NAM TUYỀN TRẢM MÈO
QUA CÁI NHÌN NHÂN DUYÊN
Chân Hiền Tâm
Thời thiền sư Nam Tuyền …
Nhà Đông nhà Tây tranh nhau một con mèo. Nam
Tuyền thấy liền đề khởi: “Nói được thì không chặt”. Chúng không nói được. Nam
Tuyền chặt con mèo làm hai khúc.
Người xưa giải thích :
Hàng Tông sư một động một tịnh, một
ra một vào, hãy nói ý chỉ thế nào? Câu chuyện chặt con mèo, trong tùng lâm khắp
nơi bàn tán xôn xao. Có người nói: “Chỗ đề khởi liền phải”. Có người nói: “Ở
chỗ chặt”. Hoàn toàn không dính dáng! Nam Tuyền nếu khi chẳng đề khởi, khắp nơi
cũng tạo tác đạo lý. Đâu chẳng biết, cổ nhân có con mắt định càn khôn, có cây
kiếm định càn khôn. Ông hãy nói rốt ráo là ai chặt con mèo? Chỉ khi Nam Tuyền
đề khởi: Nói được tức chẳng chặt, chính khi ấy bỗng có người nói được thì Nam
Tuyền chặt hay không chặt? Vì thế nói:
trong ấy?
Kỳ thật đương
thời vốn chẳng chặt, thoại này cũng chẳng ở chỗ chặt cùng chẳng chặt. Việc này thật biết rõ ràng như thế,
chẳng ở trên tình trần ý kiến mà tìm. Nếu nhằm trên tình trần ý kiến mà tìm thì
cô phụ Nam Tuyền. Chỉ nhằm trên mũi nhọn kiếm bén xem thì có cũng được, không
cũng được, chẳng có chẳng không cũng được. Vì thế cổ nhân nói: “Cùng tắc biến,
biến tắc thông”. Người nay chẳng hiểu biến thông, chỉ nhằm trên ngôn cú chạy.
Nam Tuyền đề khởi thế ấy, không thể bảo người hạ được lời gì? Chỉ cần bảo người
tự tiến, mỗi mỗi tự dụng tự biết. Nếu chẳng hiểu thế ấy, chợt dò tìm không đến.
Tuyết Đậu đương đầu tụng ra:
Khói bụi vạch tung vẫn mơ màng
Nhờ được Nam Tuyền hay hành lệnh
Một đao hai khúc mặc thiên bàn
Trích (Nam Tuyền chặt mèo – Bích
Nham Lục)
Công án của người xưa không phải là
chỗ có thể dùng ngôn từ để lạm bàn, cũng không phải là chỗ có thể dùng tri thức
thế gian mà thấu được. Lời dẫn của công án đã ghi: “Nẻo ý chẳng đến nên khéo đề ra. Nói năng chẳng kịp phải mau để mắt. Nếu
là điện xẹt sao băng, liền hay nghiêng hồ lộn núi …”. Vậy thì đâu thể dùng
tri thức hiện đời mà biện được. Lời người xưa giải thich rõ ràng nhưng nếu
không phải kẻ đã biết ‘rốt ráo ai là kẻ chặt mèo”, cứ theo sự ấy mà luận xa gần
thì ngàn đời cũng không thể thông. Xem ra, giải thích cũng đồng không giải
thích.
Công án người xưa đề khởi, kẻ hậu
nhân thời nay không mấy người có phần. Song đã là Phật tử (không vì đã qui y thọ
giới cũng không vì màu áo Phật tử, mà vì cái gốc của chúng ta vốn là Phật tử)
nên không được phần tủy, nhất định cũng có phần da. Đâu thể không vận dụng phần
da ấy làm kế sinh nhai cho một năm sắp tới, để tất cả được an khang, thịnh
vượng, an lạc, hạnh phúc, như người người chúc tụng lẫn nhau, nhà nhà đều muốn
như thế.
I. Phát huy trí tuệ
Tu hành rồi, lại được ở gần bậc tôn
túc, vậy mà một con mèo cũng tranh nhau. Tranh, thì chặt thành hai khúc,
cho mỗi bên một nửa.
Hai nhà đều là
khách thiền xoàng nên không thể ngay nơi sự mà nhận được thực lý Tâm kinh đã
nói: « Sắc tức thị không. Không tức thị sắc» nên mới sinh tâm tranh dành. Đã
không thể ngay đó mà nhận thì chém.
còn, tranh tới tranh lui Một khi mèo
chết buông trôi dễ dàng.
Buông được,
thì không trả lời tức đã trả lời.
Thứ gì đã rơi
vào thế tương đãi, mà không nhận được bản chất của cái thế ấy, thì không tránh
khỏi tranh nhau. Không tranh con mèo thì lại hơn thua trên lời nói. Một cử chỉ
nhỏ nhiệm cũng không thoát khỏi con mắt ‘tinh vi’ của mình. Tranh quyền,
tranh lợi, tranh hơn, tranh thua. Vào đạo rồi thì tranh thầy, tranh bạn, tranh
đệ tử v.v… Đụng thứ gì cũng tranh là do không thấy được tính không của vạn
pháp. Tổ Long Thọ nói : «Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không». ‘Pháp
nhân duyên’ là tên khác của pháp tương đãi.
Sao gọi là
tương đãi? Đãi, là ‘đợi’. Tương, là ‘với nhau’. Con mèo hình thành nên bào thai
rồi, cũng phải đợi đủ ngày đủ tháng mới ra đời. Đợi nhau mà có như thế, nên gọi
là pháp tương đãi. Thứ gì đợi nhau mà có thì Phật Tổ nói ‘không có chất thật’.
Nó không phải là pháp tự dưng mà có để có thể trường tồn vĩnh viễn. Đủ duyên mới
có. Hết duyên liền không. Sanh và diệt, sống và chết cũng như thế. Đó là mặt
hiện tượng duyên khởi của vạn pháp. Phật Tổ ra đời cũng phải theo qui luật ấy
mà đi. Chỉ khác, chư vị nhận ra được bản chất của vạn pháp, nên rằng :
quấy niệm hoa rơi buổi sớm Lợi danh tâm
lạnh với mưa đêm Mưa tạnh, hoa
trơ, non vắng lặng Chim kêu một
tiếng lại xuân tàn (Trích
Phòng núi hứng khởi – Trần Nhân Tông)
Tâm phải, quấy,
lợi, danh đều phải buông sạch, vậy mà Tăng Đông đường Tây đường, một con mèo
vẫn còn tranh, nói sao Tổ sư không chém?
Duyên dứt, mọi
thứ hóa không. Con mèo chỉ còn là đống thịt thối. Hết chỗ bám !
An khang,
thịnh vượng, an lạc, hạnh phúc cũng là pháp nhân duyên. Những thứ đó không phải
tự dưng mà có, cũng không phải do cầu sinh mà được. Muốn có chúng, chúng ta
phải gieo nhân lành. Đủ duyên, quả tốt mới xuất hiện. Không thể chỉ vin vào
những lời chúc tốt lành mà có thể hình thành những điều như thế.
Đã là pháp
nhân duyên thì đủ duyên mới có, hết duyên liền không, không có gì trường viễn
khi nhân duyên đã tàn. Cho nên :
vẻ cả làng Chúc nhau thì chúc dặn dò mấy
câu Là rằng phúc thiện chớ quên Người người no ấm ta thời ấm no Hạnh phúc không giựt của người Thì ta hạnh phúc cuộc đời cũng tươi Bố thí, ừ bố thí đi ! Là nhân thịnh vượng, đời đời khỏi
lo An khang tráng kiện là nhờ Không sát hại vật, không thâm
của người Thương người như thể thương
thân Người xưa đã dạy khắc ghi trong
lòng Nhân duyên, nên phải gieo trồng Nhân duyên đều đủ mới thành quả
vui Nên rằng : Nhân phải gieo
hoài Đủ duyên mới có quả vui mà dùng
Đó là những việcphải
làm, cuộc sống của chúng ta mới hạnh phúc và thịnh vượng. Những nhân đó được
gieo không chỉ vì mục đích mình muốn đạt được, mà phải đi kèm với từ tâm thì
cuộc sống của mình mới không có nạn tai. Muốn chuyển hóa nạn tai cũng cần đến
tâm từ.
II. Phát huy lòng từ
Người đàn bà và
con quỉ tranh nhau một đứa trẻ. Ai cũng nhận đó là con mình. Để kết thúc việc
tranh cải, phán quán cho hai người cầm một chân đứa bé mà giật. Đứa bé về phía
người nào thì người đó được con. Hai người vừa bắt đầu, thì có một người buông
tay. Phán quan hỏi vì sao? Người ấy khóc mà trả lời : «Nếu cứ đà ấy mà
kéo, thì con của tôi sẽ phân thây mà chết. Chi bằng mất nó mà tính mạng nó được
bảo tồn». Nghe vậy, phán quan cho người đàn bà nhận lại đứa trẻ.
Nhà Đông nhà Tây,
chỉ cần có chút từ tâm như mẹ xót con mà buông sự tranh dành, biết đâu đã cứu
được con mèo. Tiếc là, đụng vật thì bị vật dẫn, đụng ngôn từ thì bị ngôn từ dẫn,
rồi cứ theo đầu lưỡi ấy mà đi, quên mất nhân duyên đưa đến việc con mèo bị chém.
Có tranh dành mới có việc chém mèo. Không tranh dành thì không có việc chém
mèo. Chỉ cần phá bỏ cái nhân ‘tranh
giành’ thì cái quả ‘bị chém’ nhất định không xảy ra.
Lòng từ, là
thứ hóa giải nạn tai rất nhiều, nhưng ít ai biết được điều đó. Khi chúng ta
khởi được tâm thương xót người, thì mọi tranh oán xem như chấm dứt.
Xá Ma là đệ
nhất phu nhân của vua Ưu Đà Diên. Bà là tín nữ trung thành của đức Phật và hàng
thánh chúng. Bà thường hay thân cận cúng dường đức Như Lai và ca ngợi công đức
của ngài hết mực. Ngược lại, đệ nhị phu nhân, vì thiếu trí tuệ nên thường bị lòng
ghen ghét chi phối. Bà tâu với vua Ưu Đà Diên rằng:
– Đức Như Lai
và hàng đệ tử có chỗ không chánh với phu nhân Xá Ma.
Nhà vua nghe
xong, tức giận lấy cung bắn Xá Ma. Phu nhân Xá Ma thương xót vua Ưu Đà Diên,
bèn nhập từ tam muội. Mũi tên vừa bắn ra đã quay trở lại dừng ngay giữ trán
vua. Mũi tên ấy cháy đỏ như một khối lửa, trong rất dễ sợ. Vua bắn ra ba phát
thảy đều như vậy.
Vua Ưu Đà Diên
thấy sự việc, lông tóc đều dựng đứng, kinh sợ mà nói với phu nhân Xá Ma :
– Khanh là
Tiên nữ hay Long nữ, là Dạ doa hay La sát?
Phu nhân Xá Ma
trả lời :
– Thiếp không
phải là Tiên nữ cũng không phải Long nữ hay Dạ Xoa La sát mà thiếp là đệ tử của
đức Phật. Thiếp nghe đức Phật thuyết pháp, thọ trì 5 giới làm cư sĩ. Vì thương
đại vương, thiếp nhập từ tam muội. Dầu đại vương sinh lòng bất thiện với thiếp
nhưng do bi nguyện nên thiếp không bị tổn hại.
(Trích
Pháp hội vua Ưu Đà Diên – kinh Đại Bửu Tích)
Từ , nghĩa chính của nó là ban vui. Thấy người chưa vui muốn người được vui,
thấy người đã vui giúp vui hơn nữa, với kẻ oán địch khởi tâm thương xót không
có tâm trả báo v.v… đều là dạng của từ tâm nói đây.
Từ tam muội, là thứ có sẵn trong mỗi người, chỉ do vô minh chi phối mà ta không sử dụng
được tâm từ ấy. Bị vô minh chi phối nên làm việc gì cũng mang tính qui ngã, mọi
thứ chỉ tập trung cho mình và gia đình, không quan tâm việc ấy tổn hại đến ai.
Khi tâm đã qui ngã thì từ tâm cũng mất. Nạn tai cũng theo đó phát sinh.
Một người điện tới hỏi tôi : Em làm ăn thất bại, gặp những việc không hay,
làm sao hóa giải?
– Muốn giải quyết chuyện tiền bạc
thì phải cúng dường và bố thí. Đó là cái nhân để được sung túc. Kinh dạy, với
hàng Sa môn và Bà la môn, nếu đã hứa bố thí cho ai thứ gì thì phải y lời hứa ấy
mà làm. Không thì việc làm ăn sẽ thất bại.
Một thời gian sau cô lại điện
báo: Em llàm tất cả mọi thứ rồi nhưng không thấy tình thế xoay chuyển.
– Vì chưa đủ duyên. Thành tâm
làm nữa đi !
Mội thời gian sau cô lại báo:
Tình thế đã không xoay chuyển, lại còn thêm nhiều thứ buồn phiền bất an.
Tôi liền hỏi : Em làm nghề
gì ?
– Dạ giám đốc một công ty.
– Em cúng dường bố thí cho Sa
môn và người nghèo khó, vậy công nhân của em, em có lo cho họ được đầy đủ?
Cô không trả lời.
Có những thứ rất bình thường
nhưng có khi không tỉnh để mà làm.
Có những thứ rất gần, cần phải
chu toàn, có khi lại không để ý, cứ vọng đến những chuyện xa xôi.
Bóp chẹt
đồng lương của người rồi mang tiền ấy đi cúng chùa cầu phước cho mình, không khác
hứng nước vào chậu vỡ. Dù tài lộc có vào rồi cũng sẽ ra đi. Người bị phiền não ức
chế thì mình cũng không thể an vui. Cúng dường bố thí kiểu đó, không thể chuyển đi nạn xấu của mình. Bởi mọi thứ vẫn đang
trên đường
qui ngã, không phải là lực của từ tâm. Phải là lực của từ tâm mới có thể hóa giải
nạn tai muộn phiền cho mình. Cho nên, cúng dường bố thí cần có cả từ tâm.
Có từ
tâm thì không vì phước riêng của mình mà bóp ngặt người khác.
Có từ
tâm thì không lợi dụng chỗ thất thế của người để áp đảo người.
Có từ
tâm thì đời sống của mình một trăm, cũng nên cho người được một hai phần. Mình ngồi
máy lạnh cũng nên cho người được chiếc quạt máy, không thể hà tiện đến mức
không đèn cũng không quạt trong một xó xỉn nóng bức.
Có từ
tâm thì không thâm lạm tiền làm thêm của người, không cắt xén những thứ không
đáng cắt xét, khiến người thêm nhọc.
Phải
là lực của từ tâm, mới chuyển được nghiệp xấu của mình, mới không gây tạo ác nghiệp
mới. Phu nhân Xá Ma hiện đời chỉ là một cư sĩ tại gia thọ trì 5 giới, nhưng do
dụng được lực từ tâm của chính mình mà cung tên của kẻ sân giận không thể làm hại
được. Uy lực của từ tâm là như thế.
Ngày
mùng một tết là ngày vía đức Di Lặc. Di Lặc, dịch nghĩa là Từ thị. Vì muốn
thành tựu chúng sinh nên từ lúc mới phát tâm ngài đã không ăn thịt. Do nhân
duyên đó mà ngài có tên là Từ thị.
Di Lặc,
biểu thị cho lòng từ rộng lớn. Đó cũng chính là từ tâm có sẳn trong mỗi chúng sinh.
Thành tâm cúng dường Di Lặc đầu năm, không gì bằng khai phát tâm từ của chính
mình. Chính là xả đi những gì không vừa lòng, phát huy những gì khiến người vui
mà mình cũng vui. Không phải chỉ trong ba ngày đầu xuân mà bất kể lúc nào và bất
cứ ở đâu. Xả được đến đâu thì an vui đến đó. Phát huy lòng từ đuợc càng nhiều
thì nạn tai càng bớt, hạnh phúc an khang càng tăng. Đó là cái nhân giúp chúng
ta được an bình và hạnh phúc trong hiện đời và mai sau.
Sang
năm Tân mão, nguyện cho tất cả chúng sinh nói chung, chúng ta nói riêng (dù là
trong đạo hay ngoài đạo) đều phát huy được trí tuệ và lòng từ của chính mình để
cuộc sống của mình và muôn loài được an vui.
Discussion about this post