HÔN NHÂN THEO QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO
“Marriage” according to the Buddhist point of view
Thiện Phúc
(I) Tổng quan về “Hôn Nhân”
An
overview of “Marriage”:
Hôn
nhân theo tự điển nghĩa là sự liên hệ hỗ tương giữa
một người nam và một người nữ. Họ kết hợp với nhau
theo một kiểu cách đặc biệt về sự lệ thuộc vào nhau
trên pháp lý xã hội với mục đích là cùng nhau tạo dựng
và duy trì gia đình. Trong hôn nhân thật sự, người chồng
và người vợ nghĩ nhiều đến những người trong gia đình
hơn là nghĩ đến chính họ. Họ hy sinh vì lợi ích của gia
đình hơn vì lợi ích của chính cá nhân họ. Trong đạo Phật,
nếu chưa có đại duyên xuất gia thì không có gì sai
trái với việc kết hôn; tuy nhiên, việc lập gia đình phải
được xem như là một tiến trình của đời sống và Phật
tử tại gia phải coi đây như là cơ hội tốt cho họ thực
hành những điều tu tập. Nhiều người đã biến đời sống
hôn nhân của họ thành một cuộc sống khổ sở vì thiếu
sự cảm thông, lòng khoan dung và kiên nhẫn. Nghèo không phải
thực sự là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc sống không
hạnh phúc ví hàng ngàn năm trước đây con người vẫn
có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc mà không cần đến vật
chất của cải của thời đại hôm nay. Chồng và vợ lúc
nào cũng phải tương kính lẫn nhau, họ phải học cách chia
sẻ những vui buồn trong đời sống hằng ngày. Tương kính
và cảm thông là hai thứ quan trọng nhất trong cuộc sống
hạnh phúc gia đình—According to the dictionary, marriage means a
mutual relationship of a man and a woman. They are joined in a special
kind of social legal dependence for the purpose of founding and maintaining
a family. In a true marriage, husband and wife think more of the partnership
or of their family than they do of themselves. They sacrifice for the sake
of their family more than for themselves. In Buddhism, if you don’t have
the great opportunity to renounce the world, there is nothing wrong with
getting marriage; however, marriage should be considered as a process of
life and should be treated as a good opportunity for a lay Buddhists to
put his or her cultivation into practice. Many people turn their marriage
life a miserable one due to lack of understanding, tolerance and patience.
Poverty is not really the main cause of an unhappy life, for thousands
of years ago people still had a happy married life without that much materials
of nowadays society. Husband and wife need to respect each other at all
times; they also need to learn to share the pleasure and pain of everything
in their daily life. Mutual respect and understanding are extremely important
for a happy family life.
(II) Hôn nhân
theo quan điểm Phật giáo
“Marriage”
according to the Buddhist point of view:
Không
có nghi thức làm lễ cho việc kết hôn trong giáo điển Phật
giáo, và chư Tăng thường tránh né không tham dự vào nghi thức
cưới hỏi, cũng không lấy gì làm ngạc nhiên vì nhấn mạnh
của Đức Phật là cộng đồng tu viện mà các thành viên
phải tự mình tách rời khỏi cuộc sống thế tục và những
quan ngại của cuộc sống ấy. Hôn nhân thường được Phật
giáo xem như một phần của tiến trình sanh, lão, bệnh và
tử, và cuộc sống gia đình thường được các giáo điển
Phật giáo xem như là làm cho con người liên hệ tới một
mạng lưới rối rắm dẫn tới khổ đau phiền não là không
thể tránh được. Hơn nữa, Ba la đề mộc xoa chứa đựng
một đoạn văn như sau: “Nếu
ai trong Tăng đoàn hành sử như làm mai mối, mang một người
nam và một người nữ lại với nhau, hoặc cho mục đích kết
hôn hay chỉ với mục đích của một lần giao hợp mà thôi,
thì vị Tăng ấy phạm tội phải nên sám hối trước Tăng
đoàn.” Dù vậy, việc chư
Tăng được mời đi dự tiệc cưới cũng rất thường. Nếu
họ chọn đi dự tiệc cưới, họ nên tới đó tụng kinh cầu
an và hạnh phúc cho cái gia đình mới này. Tuy nhiên họ không
nên giữ bất cứ vai trò nào trong nghi thức cưới hỏi. Chư
Tăng Ni phải nên luôn nhớ rằng việc cưới hỏi là
việc của thế tục nên phải được thực hiện bởi người
thế tục. Ngày nay một số giáo hội có chuẩn bị
nghi thức cưới hỏi nhằm đáp ứng nhu cầu và niềm tin của
các Phật tử tại gia và khi chư tăng được mời đến dự
lễ cưới, họ thường nguyện cầu chúc phúc và thuyết giảng
nhằm giúp đỡ đôi vợ chồng mới. Tuy nhiên, dù có những
cải cách, phần lớn chư Tăng Ni có khuynh hướng nhận thấy
rằng tham dự vào đám cưới là không thích hợp và vi
phạm giới luật nhà Phật—There are no canonical Buddhist
marriage ceremonies, and Buddhist monks have traditionally avoided participation
in the process of marriage, which is not surprising for the Buddha’s
emphasis was on a monastic community whose members should dissociate themselves
from worldly life and its concerns. Marriage is generally seen in Buddhism
as part of a process that leads to birth, aging, and death, and the household
life is commonly characterized in Buddhist texts as involving people in
a web of entanglements that inevitably lead to sufferings and afflictions.
Moreover, the Pratimoksa contains a passage stating: “If some of this
Samgha acts as an intermediary, bringing a man and a woman together, whether
for the purpose of marriage or for a single act of intercourse, there is
an offence of wrong-doing and that monk person should repent before the
assembly of monks.” Despite this, it is common for monks to be invited
to wedding ceremonies. If they choose to attend any wedding ceremonies,
they should selected Buddhist texts that pray for peace and happiness in
that new family. They do not however, play any role in the ritual joining
of the bride and groom in marriage. Monks and nuns should always remember
that wedding ceremonies as secular affairs of lay community and should
be performed by lay people. Nowadays a number of Buddhist orders prepare
wedding rituals in order to meet the needs and belief of their laypeople
and when monks are invited to attend such wedding ceremonies, they usually
provide blessing prayers and give lectures to help the new couple. Despite
these recent innovations, however, most Buddhist monks and nuns tend to
see participation in weddings as inappropriate for monks and as a violation
of the rules of the Vinaya.
(III)Ý tưởng
về hôn nhân trong Đạo Phật
The
idea of marriage in Buddhism:
1)
Hôn nhân hợp lệ—Legal marriage:
Trong
Phật giáo, không có sự khuyến khích về hôn nhân thế tục,
nhưng Đức Phật tán thán những cặp vợ chồng sống hạnh
phúc với nhau. Đức Phật cũng khuyên dạy các đệ tử tại
gia làm sao có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Những bài giảng
của Đức Phật về nền tảng đạo đức Phật giáo trong
xã hội trong kinh Thi Ca La Việt, phác họa mẫu mực căn bản
trong mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái, nêu những
bổn phận ràng buộc với nhau, nhấn mạnh đến những khía
cạnh thiết yếu của cuộc chung sống. Theo Đức Phật, văn
hóa tương hợp giữa chồng và vợ là một trong những yếu
tố đem lại thành công trong hạnh phúc lứa đôi, vì hôn nhân
không đơn giản chỉ là nhục dục và lãng mạn. Nhiều vấn
đề hôn nhân phát xuất từ sự thiếu khả năng của người
hôn phối trong việc nhận thức những hy sinh trong hôn nhân.
Như vậy, giáo lý Phật giáo cũng nhằm mang lại an vui và hạnh
phúc, khuyến khích luân lý tình dục, thỏa mãn tâm lý và
phúc lợi vật chất cho cả chồng lẫn vợ—In Buddhism, there
is no encouragement in worldly marriage, but the Buddha praised for happy
couples. The Buddha also gave instructions as to how lay disciples could
live happily in marriage. The discourses of fundamentals of Buddhist social
ethic in the Sigalovada Sutra generally lays down the basic pattern of
relationships between husband and wife, parents and children, and emphasizing
the most essential aspects of their common life. According to the Buddha,
cultural compatibility between husband and wife was considered as one of
the factors of a successful married life. Marriage is not simply lust and
romance. Many of marriage problems arise from the inability to sacrifice
from both the husband and wife. Thus, Buddhist teachings also promote enjoyment
in life, moralization of biological needs, psychological satisfaction and
material well being of both husband and wife.
2)
Quan hệ tình dục trước hôn nhân—Premaritial sex:
Vào
thời Đức Phật, Ngài không nói gì về việc sinh hoạt tình
dục trước hôn nhân, và không có luật nào nghiêm cấm những
sinh hoạt này cho người tại gia. Chúng ta có thể suy luận
rằng nếu cả hai người trong cuộc đều đến tuổi trưởng
thành và đồng thuận việc này, họ hoàn toàn chịu trách
nhiệm về những hành động của họ, miễn là việc làm của
họ đừng làm tổn hại tới người khác. Tuy nhiên, việc
làm này bị nghiêm cấm nếu một trong hai người này còn ở
tuổi vị thành niên (vẫn còn dưới sự kiểm soát của cha
mẹ), và nếu việc này làm cha mẹ và những người trong gia
đình của người trẻ đó buồn phiền—At the time of the Buddha,
He didn’t speak specifically about premaritial sex, and there is no rule
to prohibit premaritial sex for lay people. We can infer that both parties
are consenting adults, then they’re completely responsible for their
own actions, so long as what they do doesn’t harm others. However, if
one of the people involved is under the age (still under the control of
his or her parents), and if having sexual intercourse with that person
would upset the parents and the family, then it’s prohibited.
(IV)Ý tưởng
về “Hôn nhân” đối với chư Tăng Ni
The
idea of “Marriage” for monks and nuns:
1)
Đức Phật dạy: “Tình yêu hôn nhân giữa người chồng
và người vợ dĩ nhiên là một yếu tố quan trọng trong việc
tạo lập gia đình và xã hội. Tuy nhiên, người ta có xu hướng
trở thành bị ràng buộc quá nhiều vào tình yêu như thế
và trở thành ích kỷ trong tình yêu. Họ có thể không
biết đến cái tình yêu rộng lớn hơn mà họ nên có đối
với tất cả chúng sanh.” Mặc dầu theo luật nhà Phật,
Tăng Ni phải sống đời độc thân. Họ có thể đã từng
có gia đình trước khi xuất gia; tuy nhiên, sau khi xuất gia
họ phải từ bỏ cuộc sống thế tục—The Buddha taught:
“Conjugal love between husband and wife is, of course, an important factor
in forming the individual home and society. However, people have a tendency
to become attached too much to such love and become selfish in their affections.
They are apt to ignore the much larger love they should have for all human
beings.” Even though according to the Buddhist laws, monks or nuns must
live a celibate life. They may be at one time married before they renounce
their worldly life, but after they become monks or nuns, they must renounce
the worldly life.
2)
Chư Tăng Ni lập gia đình—Married monks and nuns:
a)
Tại Nhật Bản vào thời Minh Trị Phục Hưng vào khoảng
giữa thế kỷ thứ 19, chính phủ muốn những người xuất
gia lập gia đình. Vì vậy mà bây giờ tại Nhật có cả hai
dòng truyền thừa xuất gia độc thân và xuất gia có gia đình
cho cả Nam lẫn Nữ, và giới luật mà họ phải trì giữ cũng
khác nhau trong các truyền thống Phật giáo khác nhau: In Japan,
during the Meiji Restoration in the mid nineteenth century, the government
wanted the ordained ones to marry. Thus in Japan, there are now both married
and unmarried lineages of both sexes, and the precepts they keep are enumerated
differently from those of other Buddhist traditions.
b)
Chỉ trừ Bát Quan Trai giới là lãnh thọ trong một ngày,
còn tất cả những giới khác phải lãnh thọ suốt đời.
Có những trường hợp không đoán trước được, chư Tăng
Ni không thể giữ giới được nữa, hoặc giả không còn muốn
thọ lãnh giới luật nữa. Trong trường hợp đó, chư Tăng
Ni có thể thưa với một vị thầy, hay chỉ cần nói với
một người có thể nghe và hiểu để xin hoàn trả lại những
giới luật mà mình đã thọ lãnh là được—In Japan, the monks’
and nuns’ precepts were altered during Meiji Restoration in the mid-19th
century, because the government wanted the ordained ones to marry. Thus
in Japan, there are now both married and unmarried temple monks and nuns,
and the precepts they keep enumerated differently from those of other Buddhist
traditions. Except for the eight precepts that are taken for one day, all
other precepts are taken for the duration of the life. It may happen that
due to unforeseen circumstances, a monk or a nun may not be able to keep
the ordination any longer or may not wish to have it. In that case, he
or she can go before a spiritual master, or even tell another person who
can hear and understand, and return the precepts.
Discussion about this post