Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 16/01/2012
Bước thứ tư:
HỌC TẬP ĐỂ TỪ ÁI YÊU THƯƠNG
Hoan nghênh sự quan tâm từ ái đến những chúng sinh lưu chuyển
Những kẻ bất lực như chiếc thùng du lịch đi lên và đi xuống trong một cái giếng
Qua sự tự phóng đại ban đầu, “cái tôi”,
Và rồi thì phát sinh sự luyến ái cho những thứ, “Đây là của tôi”.
-NGUYỆT XỨNG
Bước thứ tư, việc
phát sinh từ ái được diễn tả trong đây và ba chương tiếp theo. Trong chương này chúng ta khám phá chúng sinh
khổ đau như thế nào – đầu tiên áp dụng sự thấu hiểu này đến chính chúng ta và rồi
mở rộng nó đến người khác. Chương tiếp
theo nêu ra chi tiết xa hơn về vấn để những cảm xúc bất thiện sinh khởi như thế
nào, trình bày sự phân biệt rõ ràng giữa từ ái và luyến ái. Trong chương 10, từ ái thoát khỏi thành kiến
và luyến ái được cho thấy là căn bản của nhân quyền. Chương 11 cung ứng một loạt những sự thực tập
cho việc mở rộng những cảm nhận của từ ái và quan tâm thông thường vượt khỏi
các giới hạn thường nhật của thành kiến trong một phạm vi rộng rải hơn bao giờ
hết.
TRỞ
THÀNH MỘT NGƯỜI THÂN HỮU ĐẾN TẤT CẢ,
Một
thái độ từ ái vị tha chỉ có một khuôn mặt, ân cần tử tế đến tất cả. Tuy nhiên, sự vị tha này giúp ích người khác
và chính mình, cả hiện tại bây giờ và trong tương lai dài lâu. Như một vi lạt ma Tây Tạng Kunu Tenzin
Gyelsten đã nói, “nếu con muốn là một
người thân hữu của tất cả, hãy phát sinh lòng từ ái và bi mẫn. Nếu con muốn là một người hướng dẫn tâm linh
cho tất cả mọi người, hãy phát sinh lòng từ ái và bi mẫn. Nếu con muốn giúp ích mọi người, hãy phát
sinh lòng từ ái và bi mẫn.” Thậm
chí nếu chúng ta muốn tầm cầu trong hàng vô số kiếp để tìm kiếm một phương pháp tuyệt hảo nhất để đạt đến một niềm hạnh
phúc miên viễn, chúng ta sẽ thấy rằng cách duy nhất là phát sinh lòng từ ái và
bi mẫn.”
Bằng
việc trở nên tỉnh thức một cách chân thật về người khác và phát triển sự tôn trọng
và quan tâm đến họ, tự chúng ta trở nên hạnh phúc nhiều hơn và toại nguyện hơn,
là điều tự nó có tác động ra bên ngoài trong việc tạo nên một không khí hòa
bình. Thí dụ, nếu trong một căn phòng đầy
người, một người nào đó trở nên sân giận và bắt đầu la hét, không khí sẽ trở
nên căng thẳng đối với mọi người. Tuy
nhiên, nếu mỗi người trong một nhóm cảm nhận và biểu lộ cảm giác ấm áp và tôn
trọng quan tâm với nhau, không khí sẽ an bình và hòa hiệp. Bên ngoài phát sinh từ bên trong. Nếu động cơ của chúng ta thô tháo và khiếm
nhã, sự kiện sẽ thất bại bất kể hoàn cảnh là thú vị như thế nào.
Thể
trạng nội tại của chúng ta là siêu việt hơn cả. Nếu chúng ta trở nên bị tràn ngập bởi sự bất toại tinh thần, những thứ
ngoại tại sẽ không giúp ích gì cả. Tuy
nhiên, nếu một cách nội tại có từ ái, ấm áp, bi mẫn, và thông cảm, những rắc rối
ngoại tại có thể chấp nhận được và đối diện một cách dễ dàng hơn.
Có
thể nghi ngờ rằng các rắc rối có thể được giải quyết với sân giận. Mặc dù nó có thể đưa đến một sự thành công tạm
thời với việc lưu tâm đến mục tiêu tức thời và bỏ đi một sự thỏa lòng nào đấy
trong một thời gian ngắn, nhưng một cách căn bản sân giận sẽ làm nên những khó
khăn xa hơn. (Không cần phải liệt kê nhiều
thí dụ về điều này trong thế kỷ vừa qua và trong thế kỷ này). Với sân giận mọi hành động xảy ra một cách nhanh chóng. Khi chúng ta đối diện những rắc rối với sự
quan tâm chân thành cho người khác, thành công có thể cần nhiều thời gian hơn,
nhưng nó sẽ tồn tại lâu hơn.
Ngày
nay thật đáng buồn để nhận thấy rằng nhiều người căng thẳng tột độ không được
giúp đở bởi vì những quan tâm chính trị. Một số khổ đau gián tiếp từ những tác động của chính quyền để quá nhiều
tiền cho trang bị vũ khí, và vì điều này, quên lãng những nhu cầu căn bản như
nông nghiệp; kết quả là khi một thảm họa thiên nhiên xảy ra, hoàn cảnh là vô vọng. Những khổ đau khác trực tiếp từ việc
thể hiện sự phân biệt đối xử chống lại một cộng
đồng. Nếu một chiến binh Hoa Kỳ bị chết,
việc ấy liền được mọi người biết đến, nhưng chẳng ai buồn biết tới việc có bao
nhiêu người dân thường hay quân nhân của phía kia bị giết. Tất cả những người bị chết đều là những con
người, và đời sống của mỗi người đều đáng giá.
Rằng
những người có nhu cầu bị bỏ quên hay bị từ chối ì những lý do chính trị cho thấy
rằng những gì chúng ta đang thiếu vắng – mặc dù chúng ta thông minh và đầy năng
lực, đủ mạnh để bóc lột con người và hủy diệt thế giới, nhưng chúng ta thật sự lại
thiếu một sự ân cần và từ ái. Có một người
Ấn Độ nói rằng: “Khi một mũi tên chạm mục tiêu, không có thời gian để hỏi
ai đã bắn nó, hay đấy là loại mũi tên gì?” Tương tự thế, khi chúng ta chạm trán với khổ đau của nhân loại, điều
quan trọng là đáp ứng với lòng thương xót hơn là vấn đề chính trị của những người
chúng ta đang giúp đở. Thay vì hỏi quốc
gia của họ là thân hay thù, chúng ta phải nghĩ: Đây là những con người; họ đang
đau khổ, và họ có quyền để hạnh phúc tương đồng như chính chúng ta.
DỪNG LẠI VIỆC
LÀM TỔN HẠI
Thân
thể này thường không sống quá một trăm năm, ngay cả khi chúng ta may mắn. Nó không phải là điều gì đấy có thể tiếp tục
trong đời sống tương lai. Sự hữu hạn của
nó có nghĩa rằng những phẩm chất vật lý chẳng hạn như sức mạnh và sự lanh lẹ có
giới hạn. Điều quan trọng là hành động
trên những phẩm chất vô giới hạn sẽ có giá trị vượt khỏi đời sống này, những điều
được đạt đến qua quán chiếu tinh thần cũng sẽ làm phong phú cho đời sống này.
Những
sự thực tập Đạo Phật cho việc rèn luyện tâm có thể được tóm gọn trong hai câu:
“Nếu chúng ta có thể, chúng ta nên giúp đở người khác. Nếu chúng ta không thể, chúng ta tối thiểu
không làm tổn hại người khác.” Cả
hai căn cứ trên từ ái và bi mẫn. Đầu
tiên chúng ta phải đạt được sự kiểm soát đối với khuynh hướng làm tổn hại, tự động
kiềm chế những hành động gây tồn thương bằng thân thể và lời nói. Những nguyên tắc phi đạo đức thân thể là giết
hại, trộm cướp, và tà dâm; những hành vi phi đạo đức lời nói là nói dối, nói lời
vô ích, nói lưỡi đôi chiều, nói lời độc ác, những hành vi phi đạo đức tinh thần
là tham lam, xu hướng tổn hại, và quan điểm sai lầm (hay tham, sân, si). Mười điều đó làm đau khổ cho cả người khác và
chính chúng ta.
Giết hại có nghĩa là chấm dứt cuộc sống của một
chúng sinh, hoặc là qua hành động của chính chúng ta hay qua việc thúc ép người khác làm việc ấy. Đôi khi nó sinh khởi từ lòng tham muốn, như
trong việc giết súc vật làm thực phẩm, Những lúc khác là qua sự thù hận, như
trong việc trả thù, hay có thể ngay cả qua cấp độ si mê, như trong việc suy
nghĩ rằng việc giết súc vật để tế lễ là
lợi ích. Mọi người chúng ta có khả năng
để tiến hành một tội lỗi như ám sát; cho đến khi mà tham muốn, thù hận, luyến
ái, ganh tỵ, hay si mê hiện diện;việc phạm tội là có thể xảy ra.
Trộm
cướp sinh khởi chính yếu từ tham muốn – lấy của cải gì đấy của người khác bằng
việc lừa dối (như khi người buôn bán dùng cân non, đong thiếu), bằng sức mạnh
(cướp giật), hay ăn trộm.
Quan
hệ tình dục không chính đáng được thúc đẩy bởi tham muốn để giao du với một đối
tác không thích hợp, như trong trường hợp tà dâm hay hảm hiếp.
Nói
dối sinh khởi từ động cơ để giả trá, như trong việc nói với người khác,
“tôi thấy như vậy như vậy,” khi chúng không thật sự thế. Chúng ta có thể đưa đẩy với từ ngữ và hành động thân thể không thích đáng, để
người khác hiểu sai.
Nói
lời chia rẻ (nói lưỡi đôi chiều) có khuynh hướng để ly gián người khác làm mất
sự hòa hiệp hay làm sâu thêm sự bất đồng giữa những thù oán đang tìm kiếm sự thỏa hiệp. Nó có thể được thi hành một cách thái quá hay
mờ ám với sự lừa dối, hay một cách gián tiếp qua ẩn ý.
Nói
lời ác độc sinh khởi từ việc muốn nói điều gì đó không vui lòng – thường là từ
việc thù oán – về một người khác hoặc là trực tiếp trước mặt, một cách mờ ám
như trong đùa cợt hay một cách gián tiếp qua trò chuyện.
Nói
lời vô nghĩa thường bị lèo lái bởi u tối và lãng quên. Xao lãng với người nói lời vô ích, bàn ra tán
vào mất thời gian, không mục tiêu gì cả, đối với những người đang cố gắng để thực
hành phát triển tâm linh là đặc biệt tai hại cho cả tự thân và người khác.
Tham
lam là mong ước những sở hữu của người khác. Sinh khởi một cách chính yếu từ thèm khát, đặc biệt tổn hại khi chúng ta
không xấu hổ hay ngượng ngùng về nó và không cố gắng để dừng lại việc ấy.
Khuynh
hướng tổn hại sinh khởi từ thù hận, như trong khuynh hướng giết hại người khác
trong chiến trận; từ ganh tỵ, như trong việc muốn làm tàn hại địch thủ; hay từ
việc không thiện ý tha thứ kẻ thù. Khuynh hướng tổn hại có những tác động mạnh mẽ đặc biệt khi được xem là
một phẩm chất tốt nên không cần phải điều chỉnh. (Thường được biết như là sân
giận).
Quan
điểm sai lạc là những khái niệm lâu đời cho rằng đạo đức và hành động bất thiện
không phải là những nguyên nhân của hạnh phúc và khổ đau một cách tương ứng, và
sự phủ nhận ảnh hưởng của việc thực tập tâm linh. Những quan điểm sai lạc là hoàn toàn khi
chúng ta quyết định không cần phải tìm kiếm sự thật gì nữa. (Thường được biết như là si mê).
Thật
quan trọng để thấu hiểu rằng những hành động phiền não chướng ngại ẩn tàng của
thân thể và lời nói không phải tự sinh khởi, mà chúng phát sinh từ sự lệ thuộc trên động cơ tinh thần. Sự ảnh hưởng từ những thể trạng sai lạc của
tâm làm cho những hành vi sai lạc được sinh ra. Do vậy, để kiểm soát những hành vi tiêu cực của thân thể và lời nói, điều
cần thiết là phải thấu đáo gốc rể của chúng, tâm và sự thuần hóa nó. Trình độ này của việc thực hành về từ ái có
thể bao gồm trong một câu: “Đừng làm
tổn hại người khác.”
GIÚP ĐỞ
Trình
độ tiếp theo bắt đầu khi chúng ta có thể đem những nhân tố tàn phá này thế nào
đấy ở dưới sự kiểm soát của chúng ta, cho chúng ta một cơ hội tốt hơn để giúp đở
người khác. Lòng vị tha là tâm linh mà từ
đấy chúng ta chọn để hành động và ban cho sự giúp đở có thể mang đến hạnh phúc
cho người khác. Ngay cả một kinh nghiệm
nhỏ của vị tha mang đến năng lượng an bình tinh thần ngay lập tức. Nếu lòng vị tha là trái tim của những hành động
tốt lành , thế thì là đại từ và đại bi là trái tim của những hành động như vậy. Con người vị tha chân thật xúc động bởi khổ
đau của mỗi một chúng sinh và nguyện ước cộng hưởng hạnh phúc và nguyên nhân của nó và để giải thoát họ khỏi khổ đau
và nguyên nhân của đau khổ.
Có
lẻ một người vị kỷ là siêu việt hơn một con thú nhiều vì thú vật bị ràng buộc với
những khốn nạn lớn lao như vậy, nhưng cả hai đều đặt lợi ích của chính họ vào
trung tâm của tất cả những suy nghĩ và hành động của họ. Thú vật ăn và uống để thỏa mãn những mục
tiêu cạn cợt của chúng. Con người chỉ đơn thuần liên hệ trong những
tiến trình của họ thiếu sự vinh quang của những ai đang đang tự nguyện sống
trong ngọn lửa hừng hực của đớn đau trong thế gian nhằm để xoa tan ngay cả một
loại khổ đau chỉ từ một chúng sinh nào đấy. Những người như vậy là vô cùng năng động, hiệu quả, thông tuệ, và sở hữu
một năng lực cảm xúc to lớn phi thường.
Những
ai được rèn luyện trong lòng đại từ nên từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân và dấn thân
trong những sự thực hành của Đức Phật, đấy là cội rể của bi mẫn. Chúng ta có thể nghĩ, từ ái thật sự rất thậm
thâm, nhưng ta không có năng khiếu để thực tập nó: thay vì thế tôi sẽ tập trung
những nổ lực trên sự thực hành hướng đến giải thoát chính mình khỏi vòng sinh tử
luân hồi. Về một mặt, điều này là đúng,
bởi vì chúng ta phải chọn lựa một con đường phát triển thích hợp đến khả năng của
chúng ta. Về mặt khác, có những thuận lợi
lớn lao trong việc cố gắng mức độ cao nhất của từ ái mà chúng ta có thể. Ngay cả nếu chúng ta không thể thật sự tiến
hành sự thực tập về từ ái và bi mẫn, chỉ
đơn thuần nghe về việc từ ái và bi mẫn có thể thiết lập những thiên hướng đầy
năng lực cho sự thành công trong tương lai. Điều này có thể được mở rộng bằng việc hình thành chương tình cầu nguyện-mong
ước ngưỡng mộ đến lòng vị tha. Đừng nãn
lòng: thật khó để thẩm thấu một khái niệm thậm thâm như vậy. Hãy can đảm và nghĩ về khả năng tương lại của
chúng ta. Đặc biệt quan trọng để thực hiện
tối đa những gì chúng ta có thể.
Như
đại hành giả bác học Tịch Thiên của Ấn Độ nói trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát vào thế kỷ thứ tám là có vô số lợi ích
ngay cả trong nguyện ước tất cả chúng sinh được giải thoát khỏi một nổi đau khổ
như nhức đầu mà thôi:
người suy nghĩ rằng, “tôi sẽ xua tan Chỉ những nổi
đau đầu của chúng sinh,” Cũng có một
khuynh hướng lợi ích như vậy Rằng họ sẽ đạt
được vô số công đức Rồi thì có gì để
nói ở đấy Của một người ao
ước xua tan Vô vàn nổi thống khổ của mỗi chúng sinh Và ban cho mỗi
chúng sinh với vô biên phẩm chất tốt đẹp?
Trong
một đời quá khứ trong khi Đức Phật là một chúng sinh bình thường trước khi đạt
được giác ngộ, ngài đã sinh trong địa ngục,
nơi mà vì những hành vi tiêu cực trước đây (nghiệp), một vòng sắt đã hiện ra
trên đỉnh đầu của ngài và bắt đầu khuấy động não bộ của ngài. Ngay lập tức phản chiếu trên sự kiện rằng nổi
khổ đau ấy là do bởi thái độ trước đây của chính ngài, ngài quán chiếu những
chúng sinh khác đang đau khổ trong một tình cảnh tương tự và phát ra lời nguyện
ước rằng qua nổi đau của chính ngài, tất cả những chúng sinh khác có thể được
giải thoát khỏi tất cả những nổi đớn đau như vậy. Ngay thời khắc ấy, vòng sắt rớt khỏi đầu
ngài; ngài được giải thoát khỏi địa ngục và được tái sinh như một con người.
Nếu
một lợi ích to lớn như vậy sinh khởi từ việc nguyện ước rằng tất cả chúng sinh
được tự do khỏi một loại khổ đau, hãy nghĩ về lợi ích diệu kỳ của việc nguyện ước
tất cả chúng sinh được giải thoát khỏi tất cả khổ đau. Như Long Thọ nói, có phước đức trong việc
cúng dường đến những tu sĩ nghèo, nhưng từ ái thậm chí còn năng lực hơn nhiều.
ba lần một ngày Ba trăm chậu thức
ăn cho những chúng sinh cần đến Không bằng một
phần phước đức trong một niệm từ
ái
Thậm
chí sau nhiều vô số kiếp tái sinh, thật khó khăn để theo đuổi những lời nói tốt
lành dạy bảo con đường thánh thiện này. Tuy thế điều kỳ diệu là chúng ta có thể ngưỡng mộ và thực tập một con đường
như vậy [vì được nghe nói đến trong hiện
tại[1]]. Sự cao quý của nền văn hóa Tây Tạng căn cứ
trên chi tiết của giáo huấn này về việc trau dồi từ ái và bi mẫn như thế nào.
Một
số người nghĩ rằng bản chất của người Tây Tạng là tĩnh lặng và đặc trưng thánh
thiện, ngay cả họ đang ở trong một tình trạng khổ đau bất thường của một xứ sở
bị chiếm đóng. Nhưng sự tiếp cận của người
Tây Tạng sinh khởi từ một cung cách của suy tư, một ý chí để sử dụng những hoàn
cảnh tệ hại trên con đường tâm linh. Hầu
hết mọi người Tây Tạng không bị căng thẳng; sự tự tại bên trong khỏi những băn
khoăn tự cho thấy bề ngoài như một thái độ vô tâm.
Trong
những người thực tập, những người tuyệt hảo nhất là những ai mà lòng bi mẫn của
họ mở rộng ngay cả đến một con sâu bọ. Có lẻ trong sự quan tâm này mà người ta chú ý điều gì đấy khác về người
Tây Tạng. Thực tế, một số người Tây Tạng
giết thú vật trong khi trì tụng câu mật ngôn Án Ma Ni Bát Di Hồng, là điều đáng
lẻ được tụng niệm với khuynh hướng tiêu trừ những loại cảm xúc phiền não đa dạng,
trong tự thân và những chúng sinh khác, là những thứ đưa đến sự tái sinh không
thể kiểm soát. Nhưng người Tây Tạng
trong phổ quát là hoàn toàn bi mẫn và từ ái. Thí dụ, hầu hết người Tây Tạng từ bỏ việc săn bắn, trái lại trong một số
xứ sở Phật Giáo săn bắn không bị xem là bất thiện. Chắc chắn không phải người Tây Tạng đã phát
triên một lòng vị tha cao độ, nhưng họ thật sự có một cảm giác lành mạnh về nó. Giáo huấn từ bi được gieo rắc một cách rộng rãi ở Tây Tạng, và sau này
con người xứ sở này được thấm nhuần khuynh hướng đạt đến giác ngộ nhằm để giúp
đở người khác một cách hiệu quả hơn.
Chúng
ta nên nhận ra sự may mắn to lớn này trong việc tiếp xúc với giáo huấn vị tha
và sự thấu hiểu tầm quan trọng của nó như thế nào trong việc đem nó vào trong
việc thực hành, nếu không phải là điều gì đấy mà chúng ta nguyện ước để phát
triển hay sao. Ngay cả những ai không biết
nhiều về sự phát triển tâm linh cũng có thể hiểu rõ rằng những người sở hữu một
thái độ quan tâm đến tha nhân có năng lực to lớn của tâm. Trong Đạo Phật, những chúng sinh như vậy được
gọi là những bị bồ tát – những kẻ có khuynh hướng hùng lực (sattva – chúng sinh) trong việc đạt đến giác ngộ
(bodhi) nhằm để giúp đở người khác một cách hiệu quả hơn.
Một
cách căn bản bồ tát cố gắng để đưa từng chúng sinh vào trong Quả Phật. Vì lợi ích của người khác, họ tự nguyện ban
cho những tài sản của chính họ, những kho tàng nghiệp quả đạo đức sẽ sinh ra những
kết quả an lạc cho chính họ, và bất cứ thứ gì khác có thể thích đáng mà không
có một mảy may nghĩ rằng “Đây là của tôi.” Các ngài quan tâm đến lợi ích của chúng sinh
khác trong mọi khía cạnh ứng xử của các ngài, bất chấp hoạt động của thân thể,
lời nói, hay tâm tư là gì mà các ngài dấn thân vào. Ngay cả trong hơi thở ra và hởi thở vào. Những người này thật sự có sức mạnh phi thường
của tâm để phát sinh ra lòng vị tha như vậy. Đây là tại sao những vị bồ tát được biết như “những vị anh hùng
quán chiếu giác ngộ”.
Mặc
dù thật khó khăn để đạt đến phạm vức vị
tha trọn vẹn ngay lập tức, nhưng chúng ta có thể hành động trên những thiên hướng lợi ích đối với lòng vị
tha. Ngay cả nếu những ai chỉ biết một
ít hay không biết gì cả về việc phát triển tâm linh mà làm việc với thái độ này
– là điều thật sự là con đường duy nhất của chư Phật quá khứ, hiện tại và tương
lai – những người này cuối cùng thân
chứng
giác ngộ, vượt thắng cả những chướng ngại đến giải thoát khỏi phạm vi của khổ
đau (phiền não chướng) và những rào cản của tuệ trí trọn vẹn (sở tri chướng).
BIẾT TỰ THÂN VÀ
NGƯỜI KHÁC KHỔ ĐAU NHƯ THẾ NÀO
Việc
trau dồi từ ái đòi hỏi sự thấu hiểu rằng tất cả chúng sinh muốn hạnh phúc, và tất
cả chúng sinh bị vây quanh bởi khổ đau. Không xác định mỗi loại khổ đau, không có cách nào để yêu thương từ ái
mà chỉ cục bộ. Thật dễ dàng để cảm thấy
một cấp độ của từ ái và bi mẫn cho một người ở trong tình cảnh khốn cùng cơ cực một các rõ ràng, nhưng thật khó
khăn để động lòng trắc ẩn với ai đấy sống trong cảnh sang giàu. Đây là một dấu hiệu
mà chúng ta không nắm bắt phạm vi của khổ đau, rằng chúng ta không thấu hiểu ý
nghĩa của vòng sinh tử luân hồi là gì.
Những
loại khổ đau nào chúng ta chịu đựng? Những
đau đớn thông thường (khổ khổ), khổ đau từ sự đổi thay (hoại khổ), và những kết
quả bất hạnh từ những điều kiện lan tỏa cùng khắp (hành khổ). Tất cả chúng ta đều biết đau khổ tinh thần và
thân thể – từ đau đầu đến đau lưng đến những cảm nhận đau đớn. Mọi người đều muốn thoát khỏi nó. Khó hơn nhiều để nhận ra khổ đau từ đổi
thay. Sự thật đơn giản rằng hầu hết những
niềm hoan lạc thông thường dễ dàng biến thành đau khổ nếu bị lạm dụng cho thấy
rằng những niềm vui tạm thời này có bản chất tiềm tàng của khổ đau. Thí dụ, nếu một bửa ăn ngon thật sự có bản chất
vui sướng nội tại, thế thì bất chấp chúng ta ăn bao nhiêu, chúng ta sẽ cảm thấy
vui mừng hơn và vui thú hơn. Tuy nhiên,
khi chúng ta ăn quá độ ngay cả những thức ăn tốt nhất, chúng ta đau khổ. Thật khó khăn để nghĩ về một kinh nghiệm vui
thú rằng có phải quá đam mê, thì không có bản chất đau khổ bên trong chứ?
Vượt
khỏi nổi đau đớn và khổ sở thông thường của đổi thay, có một cấp độ sâu xa hơn
của khổ đau khó khăn nhất để nhận ra chẳng hạn như – đấy là khi điều gì đấy
chúng ta cần chiến thắng. Được gọi
“điều kiện lan tỏa cùng khắp,”sự thật rằng tâm và thân của chúng ta
không hoàn toàn hoạt động dưới sự kiểm soát của chúng ta mà dưới ảnh hưởng của
nghiệp chướng (những khuynh hướng được tại ra bởi những hành động trước đây) và
những cảm xúc chẳng hạn như tham dục và sân hận. Trong đời sống bình thường chúng ta được sinh
ra từ – trong ảnh hưởng lan tỏa cùng khắp của nghiệp chướng và cảm xúc phiền
não. Ngay cả khi chúng ta không đang
nghĩ bất cứ điều gì, thì chúng ta vẫn ở dưới sự khống chế của các nguyên nhân
và điều kiện vượt khỏi sự kiểm soát của chúng ta – chẳng hạn trong một vòng xoay nghiêng về phía khổ đau. Khi chúng ta nhận ra rằng vòng xoay này làm
cho chúng ta dễ mắc phải tất cả những loại
sự kiện không muốn, chúng ta muốn thoát khỏi vòng lẫn quẩn này một cách cực độ
như muốn lấy đi một hạt bụi trong mắt [đang làm xốn xang].
Khổ
đau là một loại truyền nhiễm mà tất cả chúng ta có. Bằng việc chẩn đoán ba loại khổ đau này, chúng ta có thể cuối cùng
thấy rõ phạm vi trọn vẹn của loại bệnh truyền nhiễm này.
CÁNH
CỬA SUY NGHĨ LẠI CỦA THỨC
Vì thức thông thường đưa đến khổ đau, chúng ta
hãy nhìn vào những thể trạng khác nhau của tâm. Tâm của những hành vi thông thường rất thô. Khi chúng ta rơi vào giấc ngủ và nằm mơ, có một
trình độ vi tế hơn của thức. Một cách rõ ràng, giấc ngủ không mơ là một loại
khác nữa, loại thức vi tế hơn. Có ba loại
thể trạng của tâm cùng xảy ra trong khi thân thể còn thở, trái lại trong cơn chết
ngất có những trường hợp khi hơi thở dừng
lại, và tâm trở nên thậm chí vi tế hơn.
Cuối
cùng, vào lúc chết tâm vi tế nhất được biểu hiện. Khi năng lực của nghiệp đưa đến đời sống hiện
tại của chúng ta bị sử dụng hết, chúng ta sẽ chết. Trong khoảng thời gian này sức nóng dần dần
di chuyển từ chân tay đầu mũi của thân thể đến trái tim, nơi mà một thức cực vi tế tự biểu hiện trước khi thức
cuối cùng xuất ra.
Khi
thức vi tế nhất này chấm dứt, trạng thái trung ấm giữa những đời sống bắt đầu. Vào lúc này, khi một thân trung ấm giữa đời sống
cũ và đời sống tương lại, chúng tiếp nhận hình thể của đời sống kế tiếp và tìm
kiếm một nơi để tái sinh. Nếu chúng ta
tái sinh như một con người, chúng ta đến nơi mà người đàn ông và đàn bà có nghiệp
quả là cha mẹ của chúng ta đang ăn nằm với nhau. Chúng ta tiếp cận với tham dục, thèm muốn người
mẹ nếu chúng ta tái sinh như một cậu bé và thèm khát người cha nếu chúng ta tái
sinh như một cô gái. Chúng ta xông vào họ
để tiến hành việc dục tình. Khi chúng ta
không thể thỏa mãn dục tình, chúng ta trở nên sân giận, và đời sống như một
thân trung ấm bị chấm dứt. Chúng ta tái
sinh vào đời sống kế tiếp.
Một
lần nữa, chúng ta sinh ra, già đi, bệnh tật, và chết. Tiến trình giống nhau lập lại hết lần này đến
lần khác. Ngay cả giữa những đời sống
chúng ta tích tập nghiệp thức mỗi giây phút.
Nguyên
nhân nào của sự kế tục lần lượt nhiều hình thể khổ đau này? Những cảm xúc buồn khổ – chính yếu từ ba loại
thuốc độc: tham dục, thù hận, và si mê – và những hành động tuôn chảy từ những
phiền não ấy, chẳng hạn như mười hành vi bất thiện đã nói trước đây.
Thiền Quán
1- Phản chiếu
trên sự kiện rằng trong chính đời sống của chúng ta, một cách tự nhiên chúng
ta muốn vượt thắng những nổi đau khổ rõ
ràng của bệnh tật, tuổi già, và chết. Nghĩ về những nổi khổ đau đặc thù nào đấy về thân thể hay tinh thần.
2- Nghĩ về những
niềm vui sướng thông thường. Có phải
chúng vui sướng trong chúng và tự chúng? Hay có phải đúng là, nếu theo đuổi một cách liên tục, chúng sẽ biến
thành khổ đau? Nếu đúng thế, điều này
phơi bày một bản chất sâu xa hơn của đau khổ.
3- Lưu tâm đến vấn
đề sẽ dễ chịu thế nào nếu vượt khỏi việc bị lừa dối bởi những niềm vui thú
thông thường.
4- Gợi nhớ lại một
niềm vui đã biến thành đau khổ. Phản chiếu
trên vấn đề bản chất sâu xa của vui sướng tự phơi bày như thế nào. Quyết tâm rằng, trong tương lai khi một trường
hợp biến thành đau khổ, chúng ta sẽ nhận ra rằng bản chất nội tại của nó đã tự
biểu hiện.
5- Lưu tâm rằng
chúng ta đang bị vướng trong một tiến trình lan tỏa cùng khắp của nhân duyên vượt
khỏi sự kiểm soát của chúng ta, và thấy nó làm cho chúng ta dễ mắc phải nghiệp chướng và những hành vi
phiền não là những hình thức của khổ đau. Khi chúng ta muốn xóa tan điều kiện này cũng như chúng ta muốn thoát khỏi
đau khổ thân thể nh hạt bụi trong mắt và đau khổ tinh thần nổi buồn khổ của việc
xa lìa người thân yêu, chúng ta sẽ thấu hiều phạm vi trọn vẹn của khổ đau trong
kiếp sống luân hồi.
MỞ RỘNG SỰ THẤU
HIỂU NÀY ĐẾN NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Bằng
việc thấu hiểu phạm vi và chiều sâu nổi khổ của chính mình, chúng ta đạt được một sự lượng định tiến trình đối với việc từ bỏ đam mê trong những hiện tướng thú vị của kiếp sống này và với việc cố gắng một cách thật mạnh mẽ cho những trường hợp tốt
lành của những kiếp sống tương lai. Thay
vì thế, chúng ta bắt đầu tìm kiếm sự giải thoát khỏi toàn bộ tiến trình sinh tử
luân hồi. Việc tìm kiếm cho giải thoát
phải được truyền cảm với lòng vị tha. Bằng
khác đi, sẽ có hiểm họa rằng tâm sẽ bị làm chệch hướng đối với việc muốn một thể
trạng hòa bình tĩnh lặng và giải thoát khỏi khổ đau cho riêng mình.
Hãy
mở rộng nhận thức về những hình thức đa dạng của vòng luân hổi chính chúng ta đến
những chúng sinh khác và phát triển lòng từ ái cùng bi mẫn cho họ. Hiến dâng chính mình trong việc giải thoát
người khác khỏi khổ đau và giúp đở người khác đạt đến hạnh phúc. Như đại hành giả Tây Tạng ở thế kỷ mười bốn
là Tông Khách Ba đã nói:
Nếu tâm tư chúng
ta chưa bị tiêm nhiễm bởi việc suy nghĩ về những cung cách mà chính chúng ta
quanh quẩn trong vòng sinh tử luân hồi, thế thì khi chúng ta suy nghĩ về những
khổ đau này trong những chúng sinh khác, không có cách nào mà chúng ta như những
người sơ cơ có thể thấy nổi đau khổ không thể chịu nổi của họ. Do vậy, trước nhất chúng ta phải nghĩ về những
thứ này trong chính mình, và sau đấy thiền quán về chúng trong những chúng sinh
khác.
Việc
quán chiếu trên vấn đề người khác bị vướng trong cõi luân hồi như thế nào cùng
cách như thế chúng ta sẽ gia tăng lòng bi mẫn tự nhiên. Chúng ta và tất cả chúng sinh muốn hạnh phúc
và không muốn khổ đau. Bất chấp chúng ta
là quan trọng như thế nào, tự mình chỉ là một người. Do vậy, khuynh hướng trong việc tìm cầu để đạt
đến sự phát triển cá nhân trọn vẹn, tinh thần và thân thể, phải có sự có mặt của
những số lượng rộng lớn các chúng sinh đạt đến sự thư thái và giải thoát. Đây là động cơ mà một hành giả tâm linh cần
mang đến cho mỗi cố gắng.
Thiền Quán
1- Đem vào tâm một
người thân và phản chiếu trên vấn đề người này khổ sở tinh thần và thân thể như
thế nào, khổ đau từ việc thấy một cách sai lầm những niềm vui thú thông thường
như có một bản chất hạnh phúc nội tại, và khổ đau từ việc bị vướng mắc trong tiến
trình của sự chết và tái sinh vượt khỏi sự kiểm soát của người ấy, cũng như
chúng ta.
2- Mở rộng sự quán chiếu này đến những người
thân mến, bạn hữu, từng người một.
3- Mở rộng xa
hơn đến một vài người trung tính (không thân không oán), từng người một.
4- Lưu tâm đến vấn
đề những kẻ thù khổ sở tinh thần và thân thể tối thiểu như thế nào, khổ đau từ
việc thấy một cách sai lầm những niềm vui thú thông thường như có một bản chất
hạnh phúc nội tại, và khổ đau từ việc bị vướng mắc trong tiến trình của sự chết
và tái sinh vượt khỏi sự kiểm soát của người ấy, cũng như chúng ta.
5- Chậm rãi mở rộng
điều này đến càng nhiều người đã làm tổn hại chúng ta và người thân của chúng
ta.
Chúng
ta sẽ thấy rằng trải qua hàng tuần hàng tháng, thái độ của chúng ta đối với người
khác sẽ trở nên lành mạnh hơn và thực tế hơn. Tham dục và thù hận là không thực tế. Từ ái và bi mẫn là thực tế. Những
rào cản sẽ bị biến mất.
tác: The
Fourth Step: Learning to Love trích từ quyển How to Expand Love Ẩn
Tâm Lộ ngày 3-3-2012
Bài
liên hệ:
9-
Khác biệt giữa từ ái và luyến ái
[1] Phụ
giải của Tuệ Uyển
Discussion about this post