm sóc trẻ em trong suốt thời gian thiền tập dành cho người lớn.
Như chúng ta đã khảo sát
các vấn đề quan trọng đối với nữ giới Phật
giáo, điều
này rất dễ dàng để thấy lý do tại sao mọi người
có ấn tượng kịch
liệt khác nhau đối với Phật giáo. Sự thể hiện rõ nét của Phật giáo như đã được thấy trong bối cảnh văn hóa của châu Á là đặt nặng sự thống trị
thuộc về đàn ông, vì vậy mà nhiều phụ nữ đã không muốn đi vào Phật giáo bởi vì đối với họ rõ ràng Phật
giáo là một tôn giáo phân biệt giới tính. Những người khác đã khám phá Phật
giáo với
tư cách cá nhân đã thấy được rằng Phật
giáo rất
chú trọng đến sự giải thoát, cho nên mà họ dành phần lớn
cuộc đời của mình để nghiên cứu và thực
hành nó.
Nghịch lý thay, cả hai
ấn tượng là chính xác. Phật giáo đã là hoàn toàn bất lợi
cho nữ
giới, nhưng
Phật giáo có thể cung cấp tự do, nhân phẩm, và hòa bình
cho nữ
giới. Tất cả phụ thuộc vào cách mà Phật giáo được ứng dụng, và phần lớn phụ thuộc vào các sáng kiến, can
đảm và trí tưởng tượng của nữ hành giả, đặc biệt là những người tiên phong một
cách bình đẳng và không còn định kiến lệ thuộc về giới tính đối với sự hiểu biết và thực hành Phật Pháp.
Những nữ Phật tử gốc Mỹ này
thực hành con đường trung
đạo, họ chẳng quan tâm đến sự tồn tại của giới tính trong Phật giáo hoặc chán
ghét sự phân biệt để rồi bỏ đạo. Chúng ta cần phải đi trên con đường trung đạo vì thời gian đã và đang tới. Đừng có ngây thơ cho rằng chế độ gia trưởng trong Phật giáo sẽ biến
mất để
tốt hơn trong một giai đoạn ngắn của thời
gian, vị
trí gia trưởng trong Phật giáo đã xuyên suốt chiều dài lịch sử của chính nó.
(*)Rita M. Gross là tác giả của cuốn sách nổi tiếng, Phật Giáo Đằng
Sau Chế Độ Gia Trưởng: Lịch Sử Tranh Đấu Nữ Quyền, Phân tích, và Tái Thiết Phật Giáo và nhiều cuốn sách và
bài viết khác. Bà ta là một giáo sư kỳ cựu dưới sự hướng dẫn của Lạt Ma Khandro Rinpoche, và học hỏi với Lạt Ma Sakyong Mipham Rinpoche.
TN.Tịnh Quang chuyển dịch, theo www.shambhalasun.com/Archives/…/HowAmericanWomen.htm
Discussion about this post